Top billboard 100 bài hát 2022 năm 2022

Chúc mừng bạn đã thêm playlist Billboard Hot 100 Songs (Top Hit) thành công

Show

Playlist tuyển tập 100 ca khúc US-UK HOT nhất trên bảng xếp hạng danh tiếng Billboard trong năm 2011 (Xếp thứ tự từ 1-->100). Quán quân là cái tên Adele - niềm tự hào Anh Quốc với Rolling In The Deep trích từ album 21 của cô. Đồng thời, danh hiệu nghệ sĩ của năm cũng không quá khó hiểu khi về tay Adele.

rút gọn

xem thêm

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Top billboard 100 bài hát 2022 năm 2022

Dưới đây là danh sách những kỷ lục và thành tựu liên quan tới bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của tạp chí Billboard.

Thành tựu Hot 100 mọi thời đại[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2008, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ra đời của Hot 100, tạp chí Billboard đã cho xuất bản danh sách 100 bài hát và nghệ sĩ thành công nhất trên bảng xếp hạng trong vòng 50 năm qua.[1][2] Năm 2013, Billboard sửa đổi nó một lần nữa cho ấn bản kỷ niệm lần thứ 55 của bảng xếp hạng.[3] Năm 2015, Billboard sửa đổi bảng xếp hạng một lần nữa.[4] Năm 2018, bảng xếp hạng được sửa đổi một lần nữa cho kỷ niệm 60 năm của bảng xếp hạng.[5] Dưới đây là 10 bài hát và nghệ sĩ thành công nhất trong khoảng thời gian 60 năm của Hot 100, tính đến tháng 7 năm 2018.

Top 10 bài hát của mọi thời đại (1958–2018)[sửa | sửa mã nguồn]

Hạng Đĩa đơn Năm phát hành Nghệ sĩ Vị trí cao nhất
1. "The Twist" 1960, 1961* Chubby Checker #1 trong 3 tuần
2. "Smooth" 1999 Santana hợp tác với Rob Thomas #1 trong 12 tuần
3. "Mack the Knife" 1959 Bobby Darin #1 trong 9 tuần
4. "Uptown Funk" 2015 Mark Ronson hợp tác với Bruno Mars #1 trong 14 tuần
5. "How Do I Live" 1997 LeAnn Rimes #2 trong 4 tuần
6. "Party Rock Anthem" 2011 LMFAO hợp tác với Lauren Bennett & GoonRock #1 trong 6 tuần
7. "I Gotta Feeling" 2009 The Black Eyed Peas #1 trong 14 tuần
8. "Macarena (Bayside Boys mix)" 1996 Los Del Rio #1 trong 14 tuần
9. "Shape of You" 2017 Ed Sheeran #1 trong 12 tuần
10. "Physical" 1981 Olivia Newton-John #1 trong 10 tuần

* — phát hành lại
Nguồn:[6]

Top 10 nghệ sĩ của mọi thời đại (1958–2020)[sửa | sửa mã nguồn]

Hạng Nghệ sĩ
1. The Beatles
2. Madonna
3. Elton John
4. Elvis Presley
5. Mariah Carey
6. Stevie Wonder
7. Janet Jackson
8. Michael Jackson
9. Whitney Houston
10. Rihanna

Nguồn:[7]

Thành tựu của bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

Đứng đầu bảng nhiều tuần nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số tuần Nghệ sĩ Bài hát Năm
19 Lil Nas X (hát đơn hoặc hợp tác với Billy Ray Cyrus) "Old Town Road" 2019
16 Mariah Carey và Boyz II Men "One Sweet Day" 1995–96
Luis Fonsi và Daddy Yankee
hợp tác với Justin Bieber
"Despacito" 2017
14 Whitney Houston "I Will Always Love You" 1992–93
Boyz II Men "I'll Make Love to You" 1994
Los del Río "Macarena" (Bayside Boys Mix) 1996
Elton John "Candle in the Wind 1997" /
"Something About the Way You Look Tonight"
1997
Mariah Carey "We Belong Together" 2005
The Black Eyed Peas "I Gotta Feeling" 2009
Mark Ronson hợp tác với Bruno Mars "Uptown Funk" 2015
13 Boyz II Men "End of the Road" 1992
Brandy và Monica "The Boy Is Mine" 1998
12 Santana hợp tác với Rob Thomas "Smooth" 1999–2000
Eminem "Lose Yourself" 2002–03
Usher hợp tác với Lil Jon và Ludacris "Yeah!" 2004
The Black Eyed Peas "Boom Boom Pow" 2009
Robin Thicke hợp tác với T.I. và Pharrell "Blurred Lines" 2013
Wiz Khalifa hợp tác với Charlie Puth "See You Again" 2015
The Chainsmokers hợp tác với Halsey "Closer" 2016
Ed Sheeran "Shape of You" 2017
11 Elvis Presley † "Hound Dog" / "Don't Be Cruel" 1956
All-4-One "I Swear" 1994
Toni Braxton "Un-Break My Heart" 1996–97
Puff Daddy và Faith Evans hợp tác với 112 "I'll Be Missing You" 1997
Destiny's Child "Independent Women Part I" 2000–01
Drake "God's Plan" 2018
10 The McGuire Sisters †† "Sincerely" 1955
Pérez Prado ††† "Cherry Pink and Apple Blossom White"
Debby Boone "You Light Up My Life" 1977
Olivia Newton-John "Physical" 1981–82
Santana hợp tác với The Product G&B "Maria Maria" 2000
Ashanti "Foolish" 2002
Nelly hợp tác với Kelly Rowland "Dilemma"
Kanye West hợp tác với Jamie Foxx "Gold Digger" 2005
Beyoncé "Irreplaceable" 2006–07
Flo Rida hợp tác với T-Pain "Low" 2008
Rihanna hợp tác với Calvin Harris "We Found Love" 2011–12
Pharrell Williams "Happy" 2014
Adele "Hello" 2015–16
Drake hợp tác với Wizkid và Kyla "One Dance" 2016
Drake "In My Feelings" 2018

