Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu là gì
Trong hơn hai thập kỷ qua, Việt Nam đã có nhiều đổi mới, từ một nền kinh tế khép kín đã trở thành một bộ phận năng động của nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng, mức sống và thu nhập của người dân được nâng cao, tỷ lệ đói nghèo giảm, và ngày càng là một trong những điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, song nền kinh tế đã và đang bộc lộ những thách thức và vấn đề nội tại, năng lực cạnh tranh còn yếu trên nhiều mặt. Mức thu nhập của Việt Nam còn thấp, ngay cả so với các nước láng giềng trong khu vực. Theo Diễn đàn kinh tế thế giới, khoảng cách thu nhập của người dân Việt Nam so với mức trung bình của các nước đang phát triển tại châu Á ngày càng dãn ra. Hơn nữa, những bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn đang hiện hữu cho thấy tăng trưởng của Việt Nam còn mong manh. Bên cạnh đó, những diễn biến và thay đổi của môi trường bên ngoài đang diễn ra nhanh chóng và phức tạp, ngày càng tác động nhiều hơn tới nền kinh tế Việt Nam. Do vậy, trong giai đoạn mới cần đặt năng lực cạnh tranh và hiệu quả bền vững làm trung tâm khi lựa chọn định hướng chiến lược và mô hình tăng trưởng cho nền kinh tế. Đánh giá NLCT quốc gia của Việt Nam theo phương pháp luận và hệ thống các chỉ số khác nhau. Nhưng nhìn chung Việt Nam được đánh giá ở mức khiêm tốn, thường thấp hơn so với các nước trong khu vực. Hiện nay, xếp hạng NLCT trên thế giới được thực hiện theo hai hình thức. Một là các báo cáo thường niên đánh giá các yếu tố khác nhau của NLCT.
Theo xếp hạng của Diễn đàn kinh tế thế giới, trong hai năm gần đây, Việt Nam liên tiếp tụt hạng và mất 16 bậc. GCR 2012-2013 xếp Việt Nam ở vị trí thứ 75 trên tổng số 144 quốc gia và vùng lãnh thổ được khảo sát, thấp hơn 10 bậc so với xếp hạng năm trước. Việt Nam hiện xếp áp chót trong 8 nước ASEAN được khảo sát, chỉ cao hơn duy nhất Campuchia. Báo cáo NLCT toàn cầu 2012-2013 của WEF cho thấy việc tiếp cận tín dụng, lạm phát cao, cơ sở hạ tầng và không đáp ứng yêu cầu về lao động qua đào tạo là những vấn đề đáng lo ngại nhất trong môi trường kinh doanh ở Việt Nam. Hình 2. Điểm số thành phần của Việt Nam trong Báo cáo NLCT toàn cầu 2011-2012 và 2012-2013 (Giá trị cao nhất là 7) 2. Báo cáo Môi trường kinh doanh của Ngân hàng thế giới Báo cáo Môi trường kinh doanh (Doing Business) của Ngân hàng Thế giới đưa ra bảng xếp hạng tổng hợp về môi trường kinh doanh dựa trên bộ chỉ số đánh giá về các quy định liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp và về bảo vệ quyền sở hữu, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Những thay đổi về vị trí xếp hạng của Việt Nam trong Doing Business (√: thể hiện những cải cách có tác động tích cực, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh) thể hiện những cải cách có tác động tích cực, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh) Chỉ số DB2005 DB2006 DB2007 DB2008 DB2009 DB2010 DB2011 DB2012 DB2013 Xếp hạng tổng thể 99/155 104/175 91/178 92/181 93/183 90/183 98/183 99/185
√ 97 97 108 116 100 √ 102 108√
25 √ 63 67 69 62 √ 67 28
√ 34 38 37 40 43 47 48
√ 170 165 √ 170 172 173 166 √ 169
104 √ 84 90 103
