Cuộc sống thịnh vượng là gì
Con đường dẫn đến sự thịnh vượngNguyễn Trần BạtChủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group Có thể nói, trên thế giới có bao nhiêu quốc gia, có bao nhiêu dân tộc và có bao nhiêu con người là có bằng ấy ước mơ, bằng ấy khát vọng. Mỗi một ước mơ, mỗi một khát vọng đều xuất phát từ những hoàn cảnh lịch sử riêng. Nhưng dường như mơ ước về sự thịnh vượng luôn là mục tiêu chung của con người. Nói cách khác, con người có nhiều khát vọng nhưng có một khát vọng giống nhau giữa các cộng đồng dân tộc là khát vọng về sự thịnh vượng. Mỗi một dân tộc lại được hình thành bằng một lịch sử riêng, do vậy, mỗi dân tộc lại có một con đường riêng đi tìm kiếm sự thịnh vượng nhưng trong bối cảnh quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ thì có gì chung giữa các con đường đi đến sự thịnh vượng của các dân tộc? Và nếu có thì con đường ấy như thế nào? Tôi cho rằng, chưa bao giờ thế giới đang xích lại gần nhau hơn thời đại này, do vậy, con đường đi đến sự thịnh vượng của các dân tộc đang có rất nhiều điểm tương đồng. Chưa thời điểm nào thuận lợi hơn thời điểm này để các dân tộc có thể cùng nhau hoạch định ra một lộ trình chung đi đến sự thịnh vượng. Tất nhiên, không thể hoạch định một cách máy móc từng bước của con đường ấy cũng như coi nó như là con đường duy nhất của mọi dân tộc, bởi cuộc sống là đa dạng. Nhưng nếu chúng ta có thể tiệm cận đến nó, tìm ra các nhân tố và các cách thức để vươn tới nó thì chúng ta sẽ vươn tới nó nhanh hơn. Và để làm được điều đó, trước hết, mỗi con người, mỗi dân tộc cần phải nắm rõ bản chất khái niệm thịnh vượng, tìm ra hệ tiêu chuẩn của sự thịnh vượng, tiếp nữa phải truy đến nguồn gốc cũng như con đường dẫn đến sự thịnh vượng để từ đó, nhận thức được và không bỏ lỡ các cơ hội thịnh vượng của mình. I. KHÁI NIỆM SỰ THỊNH VƯỢNGNghiên cứu sự thịnh vượng, cũng như rất nhiều nghiên cứu những phạm trù khác, bao giờ cũng phải bắt đầu từ những đối tượng có thể xác lập một kích thước về nó. Về mặt ngữ nghĩa học, thịnh vượng là sự đầy đủ của cuộc sống. Nhưng vấn đề là cuộc sống của ai? Có một thời người ta cho rằng sự thịnh vượng của một quốc gia được thể hiện bằng sự hùng mạnh của nhà nước. Tuy nhiên, nếu coi sự thịnh vượng đồng nghĩa với sự hùng mạnh của nhà nước thì rõ ràng với lực lượng quân đội hơn một triệu người và những cuộc duyệt binh hùng hổ thì Bắc Triều Tiên có thể tuyên bố mình là một quốc gia thịnh vượng. Nhưng khi có gần hai triệu người chết đói trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI thì người ta buộc phải nhìn nhận lại đó có phải là một quốc gia thịnh vượng hay là một quốc gia nghèo đói và đầy rẫy mâu thuẫn, khủng hoảng? Và chúng ta buộc phải nhận thức rằng một quốc gia thịnh vượng không phải là quốc gia có một nhà nước hùng mạnh, gây e sợ cho các quốc gia lân cận, cũng không phải là nơi có lực lượng quân đội hùng mạnh mà là một xã hội giàu có, con người sung sướng và hạnh phúc. Thịnh vượng chính là từ để mô tảmột đất nước có nền kinh tế phát triển tốt, có đời sống chính trị lành mạnh và nhân dân có hạnh phúc. Như vậy, thịnh vượng là khái niệm bao gồm trong nó sự đầy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần. Phải nói như vậy là bởi ở rất nhiều nơi, đặc biệt là những quốc gia còn nghèo đói, lạc