Vì sao giá xe việt nam cao

Cách tính thuế chồng thuế cùng những tác động của 10 loại phí khiến giá ô tô ở Việt Nam cao gấp nhiều lần các nước phát triển.

Xe Ấn Độ 84 triệu, đại gia ô tô Việt ôm hận ngàn tỷ

Ô tô Tàu máy Nhật: Ham rẻ rồi chết khổ

Xe Ấn Độ nhập 84 triệu, bán 500 triệu: Sự thật giá đắt ô tô Việt

Ô tô ở Việt Nam được coi là mặt hàng xa xỉ, tức cần hạn chế sử dụng bằng cách thiết lập các khung chính sách đẩy giá xe lên cao.

Nếu so ngang phiên bản, giá xe tại Việt Nam có thể đắt gấp hơn 3 lần xe ở các nước phát triển.

Dưới đây là những loại phí, thuế đã độn giá xe của Việt Nam lên cao.

Thuế chồng thuế

Tại Việt Nam, hầu hết các hãng xe nhập khẩu theo điều kiện thương mại quốc tế CIF [Cost, Insurance, Freight].

Hyundai Grand i10 là một trong những dòng xe VN nhập từ Ấn Độ

Chẳng hạn, xe ô tô nhập khẩu từ Ấn Độ, thì mức giá này bao gồm giá xuất xưởng tại Ấn Độ [Cost], phí bảo hiểm hàng hoá [Insurance] và cước phí vận chuyển từ Ấn Độ về Việt Nam [Freight].

Mức giá xuất xưởng thấp hơn nhiều so với giá bán sản phẩm tương đương tại thị trường Ấn Độ vì hãng xe tại nước này cũng phải chịu các thuế, phí về xe và bán hàng như tại Việt Nam.

Khi về Việt Nam, để thông quan hãng phải nộp thuế nhập khẩu và khi bán ra thị trường phải nộp thêm thuế tiêu thụ đặc biệt và giá trị gia tăng [GTGT] cho mỗi chiếc.

Thuế nhập khẩu đánh lên hàng hóa nhập khẩu. Thuế tiêu thụ đặc biệt đánh lên những hàng hóa xa xỉ, cần hạn chế. Thuế giá trị gia tăng đánh lên những hàng hóa, dịch vụ tạo ra giá trị gia tăng trong mỗi khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Ô tô nhập khẩu thuộc cả ba nhóm này.

Nguyên tắc đánh thuế ô tô là thuế chồng thuế, tức thuế mới sẽ tính dựa trên giá xe đã cộng các thuế cũ.

Thứ tự đánh thuế sẽ là thuế nhập khẩu, sau đó thuế tiêu thụ đặc biệt và cuối cùng là thuế GTGT.

Ví dụ: xe nhập về cảng giá 100 triệu đồng, chịu thêm thuế nhập khẩu 70% thì giá sau thuế nhập khẩu là 100 + 100 x 70% = 170 triệu đồng.

Sau đó, giả sử thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt là 45% thì thuế thuế tiêu thụ đặc biệt được tính là 170 x 45% = 76,5 triệu. Lúc này giá sau thuế thuế tiêu thụ đặc biệt là 170 + 76,5 = 246,5 triệu.

Cuối cùng, thuế GTGT [10%] được tính là 246,5 x 10% = 24,65 triệu. Giá sau thuế GTGT trở thành 246,5 + 24,65 = 271,15 triệu đồng.

Con số 271,15 triệu vừa tính ở trên chưa phải là giá bán ra ngoài thị trường. Mức giá này mới chỉ là giá sau khi cộng ba loại thuế nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt và GTGT.

Hãng sau đó còn phải cộng thêm chi phí ở khâu phân phối bao gồm chi phí vận chuyển nội địa, kho bãi, thêm trang bị cho xe, chi phí tài chính, duy trì hệ thống bộ máy đơn vị nhập khẩu, marketing, bảo hành, dự phòng rủi ro, thuế thu nhập doanh nghiệp cùng lợi nhuận hãng.

Thậm chí từ ngày 1/7, các loại chi phí này cũng phải cõng thêm thuế tiêu thụ đặc biệt theo cách tính mới.