83 48 √ 43 √ 30 15 √ 24 40
120 128 140 147 √ 124 151 138
75 63 67 74 √ 63 68 74
135 155
√ 94 40 42 32 31 30 44
√ 116 121 124 127 124 142 149 3. Xếp hạng môi trường kinh doanh của Tạp chí Forbes Báo cáo môi trường kinh doanh của Forbes năm 2011 ghi nhận những kết quả tích cực của Việt Nam so với BCB2010 ở các lĩnh vực như Tự do tiền tệ và Gánh nặng thuế. Forbes cũng chỉ ra các yếu tố làm giảm điểm của Việt Nam như Tự do thương mại và Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư. Còn lại, ở các tiêu chí khác, xếp hạng của Việt Nam không có sự thay đổi. 4. Báo cáo xếp hạng chỉ số tự do kinh tế của Quỹ hỗ trợ di sản và Tạp chí phố Wall. Việt Nam được xếp hạng trong Báo cáo thường niên về chỉ số tự do kinh tế của Quỹ hỗ trợ di sản và Tạp chí phố Wall từ năm 1995. Theo tiêu chí xếp hạng của Quỹ hỗ trợ di sản và Tạp chí phố Wall, Việt Nam có điểm số và vị trí xếp hạng rất thấp. Từ báo cáo xếp hạng năm 1995 đến nay, điểm xếp hạng chung của Việt Nam chỉ xoay quanh mức điểm 50. Trước năm 2006, Việt Nam được xếp vào nhóm nền kinh tế bị kìm nén. Năm 2006, Việt Nam có tăng nhẹ về điểm xếp hạng và được vào nhóm nước “Gần như không tự do”. Năm 2007 và 2010, Việt Nam lại quay về nhóm “nền kinh tế bị kìm nén”. Hai năm gần đây, Việt Nam có sự cải thiện về điểm và vị trí xếp hạng, tuy vẫn còn ở mức rất thấp. 5. Chỉ số Quản trị toàn cầu (Worldwide Governance Indicators) của Ngân hàng thế giới. Từ năm 2004, Việt Nam được xếp hạng thuộc nhóm có mức quản trị thấp nhất về chỉ số “Tiếng nói và trách nhiệm giải trình”. Chỉ số “Ổn định chính trị và không có bạo lực” được đánh giá cao nhất trong 6 chỉ số, xếp trong nhóm từ 50-75. Bốn chỉ số còn lại thuộc nhóm từ 25-50. 6. Chỉ số Cảm nhận tham nhũng (Corruption Perceptions Index) của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International). Chỉ số CPI 2011 dựa trên 17 nguồn dữ liệu của 13 tổ chức, xem xét các khía cạnh như việc thực thi pháp luật về chống tham nhũng, khả năng tiếp cận thông tin và các xung đột về lợi ích. Có 11 nguồn dữ liệu đã được sử dụng cho CPI 2011 của Việt Nam, gồm: ADB - Báo cáo đánh giá quốc gia của Ngân hàng Phát triển châu Á; BF_TI - Chỉ số Cải tổ Bertelsmann; EIU_CRR - Khảo sát rủi ro của Cơ quan Tình báo Kinh tế; GI_CRR - Xếp hạng rủi ro quốc gia của Tổ chức Global Insight; PERC 2010 - Báo cáo về tình hình rủi ro châu Á 2010 của Cơ quan Tư vấn rủi ro kinh tế và chính trị; PERC 2011 - Báo cáo về tình hình rủi ro châu Á 2011 của Cơ quan Tư vấn rủi ro kinh tế và chính trị; PRS_ICRG - Hướng dẫn đánh giá rủi ro quốc gia của Tổ chức Tư vấn về rủi ro chính trị; WB_CPIA - Đánh giá thể chế và tình hình thực thi tại các quốc gia của Ngân hàng Thế giới; WEF2010 - Khảo sát ý kiến chuyên gia năm 2010 của Diễn đàn Kinh tế thế giới; WEF2011 - Khảo sát ý kiến chuyên gia năm 2011 của Diễn đàn Kinh tế thế giới; WJP_ROL - Chỉ số Nhà nước pháp quyền trên thế giới. Điểm và xếp hạng về chỉ số CPI của Việt Nam (2004-2011) Điểm Xếp hạng 2011 2.9 112/183 2010 2.7 116/178 2009 2.7 120/180 2008 2.7 121/180 2007 2.6 123/179 2006 2.6 111/163 2005 2.6 107/158 2004 2.6 102/145 Người thực hiện: Ông Nguyễn Bá Ân, Tổng Thư ký Hội đồng Quốc gia về PTBV và Nâng cao Năng lực Cạnh tranh |