† Tiền Hot 100: Bảng xếp hạng "Best Sellers in Stores" và "Most Played in Jukeboxes".
†† Tiền Hot 100: Bảng xếp hạng "Most Played by Jockeys".
††† Tiền Hot 100: Bảng xếp hạng "Best Sellers in Stores".

Nguồn::[8]

Đứng nhì nhiều tuần nhất (mà không đạt hạng nhất)[sửa | sửa mã nguồn]

Số tuần Nghệ sĩ Bài hát Năm
10 Foreigner "Waiting for a Girl Like You" 1981–82
Missy Elliott "Work It" 2002–03
9 Donna Lewis "I Love You Always Forever" 1996
Shania Twain "You're Still the One" 1998
8 Shai "If I Ever Fall in Love" 1992–93
Deborah Cox "Nobody's Supposed to Be Here" 1998–99
Brian McKnight "Back at One" 1999–2000
Mario Winans hợp tác với Enya và P. Diddy "I Don't Wanna Know" 2004
Ed Sheeran "Thinking Out Loud" 2015

Nguồn:[9]

Nhiều tuần trong top 10 nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số
tuần
Nghệ sĩ Bài hát Năm Nguồn
33 Ed Sheeran "Shape of You" 2017 [10]
Maroon 5 hợp tác với Cardi B "Girls Like You" 2018–19 [10]
32 LeAnn Rimes "How Do I Live" 1997–98 [10]
The Chainsmokers hợp tác với Halsey "Closer" 2016–17 [10]
Travis Scott "Sicko Mode" 2018–19 [10]
31 Mark Ronson hợp tác với Bruno Mars "Uptown Funk" 2014–15 [10]
30 Santana hợp tác với Rob Thomas "Smooth" 1999–2000 [10]
29 LMFAO hợp tác với Lauren Bennett và GoonRock "Party Rock Anthem" 2011–12 [11]
Halsey "Without Me" 2018–19 [10]
28 Jewel "You Were Meant for Me"/"Foolish Games" 1997 [11]
Bruno Mars "That's What I Like" 2017 [11]

Nhiều tuần trong bảng xếp hạng nhất[sửa | sửa mã nguồn]

  • 88 tuần – The Weeknd –– "Blinding Lights" (2019)
  • 87 tuần – Imagine Dragons — "Radioactive" (2014)[12]
  • 79 tuần – Awolnation — "Sail" (2014)[12]
  • 76 tuần – Jason Mraz — "I'm Yours" (2009)[12]
  • 69 tuần – LeAnn Rimes — "How Do I Live" (1998)[12]
  • 68 tuần – LMFAO hợp tác với Lauren Bennett và GoonRock — "Party Rock Anthem" (2012),[12] OneRepublic — "Counting Stars" (2014)
  • 65 tuần – Jewel — "Foolish Games" / "You Were Meant for Me" (1998), Adele — "Rolling in the Deep" (2012)[12]
  • 64 tuần – Carrie Underwood — "Before He Cheats" (2007)[12]
  • 62 tuần – Lifehouse — "You and Me" (2006), The Lumineers — "Ho Hey" (2013)[12]

Năm được thể hiện trong ngoặc là năm được tính trong tuần cuối cùng của bài hát trên bảng xếp hạng.