hậu người ta thường xem những thành tựu về kinh tế, về thu nhập, về tài sản như những dấu hiệu cơ bản để đánh giá sự thịnh vượng. Đã có thời, sự thịnh vượng về vật chất được coi là một biểu hiện quan trọng của sự thịnh vượng và quan niệm này phổ biến đến mức người ta cho rằng phải có sự giàu có về vật chất rồi mới có sự phong phú về mặt tinh thần, tức là vật chất quyết định tinh thần. Sở dĩ có những quan niệm như vậy là do, trong thời kì tốc độ tăng trưởng, tốc độ phát triển còn thấp, người ta nhận thức sự tăng trưởng vật chất một cách hạn hẹp. Hơn nữa, do sự cát cứ về mặt địa lý, con người chưa có cơ hội so sánh để nhận biết mình đang ở đâu trong tiến trình phát triển của thế giới. Do vậy, khi quan niệm như vậy thì người ta cũng đồng thời cho rằng sự thịnh vượng của một quốc gia là sự giàu có về kinh tế và do đó, tự do kinh tế là con đường dẫn đến sự thịnh vượng. Tất nhiên, điều đó là đúng nhưng chưa đủ vì rõ ràng là, người ta không thể nói đến sự thịnh vượng mà không có vật chất, người ta không thể nói đến sự giàu có phi vật chất. Thậm chí, tất cả những ai lờ đi sự thịnh vượng về mặt vật chất và cường điệu những mặt còn lại của sự thịnh vượng thì đấy là những người không dám nhìn vào sự thật. Nhưng sự giàu có chỉ là một biểu hiện của sự thịnh vượng chứ không phải là tất cả sự thịnh vượng, đôi khi nó còn là một biểu hiện hẹp, bởi xét cho cùng, giàu có để làm gì nếu con người không tìm thấy cảm giác hạnh phúc trong sâu thẳm tâm hồn mình? Và cảm giác hạnh phúc trong tâm hồn mỗi con người chỉ đến khi con người đạt đến sự thịnh vượng về đời sống tinh thần. Và đây chính là một nửa còn lại, một nửa rất quan trọng của khái niệm thịnh vượng. Nó, thậm chí còn là khởi nguồn của mọi sự sáng tạo mang tính nhân văn, của mọi sự sáng tạo mang tính đột phá trong quá trình phát triển của nhân loại. Bởi nếu không có những động lực tinh thần thì con người không có đủ cảm hứng để tưởng tượng và sáng tạo. Sự thịnh vượng về đời sống tinh thần được thể hiện trên rất nhiều khía cạnh đa dạng của cuộc sống như khoa học kỹ thuật, hay trên các lĩnh vực như kiến trúc, âm nhạc, hội họa... Ở hầu hết các nước phát triển, con người có một lịch sử kiến trúc, một lịch sử âm nhạc, lịch sử hội họa rất rực rỡ. Nhưng ngay cả sự hoàn mỹ về mặt văn hóa nghệ thuật vẫn chưa phải là mức độ cuối cùng của khái niệm thịnh vượng. Con người còn muốn vươn tới những giới hạn cao hơn, những giới hạn cao hơn đấy liên quan đến các khái niệm, tôn giáo, triết học, tư tưởng, thậm chí cao hơn nữa là vươn tới các ảnh hưởng bên ngoài các quốc gia. Nói cách khác, sự thịnh vượng ấy tác động đến quá trình phát triển của thế giới. Như vậy, thịnh vượng là một khái niệm chứa đựng đầy đủ các yếu tố, đó là sự bùng nổ về mặt vật chất, sự hoàn mỹ nội tại về mặt tinh thần cộng với những ảnh hưởng của cả khối vật chất, tinh thần của mình đến những người xung quanh hay những cộng đồng lân cận. Nói như thế không có nghĩa là sự thịnh vượng về tinh thần thay thế được sự thịnh vượng về vật chất hay quyết định sự thịnh vượng về vật chất mà sự thịnh vượng về vật chất và sự thịnh vượng về tinh thần là hai mặt của một khái niệm thịnh vượng đầy đủ, nó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau bởi sự thịnh vượng là biểu hiện cho cái đẹp tổng hợp của cuộc đời. Nếu