Khái niệm hội phụ nữ việt nam là gì
SKĐS - Ngày 20/10 được chọn là Ngày Phụ nữ Việt Nam cho thấy sự coi trọng của Đảng và toàn xã hội với vai trò, đóng góp quan trọng của người phụ nữ Việt.Nguồn gốc Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10Ngày 20/10/1930, Hội Phụ nữ phản đế Việt Nam (nay đổi tên là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) chính thức được thành lập. Để đánh dấu sự kiện này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20/10 hàng năm làm ngày truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Đây cũng là ngày kỷ niệm và tôn vinh phụ nữ Việt Nam, lấy tên là "Ngày Phụ nữ Việt Nam". Show
Trong suốt chiều dài lịch sử nước ta, người phụ nữ Việt Nam đã và đang khẳng định được vị thế quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng, phát triển đất nước. Khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập, cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã đề cập đến việc nam nữ bình quyền. Điều này có nghĩa là, phụ nữ cũng trở thành lực lượng quan trọng trong cách mạng với nhiệm vụ đề ra rằng: Đảng phải giải phóng phụ nữ, gắn liền với sứ mệnh giải phóng dân tộc và giải phóng các giai cấp. Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 là ngày tôn vinh phụ nữ Việt Nam. Ngày 20/10 được chọn là ngày Phụ nữ Việt Nam cho thấy sự coi trọng của Đảng và toàn xã hội với vai trò, đóng góp quan trọng của người phụ nữ Việt. Ý nghĩa ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 là ngày mà lần đầu tiên trong lịch sử đất nước, một tổ chức riêng dành cho phụ nữ được hoạt động hợp pháp và công khai, nhằm động viên lực lượng phụ nữ đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng. Đây cũng là ngày mà lần đầu tiên, người phụ nữ Việt Nam được cầm lá phiếu bầu cử, tham gia các công tác chính quyền và xã hội, nắm giữ nhiều trọng trách trong bộ máy Nhà nước. Trong công cuộc giải phóng đất nước, phụ nữ Việt Nam không chỉ là hậu phương vững chắc, cống hiến cho đất nước những người chồng, người con xuất sắc, mà họ còn là những chiến sĩ kiên cường, anh dũng trên tiền tuyến. Trong thời bình, phụ nữ Việt Nam có những đóng góp quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước, như lời Bác Hồ từng nói: "Giang sơn gấm vóc Việt Nam là do phụ nữ Việt Nam, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ". Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 hàng năm là ngày đất nước, xã hội ghi nhận và vinh danh những đóng góp to lớn của các bà, các mẹ, các cô, các chị, các em - những người phụ nữ Việt Nam xứng đáng với 8 chữ vàng: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang". Dịp lễ 20/10 cũng là cơ hội cho nam giới thể hiện tình cảm, gửi gắm yêu thương vào những món quà ý nghĩa dành cho mẹ, vợ, con gái… Chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Hệ thống tổ chức và tư cách pháp nhân của các cấp Hội. Nhiệm vụ của hội viên và Hội Phụ nữ Việt Nam. Tổ chức thành viên Hội Phụ nữ Việt Nam. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội, đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ. Với gần 17 triệu hội viên1, có hệ thống tổ chức Hội 4 cấp và mạng lưới các chi, tổ ở tất cả các xã, thôn, bản trên cả nước, có đội ngũ cán bộ nhiệt tình, trách nhiệm và có kinh nghiệm trong các hoạt động phát triển cộng đồng. Mạng lưới hội viên phụ nữ rộng lớn của Hội là lực lượng mạnh mẽ góp phần không nhỏ trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa phương. Là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Hội, Hội đã tích cực, chủ động và trách nhiệm trong thực hiện Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc. 1. Khái niệm Hội liên hiệp phụ nữHội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (Hội) là tổ chức chính trị – xã hội trong hệ thống chính trị, có tư cách pháp nhân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới. Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN. Từ những tổ chức tiền thân cho đến ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội đoàn kết, vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 2. Hệ thống tổ chức và tư cách pháp nhân của các cấp HộiHội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam gồm 4 cấp:
2. Trung ương Hội; Hội Liên hiệp Phụ nữ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Hội Liên hiệp Phụ nữ các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Hội Liên hiệp Phụ nữ các xã, phường, thị trấn có tư cách pháp nhân độc lập, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. 3. Nhiệm vụ của hội viên và Hội Phụ nữ Việt NamNhiệm vụ của hội viên 1. Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân. 2. Chấp hành Điều lệ Hội, tích cực tham gia sinh hoạt và các hoạt động Hội, đóng Hội phí theo quy định của Điều lệ. 3. Học tập nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt, giữ gìn uy tín và xây dựng tổ chức Hội vững mạnh. 4. Đoàn kết, giúp nhau trong công tác, học tập, lao động, đời sống, xây dựng gia đình hạnh phúc, phấn đấu thực hiện bình đẳng giới. Hội Liên hiệp phụ nữ có nhiệm vụ sau: 1. Tuyên truyền, vận động, giáo dục phụ nữ giữ gìn, phát huy phẩm chất đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và phụ nữ Việt Nam; tổ chức, tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực về mọi mặt, tích cực thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. 