Xe lắp ráp trong nước rẻ hơn xe nhập khẩu?

Nhiều người nghĩ rằng xe lắp ráp trong nước không bị đánh thuế nhập khẩu, nên mức giá thấp hơn so với xe nhập khẩu, nhưng điều này không đúng.

Xe lắp ráp trong nước không chịu thuế nhập khẩu nguyên chiếc nhưng hầu hết các linh kiện quan trọng cấu thành chiếc xe đều phải nhập khẩu về lắp ráp, do đó phải chịu thuế nhập khẩu linh kiện.

Trước đây, thuế nhập khẩu linh kiện thường thấp hơn thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc nên xe lắp ráp rẻ hơn xe nhập khẩu. Nhưng gần đây, với những ưu đãi thuế ví như thuế nhập từ ASEAN còn 30%, đến năm 2018 còn 0%, nhưng thuế nhập khẩu linh kiện vẫn ở mức 20-30%, như vậy xe lắp ráp sẽ đắt hơn xe nhập khẩu từ các nước ASEAN.

Giảm thuế sẽ giảm giá xe?

Nhiều người cho rằng, nếu giảm thuế thì giá xe sẽ giảm. Tuy nhiên, điều này chưa chắc đúng.

Như đã nói ở trên, để ra giá bán xe, các loại thuế chỉ ảnh hưởng một phần, hãng còn phải cộng thêm nhiều chi phí khác. Do đó, giảm thuế chỉ là một dấu hiệu để giảm giá chứ không phải một kết quả chắc chắn.

Ví dụ thuế nhập khẩu giảm, thuế tiêu thụ đặc biệt giảm nhưng tỷ giá hối đoái tăng khiến chi phí bỏ ra để nhập xe của hãng tăng, hay hãng mở rộng hệ thống bán hàng, chi phí marketing và vận hành tăng... cũng là những lý do để hãng không thể giảm giá thậm chí tăng.

[Theo Một thế giới]

Tọa đàm "Công nghiệp ô tô Việt Nam - Từ lắp ráp tới sản xuất" vừa được tổ chức sáng 14/1 tại Hà Nội.

Phiên thảo luận được thực hiện bởi những chuyên gia đầu ngành.

Mở đầu phiên tọa đàm, tiến sĩ Trương Thị Chí Bình, phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã nêu rõ thực trạng về ngành này. Theo bà, đóng góp của doanh nghiệp phụ trợ cho ngành ô tô rất ít, đặc biệt là các doanh nghiệp nội địa tại Việt Nam.

Hiện chỉ có khoảng 20 đến 30 công ty có thể cung cấp linh kiện để lắp được vào xe ô tô. Nếu các doanh nghiệp trong nước có thể tự sản xuất các linh kiện, phụ tùng thì giá ô tô lắp ráp, sản xuất trở nên rẻ hơn rất nhiều, thu hút người tiêu dùng.

Tiến sĩ Trương Thị Chí Bình thẳng thắn trình bày về những khó khăn của ngành công nghiệp phụ trợ sản xuất ô tô.

Bà Trương Thị Chí Bình chia sẻ: "Lí do khiến cho các doanh nghiệp khó phát triển trong ngành hỗ trợ ô tô là sản lượng xe trong nước còn thấp. Do đó không thể thu hút các nhà đầu tư vì không mang lại lợi nhuận hấp dẫn. Hầu hết những công ty đang theo ngành này đều có niềm đam mê, tâm huyết rất lớn trong việc đóng góp cho sự phát triển của sản xuất xe trong nước".

Thêm vào đó, chứng chỉ IATF 16949 mang tiêu chuẩn quốc tế là thứ rất quan trọng trong lĩnh vực sản xuất ô tô. Trong khi các quốc gia khác có đến hàng trăm, hàng nghìn công ty sở hữu IATF thì đến hiện tại, Việt Nam mới chỉ có vỏn vẹn 21 công ty sở hữu loại chứng chỉ này. Đó là một hạn chế và bà Bình hy vọng thời gian tới, con số này sẽ tăng.