Ra mắt ở vị trí số một[sửa | sửa mã nguồn]

  • Michael Jackson — "You Are Not Alone" (2 tháng 9 năm 1995)
  • Mariah Carey — "Fantasy" (30 tháng 9 năm 1995)
  • Whitney Houston — "Exhale (Shoop Shoop)" (25 tháng 11 năm 1995)
  • Mariah Carey và Boyz II Men — "One Sweet Day" (2 tháng 12 năm 1995)
  • Puff Daddy và Faith Evans hợp tác với 112 — "I'll Be Missing You" (14 tháng 6 năm 1997)
  • Mariah Carey — "Honey" (13 tháng 9 năm 1997)
  • Elton John — "Candle in the Wind 1997" / "Something About the Way You Look Tonight" (11 tháng 10 năm 1997)
  • Céline Dion — "My Heart Will Go On" (28 tháng 2 năm 1998)
  • Aerosmith — "I Don't Want to Miss a Thing" (5 tháng 9 năm 1998)
  • Lauryn Hill — "Doo Wop (That Thing)" (14 tháng 11 năm 1998)
  • Clay Aiken — "This Is the Night" (28 tháng 6 năm 2003)
  • Fantasia — "I Believe" (10 tháng 7 năm 2004)
  • Carrie Underwood — "Inside Your Heaven" (2 tháng 7 năm 2005)
  • Taylor Hicks — "Do I Make You Proud" (1 tháng 7 năm 2006)
  • Britney Spears — "3" (24 tháng 10 năm 2009)
  • Eminem — "Not Afraid" (22 tháng 5 năm 2010)
  • Kesha — "We R Who We R" (13 tháng 11 năm 2010)
  • Britney Spears — "Hold It Against Me" (29 tháng 1 năm 2011)
  • Lady Gaga — "Born This Way" (26 tháng 2 năm 2011)
  • Katy Perry — "Part of Me" (3 tháng 3 năm 2012)
  • Baauer — "Harlem Shake" (2 tháng 3 năm 2013)[13]
  • Taylor Swift — "Shake It Off" (6 tháng 9 năm 2014)[14]
  • Justin Bieber — "What Do You Mean?" (19 tháng 9 năm 2015)[15]
  • Adele — "Hello" (14 tháng 11 năm 2015)[16]
  • Zayn — "Pillowtalk" (20 tháng 2 năm 2016)[17]
  • Justin Timberlake — "Can't Stop the Feeling!" (28 tháng 5 năm 2016)[18]
  • Ed Sheeran — "Shape of You" (28 tháng 1 năm 2017)[19]
  • DJ Khaled hợp tác với Justin Bieber, Quavo, Chance the Rapper và Lil Wayne – "I'm the One" (20 tháng 5 năm 2017)[20]
  • Drake – "God's Plan" (3 tháng 2 năm 2018)
  • Drake – "Nice for What" (21 tháng 4 năm 2018)
  • Childish Gambino – "This Is America" (19 tháng 5 năm 2018)
  • Ariana Grande – "Thank U, Next" (17 tháng 11 năm 2018)
  • Ariana Grande – "7 Rings" (2 tháng 2 năm 2019)
  • Jonas Brothers – "Sucker" (16 tháng 3 năm 2019)
  • Ariana Grande, Justin Bieber − "Stuck with U" (23 tháng 5 năm 2020)
  • Lady Gaga, Ariana Grande − "Rain On Me" (6 tháng 6 năm 2020)
  • Taylor Swift – "Cardigan" (8 tháng 8 năm 2020)
  • BTS – "Dynamite" (5 tháng 9 năm 2020)
  • Ariana Grande − "postitions" (7 tháng 11 năm 2020)
  • BTS − "Life Goes On" (5 tháng 12 năm 2020)
  • Taylor Swift – "willow" (26 tháng 12 năm 2020)
  • Olivia Rodrigo – "drivers license" (23 tháng 1 năm 2021)
  • Drake – "What's Next" (20 tháng 3 năm 2021)
  • Justin Bieber, Daniel Ceasar, Giveon - Peaches (3 tháng 4 năm 2021)
  • Lil Nas X - Montero (Call Me By Your Name) (10 tháng 4 năm 2021)
  • Polo G - Rapstar (24 tháng 4 năm 2021)
  • Olivia Rodrigo - good 4 u (29 tháng 5 năm 2021)
  • BTS - Butter (5 tháng 6 năm 2021)

Từ năm 2009, mỗi năm có ít nhất một bài hát mở đầu tại vị trí quán quân. Năm 2020 và 2021, có bảy bài hát mở đầu tại vị trí quán quân (nắm giữ kỷ lục về số lượng). Nguồn:[21]

Bước nhảy lên đầu bảng lớn nhất[22][sửa | sửa mã nguồn]