2. Tham gia xây dựng phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ; tham mưu, đề xuất với Đảng, nhà nước về công tác phụ nữ tạo điều kiện để phụ nữ bình đẳng và phát triển. 3. Tập hợp các tầng lớp phụ nữ, phát triển hội viên, xây dựng tổ chức Hội vững mạnh; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 4. Đa dạng hóa các nguồn thu hợp pháp để xây dựng và phát triển quỹ Hội bền vững, hỗ trợ hoạt động của Hội. 5. Đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ trong khu vực và thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban Chấp hành, Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Ban Chấp hành Trung ương Hội có nhiệm vụ và quyền hạn:
đ. Bầu Đoàn Chủ tịch trong số ủy viên Ban Chấp hành, bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch trong số các ủy viên Đoàn Chủ tịch;
Đoàn Chủ tịch có nhiệm vụ và quyền hạn:
Thường trực Đoàn Chủ tịch (gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch) có nhiệm vụ và quyền hạn:
Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh, cấp huyện 1. Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh, cấp huyện có nhiệm vụ và quyền hạn:
đ. Ban Chấp hành họp sáu tháng một lần, khi cần có thể họp bất thường. 2. Ban Thường vụ có nhiệm vụ và quyền hạn:
3. Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh, cấp huyện (gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch) có nhiệm vụ và quyền hạn:
Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở Ban Chấp hành có nhiệm vụ và quyền hạn:
đ. Bầu Ban Thường vụ trong số ủy viên Ban Chấp hành cùng cấp; bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch trong số ủy viên Ban Thường vụ cùng cấp;
Ban Thường vụ có nhiệm vụ và quyền hạn:
3. Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ các xã, phường, thị trấn là cán bộ chuyên trách chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Hội, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. 4. Tổ chức thành viên Hội Phụ nữ Việt Nam1. Các tổ chức phụ nữ Việt Nam hợp pháp ở trong nước tán thành Điều lệ Hội và tự nguyện gia nhập Hội thì được công nhận là tổ chức thành viên của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh có thẩm quyền xem xét quyết định việc công nhận và thôi công nhận tổ chức thành viên. 2. Hội viên của các tổ chức thành viên là hội viên của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. 3. Quyền của tổ chức thành viên:
4. Nhiệm vụ của tổ chức thành viên:
5. Vai trò giám sát và phản biện xã hộiTrong thực hiện vai trò giám sát Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát việc thực thi các chính sách bình có liên quan tới đẳng giới được coi là trung tâm vì vị thế đặc biệt của Hội Liên hiệp Phụ nữ trong hệ thống chính trị và xã hội của Việt Nam. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã chủ trì giám sát 10 nội dung với 28 đoàn giám sát tại 26 tỉnh và 02 bộ ngành. Trong 5 năm, Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh, huyện, xã đã chủ trì thành lập đoàn giám sát 15.601 cuộc; trong đó, cấp tỉnh chủ trì thành lập đoàn giám sát 523 cuộc; cấp huyện chủ trì thành lập đoàn giám sát 2.438 cuộc; cấp xã chủ trì thành lập đoàn giám sát 12.640 cuộc. Ngoài ra, các cấp Hội giám sát bằng các hình thức khác, như nghiên cứu xem xét văn bản; tham gia các đoàn giám sát của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (Quốc hội, Hội đồng nhân dân, cơ quan quản lý nhà nước); qua đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ảnh; quan sát, tìm hiểu, giao tiếp. Trong thực hiện vai trò phản biện xã hội Từ năm 2014 đến nay, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tập trung phản biện xã hội nhiều dự thảo luật, dự thảo báo cáo quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến phụ nữ, trẻ em, bình đẳng giới, như: dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi); dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tổ chức 06 Hội thảo tham vấn ý kiến chuyên gia, đại biểu các ngành và cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp tại 6 tỉnh; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các tỉnh, thành tổ chức được 7.809 cuộc góp ý kiến với tổng số 3.287.039 người tham gia, dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình; dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội, dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi), dự thảo Luật Trẻ em; dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các cơ quan đại diện nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; dự thảo Luật Trợ giúp pháp lý; dự thảo Luật Tiếp cận thông tin; dự thảo Báo cáo mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2017, Luật Giáo dục (sửa đổi), Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi)… Ngoài ra Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp ở địa phương đã tích cực tham gia phản biện xã hội, góp ý vào các dự thảo văn bản pháp luật, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cấp địa phương. |