không tập hợp được những yếu tố hợp lý, những cái đẹp thì không có sự thịnh vượng. Thịnh vượng là một cơ cấu chặt chẽ của các yếu tố hợp lý, của những cái đẹp trong cuộc đời mà mỗi cá nhân phải tự tạo nên cho chính bản thân mình. Vậy, để xác định được các mục tiêu phát triển thì con người phải xác lập được những tiêu chuẩn của sự thịnh vượng. II. HỆ TIÊU CHUẨN CỦA SỰ THỊNH VƯỢNGThịnh vượng là khái niệm được xây dựng trên một tập hợp chỉ tiêu của các lĩnh vực như kinh tế, văn hoá, chính trị, giáo dục... Mặc dù các nhóm chỉ tiêu này không phải lúc nào cũng phản ánh đầy đủ sự thịnh vượng của một quốc gia nhưng nó là cơ sở, là nền tảng để nhìn vào đó, người ta biết rằng quốc gia này có thịnh vượng không, ngày mai có thịnh vượng không và có thịnh vượng lâu dài không? 1. Những chỉ số phát triểnSự thịnh vượng, trước hết, được thể hiện ở nhóm chỉ tiêu về kinh tế, bao gồm tốc độ tăng GDP, chỉ số tự do kinh tế, mức sống của con người, sự phân bố mức sống ấy trong cộng đồng dân tộc, tư nhân hóa thị trường... Nhưng tựu chung lại, sự thịnh vượng về mặt kinh tế thể hiện rõ rệt nhất ở sức mua của xã hội. Khi xã hội có sức mua tức là xã hội đã có nhu cầu về cung ứng. Một xã hội đã có nhu cầu về cung ứng thì người bán hàng sẽ tìm đến. Như vậy, sự thịnh vượng có được do sự trao đổi các hàng hóa và dịch vụ giữa các dân tộc với nhau. Muốn vậy, một dân tộc phải tự biến mình thành thị trường hay tự biến mình thành một cộng đồng có năng lực thị trường, thì người ta sẽ đến bán hàng hóa của người ta và đến để mua hàng hóa của mình, tức là một dân tộc có sức lưu thông. Một dân tộc có sức lưu thông thì tiền bạc mới được huy động. Tiền bạc được huy động thì năng lực xã hội mới được khai thác đầy đủ để phát triển. Như vậy, có thể thấy, một quốc gia thịnh vượng là một quốc gia phải có các chỉ số về phát triển và do đó, một xã hội bế quan tỏa cảng, một xã hội đóng cửa, một xã hội thiếu không khí kinh tế thì xã hội ấy không thể phát triển được, không thể thịnh vượng được. Thứ hai, sự thịnh vượng được thể hiện ở nhóm chỉ tiêu vềxã hội. Nhóm này không chỉ bao gồm chỉ số về quyền lợi chính trị, giáo dục, tỷ lệ thất nghiệp, chế độ phúc lợi, y tế, bình đẳng giới, môi trường mà càng ngày con người càng nhận ra là con người cần có những chỉ tiêu về tự do như tự do tôn giáo, tự do lập hội, số lượng tổ chức phi chính phủ (NGO) tính theo đầu người... Những chỉ tiêu này ngày càng trở nên quan trọng vì xã hội thịnh vượng phải là một xã hội có năng lực tổ chức. Các tổ chức phi chính phủ thường được coi như một thước đo đánh giá năng lực tổ chức của xã hội. Khi năng lực tổ chức của xã hội đạt đến một ngưỡng nhất định thì nó đồng thời cũng tạo ra một xã hội dân sự lành mạnh mà ở đó, con người biết tự quản, tự lo và tự giác. Bên cạnh đó, sự thịnh vượng còn được đo đạc dựa trên một nhóm chỉ tiêu như chỉ số nhận thức về tham nhũng, sự phát triển trình độ khoa học của công dân, sự phát triển kinh nghiệm nghề nghiệp của nhân dân, chỉ tiêu về trao đổi thông tin, chỉ số tự do báo chí... Đây cũng là những nhóm chỉ tiêu quan trọng bởi là công cụ nó hỗ trợ cho các chỉ số phát triển khác. Tuy vậy, một xã hội thịnh vượng không phải chỉ cần đạt đến những chỉ tiêu nhất định này bởi những nhóm chỉ tiêu trên không phải là những chỉ tiêu cố định mà nó luôn phát triển, luôn mở rộng cùng với sự phát triển của xã hội. Do đó, mỗi xã hội phải không ngừng phấn đấu để đạt đến những ngưỡng phát triển mới và như thế, sự thịnh vượng được duy trì. Và để kiến tạo được những sự thịnh vượng như vậy cần đến chỉ số con người. 