  • 97–1 – Kelly Clarkson — "My Life Would Suck Without You" (7 tháng 2 năm 2009)[23]
  • 96–1 – Britney Spears — "Womanizer" (25 tháng 10 năm 2008)
  • 80–1 – T.I. hợp tác với Rihanna — "Live Your Life" (18 tháng 10 năm 2008)[24]
  • 78–1 – Eminem, Dr. Dre và 50 Cent — "Crack a Bottle" (21 tháng 2 năm 2009)[25]
  • 77–1 – Taylor Swift – "Look What You Made Me Do" (16 tháng 9 năm 2017)[26]
  • 72–1 – Taylor Swift — "We Are Never Ever Getting Back Together" (1 tháng 9 năm 2012)[27]
  • 71–1 – T.I. — "Whatever You Like" (6 tháng 9 năm 2008)[28]
  • 64–1 – Maroon 5 — "Makes Me Wonder" (12 tháng 5 năm 2007)
  • 60–1 – Rihanna hợp tác với Drake — "What's My Name?" (20 tháng 11 năm 2010)[29]
  • 58–1 – Flo Rida — "Right Round" (28 tháng 2 năm 2009)[30]
  • 53–1 – Rihanna — "Take a Bow" (24 tháng 5 năm 2008)[31]
  • 53–1 – Taio Cruz hợp tác với Ludacris — "Break Your Heart" (20 tháng 3 năm 2010)[32]
  • 53–1 – Taylor Swift hợp tác với Kendrick Lamar — "Bad Blood" (6 tháng 6 năm 2015)[33]

Từ năm 1955–2001, dưới phương pháp thống kê trước đây của Billboard, việc nhảy hạng đối với các bài hát là rất khó xảy ra, và chỉ có hai đĩa đơn nhảy lên vị trí số một từ một thứ hạng dưới top 20: "Can't Buy Me Love" của The Beatles, từ vị trí thứ 27 đến vị trí quán quân vào tháng 4 năm 1964, và "The Boy Is Mine" của Brandy và Monica từ hạng 23 đến hạng nhất vào tháng 6 năm 1998.

Bước nhảy lớn nhất trong một tuần[sửa | sửa mã nguồn]

  • 100–2 (98 hạng) – Taylor Swift hợp tác với Brendon Urie – "Me!" (11 tháng 5 năm 2019)[34]
  • 97–1 (96 hạng) – Kelly Clarkson — "My Life Would Suck Without You" (7 tháng 2 năm 2009)[35]
  • 96–1 (95 hạng) – Britney Spears — "Womanizer" (25 tháng 10 năm 2008)[36]
  • 94–3 (91 hạng) – Beyoncé và Shakira — "Beautiful Liar" (7 tháng 4 năm 2007)[37]
  • 95–7 (88 hạng) – Akon hợp tác với Eminem — "Smack That" (14 tháng 10 năm 2006)[38]
  • 97–9 (88 hạng) – Drake hợp tác với Nicki Minaj — "Make Me Proud" (5 tháng 11 năm 2011)[39]
  • 96–11 (85 hạng) – Carrie Underwood — "Cowboy Casanova" (10 tháng 10 năm 2009)[40]
  • 100–15 (85 hạng) – A. R. Rahman và Pussycat Dolls hợp tác với Nicole Scherzinger — "Jai Ho! (You Are My Destiny)" (14 tháng 3 năm 2009)[41]
  • 85–2 (83 hạng) – Katy Perry — "Roar" (31 tháng 8 năm 2013)[42]
  • 86–4 (82 hạng) – Vanessa Hudgens và Zac Efron — "Breaking Free" (11 tháng 2 năm 2006)[43]
  • 93–12 (81 hạng) – Matchbox Twenty — "How Far We've Come" (22 tháng 9 năm 2007)[44]
  • 93-12 (81 hạng) – Kygo và Selena Gomez — "It Ain't Me" (11 tháng 3 năm 2017)[45]
  • 100-19 (81 hạng) – Lorde — "Green Light" (25 tháng 3 năm 2017)[46]

Mất nhiều thời gian để đạt vị trí quán quân nhất[sửa | sửa mã nguồn]

  • 33 tuần – Los del Río — "Macarena (Bayside Boys Mix)" (1995–96)[47]
  • 31 tuần – Lonestar — "Amazed" (1999–2000)
  • 30 tuần – John Legend — "All of Me" (2013–14)[48]
  • 27 tuần – Creed — "With Arms Wide Open" (2000)
  • 26 tuần – Vertical Horizon — "Everything You Want" (2000)
  • 25 tuần – UB40 — "Red Red Wine" (1988)
  • 23 tuần – Patti Austin và James Ingram — "Baby, Come to Me" (1983), Sia hợp tác với Sean Paul – "Cheap Thrills" (2016), Camila Cabello hợp tác với Young Thug - "Havana" (2018)
  • 22 tuần – Vangelis — "Chariots of Fire" (1982), Lady Gaga hợp tác với Colby O'Donis — "Just Dance" (2008–09), Lady Gaga và Bradley Cooper – "Shallow" (2018–19)
  • 21 tuần – Nick Gilder — "Hot Child in the City" (1978), Robert John — "Sad Eyes" (1979), Outkast — "The Way You Move" (2003–04), Adele — "Set Fire to the Rain" (2011–12)

