Yý nghĩa na do tha trong phật học là gì năm 2024
Vào thế kỷ 17, Tây phương có trào lưu triết học về duy tâm và duy vật. Việc đấu tranh giữa hai phái này tạo ra xã hội loài người đi về một xã hội lý tưởng. Trong khi đó thế kỷ thứ 6, tại Ấn Độ đạo Phật đã có duy thức tức là duy tâm ra đời đó là duy thức luận. Nguồn gốc do Bồ Tát Vô Trước và người em là Thế Thân xiển dương coi như một cuộc cách mạng về đạo Phật. Người ta tự hỏi duy thức có mang lại sự giải thoát phiền não, lậu hoặc tham sân si là tiêu chí đức Phật sáng lập ra không? Khi vạn pháp duy thức do thức biến hiện, tam giới duy tâm. Như vậy vạn pháp chỉ là thức mà thôi thì ai chịu trách nhiệm của nghiệp lực? Ai tu tập ai chứng đắc ai tinh tấn ai thiền quán? Tất cả chỉ là một dòng tâm thức trôi lăn mãi mãi từ kiếp này sang kiếp khác. Đạo Phật Nguyên thủy dạy tu là chuyển hóa hết phiền não, giờ duy thức ra đời thân ta 5 uẩn cũng là thức và tâm tạo ra. Như vậy ta không có là ta, thì tâm thức ta có, là huyễn ảo chỉ là thức mà thôi. Sự tranh luận vật chất có trước hay tâm thức có trước, trong khi Phật dạy không có duy tâm mà cũng không có duy vật. Tất cả do duyên mà hiện hữu. Lăng Nghiêm kinh bảo tâm thức tạo ra vạn pháp, rồi vạn pháp vận hành theo luật duyên khởi mà có. Nhờ duy thức mà ta hết tham sân si phiền não vì nó chỉ là thức mà thôi, thì ta chấp vào nó mà nỗi tham sân si làm gì? Duy thức dạy ta có một quan niệm đúng nhất về vạn pháp. Chúng là như thị không có cái ta xen vào, vì chúng sanh nhìn vạn pháp sai lầm nên duy thức dạy ta có cái nhìn đúng nhất. Vậy thức là gì? Tất cả cái gì chúng ta nhìn thấy, nghe thấy sờ thấy ngửi thấy, cảm nhận sự hiện hữu của nó do thức của ta mà ra. Căn hiệp trần tạo ra thức. Trần là trần cảnh làm đối tượng cho căn là cửa vào, của cơ thể ta để thức tạo ra trong đầu của chúng ta. Quan trọng là cái nó xuất hiện qua thức của ta mà hiện hữu thì nó có phải là thực sự là nó không? Duy thức gọi là Biến kế sở chấp, biến kế phân biệt. Biến nghĩa là phổ biến. Kế nghĩa là xét nghiệm, so đo. Theo Wikipedia: Duy thức tông (zh. 唯識宗, sa. vijñaptimātravādin, yogācārin, cittamātravādin) là tên gọi tại Đông Nam Á của một trường phái Phật giáo. Tại Ấn Độ và Tây Tạng, tông này được gọi là Thức tông, Thức học (sa.. vijñānavādin), hoặc Du-già hành tông (sa. yogācārin); tại Tây Tạng, người ta cũng gọi là Duy tâm tông (zh. 唯心宗, sa. cittamātrin). Đây là một trong hai trường phái chính của Phật giáo Đại thừa do hai Đại sư Vô Trước (zh. 無著, sa. asaṅga) và người em là Thế Thân (zh. 世親, sa. vasubandhu) sáng lập. Tương truyền rằng, chính Ứng thân (Tam thân) của Bồ Tát Di-lặc (zh. 彌勒, sa. maitreya) khởi xướng trường phái này ở thế kỉ thứ 4. Các đại biểu khác của phái này là Bandhusri (Thân Thắng), Citrabhàna (Hỏa Biện), Gunamati (Ðức Tuệ), Dignàga (Trần Na), Sthiramati (An Tuệ), Dharmakīrti (Pháp Xứng, học trò của Dignàga), Silabhadra (Giới Hiền, học trò của Dharmapàla). Khi sư Huyền Trang từ Ấn Độ trở về và phiên dịch các bộ luận chính của Duy thức tông ra tiếng Hán, phái Pháp tướng tông (phái tìm hiểu bản tính và hình dạng của các pháp) hình thành ở Trung Quốc và lan tỏa ra một số nước Đông Á. Chúng ta tìm hiểu tác động sâu xa của duy thức luận mà ngày nay nó được phổ biến cơ bản nhất của đạo Phật. Vì tánh chất trừu tượng và lý luận rất sâu rộng, nên chúng ta cần nghiên cứu học tập từ chánh văn kinh luận, được dẫn giải bởi các bậc trưởng bối đã tóm lược lại để cho dễ hiểu, rất ít danh từ hán việt. Duy thức luận không phải lời Phật giảng mà là luận, tức là gom lại các lời Phật giảng mà các vị tổ tạo thành luận. Đạo Phật có 3 luận nổi tiếng là Đại Thừa khởi tín, Trung quán và Duy thức luận. Duy thức theo TT.Thích Trí Siêu (youtube) giảng tại trung tâm Đuốc Tuệ California
Phổ Tấn |