2. Những chỉ số con ngườiChúng ta đều biết rằng, sự thịnh vượng không đơn thuần chỉ là thu nhập đầu người vì nếu tính đến thu nhập đầu người thì Arab còn cao hơn Mỹ. Nhưng người ta không ngưỡng mộ một sự thịnh vượng như thế bởi cuối cùng sự thịnh vượng ấy là của ai? Sự thịnh vượng ấy bắt nguồn từ đâu? Liệu nó có bền vững không? Có phải thực sự người dân làm chủ sự thịnh vượng ấy không? Và người ta nhận ra rằng, một quốc gia thịnh vượng là quốc gia không chỉ có đủ tiềm lực để ngồi nói chuyện bình đẳng với các quốc gia khác mà mỗi người dân của nó phải có được thái độ tự tin đối với các quan hệ mà họ đối thoại trong cuộc sống. Nói cách khác, sự thịnh vượng thực chất là sự thịnh vượng của mỗi người dân, và những người dân của các quốc gia khác nhau có tư thế bình đẳng với nhau. Bởi vì, suy ra cho cùng thì một con người được nhận ra, được đánh giá và được tôn trọng bởi những người khác là vì các giá trị của anh ta. Do vậy, con người chính là các giá trị của nó. Càng ngày chúng ta càng nhận ra rằng ưu thế về giá trị tinh thần của con người lấn át những giá trị khác. Cái gì làm cho con người có khả năng tạo ra sự thịnh vượng của mình và tại sao lại phải tạo ra năng lực ấy cho con người? Tại sao phải đo sự thịnh vượng ấy bằng các chỉ tiêu khác nhau mà không chỉ bằng sự giàu có? Giàu có chưa phải là thịnh vượng mà hạnh phúc và sự bền vững của nó mới là sự thịnh vượng. Hạnh phúc chỉ được tạo ra bằng năng lực của con người vì có thể cho con người sự giàu có nhưng không ai có thể cho con người hạnh phúc. Con người chỉ hạnh phúc khi con người tự kiến tạo ra sự thịnh vượng của chính mình. Vì vậy, chỉ số quan trọng nhất của sự thịnh vượng chính là chỉ số con người, đó là những con người xác định được tiêu chuẩn thịnh vượng, có năng lực tạo ra sự thịnh vượng và phát triển sự thịnh vượng ở chặng tiếp theo của cuộc sống. Các chỉ số về con người theo những quan điểm quốc tế có rất nhiều loại: chỉ số thông minh, chỉ số giáo dục... nhưng một chỉ số rất quan trọng mà không phải ai cũng nhận ra đó là danh dự bởi suy cho cùng, con người dù thành đạt đến đâu cũng phải tìm thấy danh dự của mình. Danh dự là một chỉ tiêu mang chất lượng tinh thần. Không có danh dự thì con người ta không đủ tự tin để đối thoại với bất kỳ ai. Loài người đã sáng tạo ra văn minh rửa tội để hàng ngày, con người được tắm gội về mặt tinh thần, con người được tái tạo lại các phẩm hạnh, tức là khôi phục danh dự của con người để con người cảm thấy tự tin vào sự trong sáng, vào danh dự của tâm hồn mình. Không có sự nâng đỡ của sự tự tin trong tâm hồn thì con người không phát triển được. Phải khẳng định rằng, ở những quốc gia mà con người không có danh dự thì không có sự thịnh vượng bởi danh dự là chỉ tiêu để làm nguồn vốn phát triển các giá trị tinh thần của con người. Đó là con đường tiến tới những giá trị văn hoá cởi mở hơn, con người không có danh dự thì không đủ tự tin để đứng trước một ai và cũng không thể phát triển các năng lực được. Danh dự là một chỉ số quan trọng để tạo ra những giá