Bước tụt khỏi đầu hàng lớn nhất[sửa | sửa mã nguồn]

  • 1 - 38 - Taylor Swift - willow (11 tháng 12 năm 2020)
  • 1 - 34 - 6ix9ine ft. Nicki Minaj - Trollz (15 tháng 6 năm 2020)
  • 1–15 – Billy Preston — "Nothing from Nothing" (26 tháng 10 năm 1974)
  • 1–15 – Dionne Warwicke và The Spinners — "Then Came You" (2 tháng 11 năm 1974)
  • 1–12 – Simon & Garfunkel — "The Sound of Silence" (29 tháng 1 năm 1966)
  • 1–12 – Barry White — "Can't Get Enough of Your Love, Babe" (28 tháng 9 năm 1974)
  • 1–12 – Andy Kim — "Rock Me Gently" (5 tháng 10 năm 1974)
  • 1–12 – Stevie Wonder — "You Haven't Done Nothin'" (9 tháng 11 năm 1974)
  • 1–12 – Bachman-Turner Overdrive — "You Ain't Seen Nothing Yet" (16 tháng 11 năm 1974)
  • 1–12 – John Lennon and Plastic Ono Band — "Whatever Gets You thru the Night" (23 tháng 11 năm 1974)
  • 1–11 – Diana Ross — "Theme from Mahogany (Do You Know Where You're Going To)" (31 tháng 1 năm 1976)
  • 1–10 – Phil Collins — "Two Hearts" (4 tháng 2 năm 1989)

Nguồn:[49]

Bước lùi lớn nhất trong một tuần[sửa | sửa mã nguồn]

  • 17–96 (79 hạng) – Javier Colon — "Stitch by Stitch" (23 tháng 6 năm 2011)[50]
  • 21–99 (78 hạng) – Jordan Smith – "Somebody to Love" (2 tháng 1 năm 2016)[51]
  • 16–93 (77 hạng) – 5 Seconds of Summer — "Amnesia" (26 tháng 7 năm 2014)[52]
  • 17–92 (75 hạng) – Justin Bieber — "Die in Your Arms" (23 tháng 6 năm 2012)[53]
  • 17–91 (74 hạng) – Lil Wayne – "Can't Be Broken" (20 tháng 10 năm 2018)[54]
  • 23–96 (73 hạng) – Colbie Caillat – "I Do" (5 tháng 3 năm 2011)[55]
  • 21–94 (73 hạng) – Justin Bieber — "Never Let You Go" (27 tháng 3 năm 2010)[56]
  • 21–94 (73 hạng) – Glee Cast — "Empire State of Mind" (16 tháng 10 năm 2010)[57]
  • 16–89 (73 hạng) – Jonas Brothers — "Pushin' Me Away" (9 tháng 8 năm 2008)[58]
  • 13–86 (73 hạng) – Justin Timberlake và Matt Morris hợp tác với Charlie Sexton — "Hallelujah" (20 tháng 2 năm 2010)[59]
  • 20–92 (72 hạng) – The Beatles — "The Beatles Movie Medley" (5 tháng 6 năm 1982)[60]

Nguồn:[61]

Bước lùi khỏi bảng xếp hạng lớn nhất[sửa | sửa mã nguồn]

  • Từ #1 - Mariah Carey - "All I Want For Christmas Is You" (4 tháng 1 năm 2020)††
  • Từ #3 - Mariah Carey — "All I Want for Christmas is You" (12 tháng 1 năm 2019)††[62]
  • Từ #4 – Prince và The Revolution — "Purple Rain"† (21 tháng 5 năm 2016)
  • Từ #8 – Prince — "When Doves Cry"† (21 tháng 5 năm 2016), Bobby Helms – "Jingle Bell Rock" (12 tháng 1 năm 2019)††[62]
  • Từ #9 – Soko — "We Might Be Dead by Tomorrow" (5 tháng 4 năm 2014),[63] Brenda Lee – "Rockin' Around the Christmas Tree" (12 tháng 1 năm 2019)††[62]
  • Từ #10 – Burl Ives – "A Holly Jolly Christmas" (12 tháng 1 năm 2019)††[62]
  • Từ #11 – Jonas Brothers — "A Little Bit Longer" (30 tháng 8 năm 2008),[63][64] Taylor Swift — "Mean" (13 tháng 11 năm 2010),[65] One Direction — "Diana" (14 tháng 12 năm 2013)[66] Mariah Carey – "All I Want for Christmas is You" (16 tháng 1 năm 2016)††,[67] Nat King Cole – "The Christmas Song (Merry Christmas To You)" (12 tháng 1 năm 2019)††[68]

† — "Purple Rain" và "When Doves Cry" xuất liện lại trên Hot 100 trong hai tuần vào năm 2016, và thứ hạng trên chỉ được thể hiện vào lần xuất hiện lại này. Khi những bài hát này xuất hiện lần đầu vào năm 1984, thứ hạng của chúng trong tuần cuối cùng trên Hot 100 đều là dưới top 10.

