So sánh tiếng hát con tàu và đất nước
Nhà thơ Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh năm 1920, tại Cam Lộ, Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, Bình Định. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay “Điêu tàn”. Từ đây, tên tuổi của ông vụt sáng trên thi đàn Việt Nam. Năm 1939, Chế Lan Viên ra học tại Hà Nội, sau vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, Chế Lan Viên tham gia phong trào cách mạng tại Bình Định, Thừa Thiên – Huế, viết bài và làm biên tập cho các báo “Quyết thắng”, “Cứu quốc”, “Kháng chiến”. Năm 1949, Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo “Văn học”. Ông từng là Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, là đại biểu Quốc hội các khóa IV, V, VI, VII; Ủy viên Ban Văn hóa – Giáo dục của Quốc hội. Sau năm 1975, Chế Lan Viên vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19/6/1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật. 1.2. Sự nghiệp sáng tác nhà thơ Chế Lan ViênCác tác phẩm tiêu biểu của ông như Điêu tàn (1937), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường – chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Hoa trên đá (1984).. vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. 1.3. Phong cách sáng tác của Chế Lan ViênThơ Chế Lan Viên giàu chất suy tưởng và vẻ đẹp trí tuệ, tác giả thường sử dụng thủ pháp nghệ thuật tương phản đối lập, sáng tạo ra những hình ảnh đẹp mới lạ và ngôn ngữ sắc sảo. 2. Bài thơ Tiếng hát con tàu2.1. Hoàn cảnh sáng tácBài thơ “ Tiếng hát con tàu” được Chế Lan Viên sáng tác vào năm 1960, Bài thơ được lấy cảm hứng từ một sự kiện kinh tế- xã hội trong những năm 1958 — 1960: phong trào vận động miền xuôi lên xây dựng kinh tế miền núi (đặc biệt là vùng núi Tây Bắc). Bài thơ được in trong tập “Ánh sáng và phù sa”, xuất bản 1960. 2.2. Chủ đềBài thơ là lời giục giã, thôi thúc khát vọng đi đến cuộc sống mới đang rộng mở, là tiếng gọi đến với nhân dân đậm tình, nặng nghĩa để khơi dậy nguồn thơ ca. 2.3. Bố cụcBài thơ có thể chia làm 3 khúc hát
2.4. Ý nghĩa nhan đề bài thơ:Tiếng hát con tàu” là một nhân hóa mang ý nghĩa biểu tượng:
→ Đây là con tàu tâm hồn đi suốt bài thơ thành biểu tượng sinh động cho cảm xúc chủ đạo của tác giả: Khúc hát lên đường đến với nhân dân, đất nuớc và ngọn nguồn của sáng tạo thơ ca. 2.5. Nghệ thuật
2.6. Nội dungBài thơ thể hiện khát vọng, niềm hân hoan trong tâm hồn nhà thơ khi trở về với nhân dân, đất nước, cũng là tìm thấy nguồn nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo nghệ thuật cho hồn thơ. II. Tìm hiểu “Tiếng hát con tàu”1. Lời tựa đềBốn câu thơ chứa đựng hai hình ảnh: Tổ quốc và nhân dân:
→ 4 câu thơ thể hiện sự gắn bó giữa con người với Tổ quốc – con người mang khát vọng mãnh liệt như con tàu hối hả lăn bánh về phía đất nước, nhân dân. Như vậy, nhan đề bài thơ có 2 ý nghĩa:
2. Khúc hát 1: (2 khổ đầu): Sự trăn trở mời gọi của con tàu tâm tưởng:Với nghệ thuật phân thân (cách nhà thơ tự tách đôi dòng cảm xúc của mình), bằng cách tự vấn qua hàng loạt câu hỏi: .. anh đi chăng? → anh có nghe ? → sao chưa ra đi? → gợi âm điệu hối thúc, giục giã và các câu trả lời: Tàu đói.. vầng trăng” “Đời anh nhỏ hẹp …”, “Chẳng có thơ đâu …” → Tạo thể đối lập giữa phê phán và mời gọi. Giong thơ: vừa day dứt, vừa giục giã … → Đoạn thơ là sự lấy đã, chuẩn bị tâm lý, chuẩn bị trí tuệ, ý chí khởi động cảm xúc cho con tàu tâm hồn trước giờ “lăn bánh” vào cuộc hành trình lớn lao và thiêng liêng. 3. Khúc hát 2 ( 9 khổ giữa ): Khúc hát hoài niệm của con tàu tâm hồn khi trở về Tây BắcKhung cảnh thiên nhiên, con người Tây Bắc nay đã đổi thay. Đến với Tây Bắc là đến vùng đất thân yêu của tâm hồn mình, là cuộc hành trình về với Mẹ nhân dân – Mẹ Tổ quốc thân yêu. Kỉ niệm về đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc được tác giả nhắc lại qua hình ảnh của những con người cụ thể (người anh du kích, bà mẹ tóc bạc, người em nhỏ liên lạc…). Sự cưu mang, đùm bọc, tình yêu thương chân thành của người dân Tây Bắc như đã tiếp thêm sức mạnh cho nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và để lại những kỉ niệm sâu sắc không thể nào quên. Thể hiện được rõ nét về niềm khao khát mãnh liệt và niềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi trở về với nhân dân. Từ những kỉ niệm ân tình với đồng bào vùng cao Tây Bắc, tác giả đã nâng lên thành những suy ngẫm, những chiêm nghiệm giàu sức khái quát, những chân lý được rút ra từ trải nghiệm của chính mình:
Nhà thơ đã rất sáng tạo khi nói về nhân dân, về tình yêu con người, tình yêu cuộc sống. Sử dụng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ có tính đa nghĩa. Nhịp điệu thơ biến đổi linh hoạt, vừa sôi nổi vừa da diết, lắng sâu. 4. Khúc hát 3 ( 4 khổ cuối ): Khúc hát lên đường sôi nổi, say mê của con tàu tâm hồnTiếng gọi của đất nước, của nhân dân, của đời sống đã thành sự thôi thúc mãnh liệt, thành lời giục giã của chính lòng mình “Đất nước gọi hay là lòng ta gọi?” nên càng không thể chần chừ và nó trở thành nỗi khát khao không thể cưỡng lại được “Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga/ Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng“. Nỗi khát khao ấy đã thúc giục tâm hồn nhà thơ trở về với Tây Bắc vì đó là sự trở về với ngọn nguồn của hồn thơ, của cảm hứng sáng tạo: Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ Âm hưởng của câu thơ lôi cuốn trùng điệp thể hiện sự say mê, niềm tin tưởng của nhà thơ khi trở về với nhân dân, với Tổ quốc “Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng, tiếng hát/ Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.” |