trị con người và giá trị con người là năng lực quan trọng nhất để tạo ra sự thịnh vượng và sự ổn định của sự thịnh vượng. Hơn nữa, biểu hiện cộng đồng của danh dự là chủ nghĩa yêu nước. Không có cảm giác danh dự, chúng ta không thể xây dựng chủ nghĩa yêu nước. Không có chủ nghĩa yêu nước thì không thể tạo ra sự thịnh vượng cho toàn xã hội. Bên cạnh đó, muốn có được sự thịnh vượng thì trước hết, mỗi con người phải tôn trọng cuộc đời của chính mình, tôn trọng cuộc sống của người khác. Mỗi con người phải trở thành một người hoàn thiện, cân đối về mặt tâm hồn và như thế, con người cần một số phẩm chất. Thứ nhất là phải lương thiện. Con người không bắt đầu từ sự lương thiện thì không thể có động lực làm cái gì tử tế được. Thứ hai, phải biết yêu con người. Nếu không bắt đầu từ những động lực thân thiện của mình đối với con người thì rất khó để bổ sung cho mình đủ lượng trí tuệ cần thiết. Vì yêu con người thì phải hiểu những thứ thuộc về con người, đấy là một động lực mang tính thân thiện. Một con người hoàn thiện là một con người có năng lực. Năng lực của con người thì có rất nhiều như năng lực tổ chức cuộc sống, năng lực hiểu biết, năng lực cạnh tranh... nhưng ở đây tôi muốn đề cập đến hai loại năng lực có quan hệ chặt chẽ đến sự thịnh vượng đó là năng lực hướng dẫn chính trịvà năng lực hợp tác. Trước hết nói về năng lực hướng dẫn chính trịcủa con người. Đây là chỉ số căn bản để thể hiện tính chủ động chính trị của mỗi con người. Ở các nước phi dân chủ, nhà nước thường là tổ chức duy nhất hướng dẫn chính trị mà không biết rằng khi nhà nước là tổ chức duy nhất hướng dẫn chính trị thì con người trở nên thụ động. Vì nhà nước nào cũng có xu hướng hướng dẫn con người theo khuynh hướng nhận thức chủ quan của mình chứ không phải theo đòi hỏi khách quan của đời sống. Do vậy, hướng dẫn chính trị không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước mà còn là nhiệm vụ của xã hội, là nhiệm vụ và trách nhiệm của mỗi con người để đảm bảo sự nhận thức toàn diện của cuộc sống. Thứ hai, là chỉ số về năng lực hợp tác của con người, tôi cho rằng, chỉ số này ngày càng trở nên quan trọng. Để tồn tại và phát triển, từ bao đời nay, mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, dù muốn hay không, vẫn không ngừng hợp tác để chinh phục thiên nhiên hay giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng ngày nay hợp tác, không chỉ là nhu cầu tăng thêm sức lực hoặc trí lực để hoàn thành những mục tiêu chung, mà quan trọng hơn, trở thành nhu cầu tự thân của cuộc sống mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, do quá trình toàn cầu hoá đang làm con người xích lại gần nhau hơn bao giờ hết. Năng lực hợp tác đã trở thành vẻ đẹp, thành đạo đức, lối sống của con người trong xã hội hiện đại. Khả năng hợp tác được coi như thước đo phẩm chất văn hoá cá nhân và cộng đồng, và năng lực hợp tác là một chỉ số quan trọng của xã hội thịnh vượng. III. NGUỒN GỐC SỰ THỊNH VƯỢNG 1. Tâm hồn con người - động lực cơ bản tạo ra sự thịnh vượng 2. Sự đa dạng tinh thần - Điều kiện quan trọng nhất tạo ra sự thịnh vượng 3. Cảm hứng và khát vọng vươn tới sự thịnh vượng 4. Tầng lớp trí thức - Nơi khơi nguồn cho cảm hứng thịnh vượng
quốc giachính trịthịnh vượngcon ngườivăn hóathể chếtự dogiá trịgiá trị sốngNguyễn Trần Bạt
|