†† — Bài hát chỉ xuất hiện vào mùa Giáng sinh.

Nguồn:[69]

Đĩa đơn quán quân hai lần bởi hai nghệ sĩ khác nhau[sửa | sửa mã nguồn]

  • "Go Away Little Girl" — Steve Lawrence (1963) và Donny Osmond (1971)
  • "The Loco-Motion" — Little Eva (1962) và Grand Funk (1974)
  • "Please Mr. Postman" — The Marvelettes (1961) và The Carpenters (1975)
  • "Venus" — Shocking Blue (1970) và Bananarama (1986)
  • "Lean on Me" — Bill Withers (1972) và Club Nouveau (1987)
  • "You Keep Me Hangin' On" — The Supremes (1966) và Kim Wilde (1987)
  • "When a Man Loves a Woman" — Percy Sledge (1966) và Michael Bolton (1991)
  • "I'll Be There" — The Jackson 5 (1970) và Mariah Carey (1992)
  • "Lady Marmalade" — Labelle (1975) và Christina Aguilera / Lil Kim / Mya / P!nk (2001)

Nguồn:[70][71]

Những bài hát quán quân không phải/hoàn toàn không phải bằng tiếng Anh[sửa | sửa mã nguồn]

  • "Nel Blu Dipinto Di Blu (Volare)" — Domenico Modugno (Tiếng Ý – 18 tháng 8 năm 1958 trong 5 tuần không liên tiếp)
  • "Sukiyaki" — Kyu Sakamoto (Tiếng Nhật – 15 tháng 6 năm 1963 trong 3 tuần)
  • "Dominique" — The Singing Nun (Tiếng Pháp – 7 tháng 12 năm 1963 trong 4 tuần)
  • "Rock Me Amadeus" — Falco (Tiếng Anh/Đức – 29 tháng 3 năm 1986 trong 3 tuần)
  • "La Bamba" — Los Lobos (Tiếng Tây Ban Nha – 29 tháng 8 năm 1987 trong 3 tuần)
  • "Macarena (Bayside Boys Mix)" — Los del Río (Tiếng Anh/Tây Ban Nha – 3 tháng 8 năm 1996 trong 14 tuần)
  • "Despacito" – Luis Fonsi và Daddy Yankee hợp tác với Justin Bieber (Tiếng Anh/Tây Ban Nha – 27 tháng 5 năm 2017 trong 16 tuần)
  • "I Like It" – Cardi B, J Balvin, Bad Bunny – (Tiếng Anh/Tây Ban Nha - 7 tháng 7 năm 2018 trong 1 tuần)
  • "Life Goes On" - BTS (Tiếng Hàn - 20 tháng 11 năm 2020 trong 1 tuần)
  • "Savage Love (Laxed – Siren Beat) (BTS Remix)" – Jawsh 685, Jason Derulo và BTS (Tiếng Anh/Hàn - 2 tháng 10 năm 2020 trong 1 tuần)

Những bài hát quán quân không lời[sửa | sửa mã nguồn]

  • "The Happy Organ" — Dave "Baby" Cortez (11 tháng 5 năm 1959 trong 1 tuần)
  • "Sleepwalk" — Santo and Johnny (21 tháng 5 năm 1959 trong 2 tuần)
  • "Theme from A Summer Place" — Percy Faith (22 tháng 2 năm 1960 trong 9 tuần)
  • "Wonderland by Night" — Bert Kaempfert (9 tháng 1 năm 1961 trong 3 tuần)
  • "Calcutta" — Lawrence Welk (13 tháng 2 năm 1961 trong 2 tuần)
  • "Stranger on the Shore" — Mr. Acker Bilk (26 tháng 5 năm 1962 trong 1 tuần)
  • "The Stripper" — David Rose (7 tháng 2 năm 1962 trong 1 tuần)
  • "Telstar" — The Tornados (22 tháng 12 năm 1962 trong 3 tuần)
  • "Love Is Blue" — Paul Mauriat (10 tháng 2 năm 1968 trong 5 tuần)
  • "Grazing in the Grass" — Hugh Masekela (20 tháng 7 năm 1968 trong 2 tuần)
  • "Love Theme from Romeo and Juliet" — Henry Mancini (28 tháng 7 năm 1969 trong 2 tuần)
  • "Frankenstein" — The Edgar Winter Group (26 tháng 5 năm 1973 trong 1 tuần)
  • "Love's Theme" — Love Unlimited Orchestra (9 tháng 2 năm 1974 trong 1 tuần)
  • "TSOP (The Sound of Philadelphia)" — MFSB và The Three Degrees † (20 tháng 4 năm 1974 trong 2 tuần)
  • "Pick Up the Pieces" — Average White Band † (22 tháng 2 năm 1975 trong 1 tuần)
  • "The Hustle" — Van McCoy và the Soul City Symphony † (26 tháng 7 năm 1975 trong 1 tuần)
  • "Fly, Robin, Fly" — Silver Convention † (29 tháng 11 năm 1975 trong 3 tuần)
  • "Theme from S.W.A.T." — Rhythm Heritage (28 tháng 2 năm 1976 trong 1 tuần)
  • "A Fifth of Beethoven" — Walter Murphy and the Big Apple Band (9 tháng 10 năm 1976 trong 1 tuần)
  • "Gonna Fly Now" — Bill Conti † (2 tháng 7 năm 1977 trong 1 tuần)
  • "Star Wars Theme/Cantina Band" — Meco (1 tháng 10 năm 1977 trong 2 tuần)
  • "Rise" — Herb Alpert (20 tháng 10 năm 1979 trong 2 tuần)
  • "Chariots of Fire" — Vangelis (8 tháng 5 năm 1982 trong 1 tuần)
  • "Miami Vice Theme" — Jan Hammer (9 tháng 11 năm 1985 trong 1 tuần)
  • "Harlem Shake" — Baauer † (2 tháng 3 năm 2013 trong 5 tuần)