Để trả lời cho những trăn trở của vị tiến sĩ Chí Bình, ông Nguyễn Trung Hiếu, ban hoạch định chiến lược công ty Toyota Việt Nam nói: "Chúng tôi đang hợp tác với 46 nhà cung ứng, trong đó có 6 cái tên là thuần Việt. Sắp tới, chúng tôi sẽ hỗ trợ thêm 2 nhà cung ứng khác trong vài năm tới để tăng thị phần của các công ty Việt Nam".

Ông cho biết thêm, dù mạng lưới cung ứng của phía Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào công ty mẹ, Toyota Việt Nam luôn tìm cách để nâng tiêu chuẩn của nhà cung ứng trong nước đạt tiêu chuẩn thế giới. Và ngoài việc đợi các doanh nghiệp sản xuất trong nước tự phát triển, chúng ta cần sự chung tay của các cơ quan ban ngành, hãng xe. Điển hình như Toyota đã thành lập một ban chuyên môn để hỗ trợ, trao đổi kỹ thuật với các nhà cung ứng Việt.

Bên cạnh Toyota, ông Hoàng Chí Trung [Tổng Giám đốc VinFast Trading Việt Nam] và ông Nguyễn Minh Sơn [Tổng Giám đốc Công ty sản xuất Ô tô Hyundai Thành Công] cũng rất mong cũng có thể đồng hành cùng các doanh nghiệp cung ứng Việt trong tương lai.

Từ quan điểm của một nhà hoạch định chiến lược, bà Chí Bình báo cáo rằng doanh nghiệp phụ trợ sản xuất ô tô mang quốc tịch Việt đang nhận được những gam màu sáng khi gần đây, chính phủ hỗ trợ họ nhiều hơn, doanh nghiệp được tạo điều kiện tiếp cận với nguồn vốn vay.

Bên lề của cuộc tọa đàm, khi người điều phối chương trình đặt ra câu hỏi đáng quan tâm cho phía Vinfast về sự khác biệt giữa các sản phẩm của họ tại thị trường nội địa và trị trường thế giới, ông Hoàng Chí Trung khẳng định: "Dù bán ở Việt Nam hay Mỹ thì các sản phẩm đều có cùng một tiêu chuẩn chất lượng như nhau. Chúng tôi chỉ tinh chỉnh những tính năng nhỏ để phù hợp với điều kiện thời tiết, địa hình riêng tại từng khu vực. Ví dụ xe bán tại các nước châu Âu hay Canada sẽ sử dụng lốp 4 mùa chống trơn trượt khi đi trên tuyết trong khi ở Việt nam, các mẫu xe sẽ được trang bị loại lốp dành cho mùa hè".

Cũng tại sự kiện, các mẫu xe được độc giả và giới chuyên môn bình chọn bao gồm:

Hyundai Santafe nhận giải thưởng Ô tô của năm 2021.

Xe nhỏ cỡ hạng A: VinFast Fadil 2021 [78,77 điểm]

Xe gầm thấp cỡ B: Honda City 2021 [74,32 điểm]

Xe gầm cao cỡ nhỏ: Toyota Corolla Cross 2021 [80,11 điểm]

Xe Sedan cỡ C: Mazda3 2021 [74,85 điểm]

Xe Crossover cỡ C: Honda CR-V 2021 [76,68 điểm]

Sedan cỡ D-E: VinFast Lux A2.0 2021 [82,22 điểm]

SUV/Crossover cỡ D-E: Hyundai Santa Fe 2021 [81,58 điểm]

MPV Phổ thông: Mitsubishi Xpander 2021 [73.67 điểm]

Xe bán tải phổ thông: Ford Ranger 2021 [85,71 điểm]

Xe sang cỡ nhỏ gầm thấp: BMW Series 3 2021 [80,55 điểm]

Xe sang cỡ nhỏ gầm cao: Porsche Macan 2021 [83,82 điểm]

Xe sang cỡ trung gầm thấp: Volvo S90 2021 [82,71 điểm]

Xe sang cỡ trung gầm cao: Volvo XC90 2021 [86,21 điểm]

Xe sang cỡ lớn gầm thấp: Mercedes S-Class 2021 [86,75 điểm]

Xe sang cỡ lớn gầm cao: Mercedes GLS 2021 [85,64 điểm]

Video liên quan

Chủ Đề