† — Có chứa một phần giọng hát, nhưng vẫn được xem xét là một bản nhạc không lời.

Thành tựu của nghệ sĩ[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều đĩa đơn quán quân nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Lượng đĩa đơn quán quân Nghệ sĩ Đĩa đơn thành công nhất
20 The Beatles "Hey Jude"[72]
19 Mariah Carey One Sweet Day (hợp tác với Boyz II Men)
18 Elvis Presley (Tiền Hot 100 và Hot 100) "Don't Be Cruel / Hound Dog"
14 Rihanna "We Found Love" (hợp tác với Calvin Harris)[73]
13 Michael Jackson "Say Say Say" (song ca với Paul McCartney)[74]
12 The Supremes "Love Child"[75]
Madonna "Like a Virgin"[76]
11 Whitney Houston "I Will Always Love You"[77]
10 Stevie Wonder "Ebony and Ivory" (song ca với Paul McCartney)[78]
Janet Jackson "Miss You Much"[79]

Nguồn:[80] [81] [82]

Nhiều tuần ở ngôi vị đầu bảng nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số tuần ở vị trí quán quân Nghệ sĩ
82 Mariah Carey
79 Elvis Presley†
60 Rihanna[83]
59 The Beatles
52 Drake
50 Boyz II Men
47 Usher
42 Beyoncé
37 Michael Jackson
34 Elton John
33 Janet Jackson
Katy Perry
*† Tiền Hot 100 và Hot 100. Presley thường được đề cập đã đạt được 80 tuần ở ngôi vị quán quân, khi "All Shook Up" có 9 tuần đứng đầu bảng xếp hạng "Most Played in Jukeboxes". Mặc dù nhà thống kê của Billboard Joel Whitburn vẫn tính tuần thứ 80 này dựa trên những nghiên cứu tồn tại trước đó, tạp chí Billboard vẫn đề cập Presley với 79 tuần.[84]*Hầu hết số tuần của Presley được tính trong giai đoạn tiền Hot 100. Nếu chỉ tính từ khi Billboard chuyển đổi hệ thống xếp hạng thành Hot 100, Presley có tổng cộng 22 tuần ở vị trí số một.

Nguồn:[80]

Nhiều đĩa đơn quán quân liên tiếp nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số lượng đĩa đơn Nghệ sĩ Hit đầu tiên và ngày lên ngôi đầu bảng Hit cuối cùng và ngày lên ngôi đầu bảng Bài hát phá vỡ kỷ lục
7 Whitney Houston "Saving All My Love for You"
(26 tháng 10 năm 1985)
"Where Do Broken Hearts Go"
(23 tháng 4 năm 1988)
"Love Will Save the Day"
(#9 – 27 tháng 8 năm 1988)
6 The Beatles "I Feel Fine"
(26 tháng 12 năm 1964)
"We Can Work It Out"
(8 tháng 1 năm 1966)
"Nowhere Man"
(#3 – 26 tháng 3 năm 1966)
Bee Gees "How Deep Is Your Love"
(24 tháng 12 năm 1977)
"Love You Inside Out"
(9 tháng 6 năm 1979)
"He's A Liar"
(#30 – 24 tháng 10 năm 1981)
5 Elvis Presley "A Big Hunk o' Love"
(10 tháng 8 năm 1959)
"Surrender"
(20 tháng 5 năm 1961)
"I Feel So Bad"
(#5 – tháng 5 năm 1961)
The Supremes "Where Did Our Love Go"
(22 tháng 8 năm 1964)
"Back in My Arms Again"
(12 tháng 6 năm 1965)
"Nothing but Heartaches"
(#11 – 4 tháng 9 năm 1965)
Michael Jackson "I Just Can't Stop Loving You" (với Siedah Garrett)
(19 tháng 9 năm 1987)
"Dirty Diana"
(2 tháng 7 năm 1988)
"Another Part of Me"
(#11 – 10 tháng 9 năm 1988)
Mariah Carey "Vision of Love"
(4 tháng 8 năm 1990)
"Emotions"
(12 tháng 10 năm 1991)
"Can't Let Go"
(#2 – 25 tháng 1 năm 1992)
"Fantasy"
(30 tháng 9 năm 1995)
"My All"
(23 tháng 5 năm 1998)
"When You Believe" (với Whitney Houston)
(#15 – 30 tháng 1 năm 1999)
Katy Perry "California Gurls" (hợp tác với Snoop Dogg)
(19 tháng 6 năm 2010)
"Last Friday Night (T.G.I.F.)"
(17 tháng 8 năm 2011)
"The One That Got Away"
(#3 – 7 tháng 1 năm 2012)

Lưu ý: Đĩa đơn "Thinking About You" của Houston không được tính là đã can thiệp vào kỷ lục của cô, vì nó không được phát hành trên các đài phát thanh nhạc Pop nên không xuất hiện trên Hot 100. Trường hợp này cũng được tính cho "Not Like the Movies" và "Circle the Drain" của Perry vì chúng chỉ là những đĩa đơn quảng bá, không phải đĩa đơn chính thức.

Nguồn:[85][86][87][88][89][90][90][91]

Nhiều tuần liên tiếp thống trị song song Hot 100 và Billboard 200 nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số tuầnNghệ sĩNăm
Xếp hạng
Đĩa đơnAlbum
12 The Beatles 1964 "I Want to Hold Your Hand", "She Loves You", "Can't Buy Me Love" Meet the Beatles!, The Beatles' Second Album
Whitney Houston 1992-93 "I Will Always Love You" The Bodyguard: Original Soundtrack Album
7 Michael Jackson 1983 "Billie Jean" Thriller
Drake 2016 "One Dance" (hợp tác với Wizkid và Kyla) Views
The Monkees 1966-67 "I'm a Believer" The Monkees, More of the Monkees

Nguồn:[92]

Nhiều năm liên tiếp có đĩa đơn quán quân nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số
năm
Nghệ sĩ Hit đầu tiên và ngày lên ngôi đầu bảng Hit cuối cùng và ngày lên ngôi đầu bảng
11 Mariah Carey "Vision of Love"
(4 tháng 8 năm 1990)
"Thank God I Found You"
(19 tháng 2 năm 2000)
7 Elvis Presley (tiền Hot 100 và Hot 100) "Heartbreak Hotel"
(17 tháng 3 năm 1956)
"Good Luck Charm"
(28 tháng 4 năm 1962)
The Beatles "I Want to Hold Your Hand"
(1 tháng 2 năm 1964)
"The Long and Winding Road"
(20 tháng 6 năm 1970)
6 The Supremes "Where Did Our Love Go"
(22 tháng 8 năm 1964)
"Someday We'll Be Together"
(27 tháng 12 năm 1969)
Lionel Richie "Endless Love"
(15 tháng 8 năm 1981)
"Say You, Say Me"
(11 tháng 1 năm 1986)

Nguồn:[93][94][95]

Nhiều đĩa đơn quán quân nhất trong một năm[sửa | sửa mã nguồn]

Số lượng
đĩa đơn
Nghệ sĩNăm
xếp hạng
Đĩa đơn
6 The Beatles 1964 "I Want to Hold Your Hand", "She Loves You", "Can't Buy Me Love", "Love Me Do", "A Hard Day's Night", "I Feel Fine"
5 1965 "I Feel Fine", "Eight Days a Week", "Ticket to Ride", "Help!", "Yesterday"
4 Elvis Presley
(tiền Hot 100)
1956 "Heartbreak Hotel", "I Want You, I Need You, I Love You", "Hound Dog" / "Don't Be Cruel", "Love Me Tender"
1957 "Too Much", "All Shook Up", "(Let Me Be Your) Teddy Bear", "Jailhouse Rock"
The Supremes 1965 "Come See About Me", "Stop! In the Name of Love", "Back in My Arms Again", "I Hear a Symphony"
Jackson 5 1970 "I Want You Back", "ABC", "The Love You Save", "I'll Be There"
George Michael 1988 "Faith", "Father Figure", "One More Try", "Monkey"
Usher 2004 "Yeah!" (hợp tác với Lil Jon và Ludacris), "Burn", "Confessions Part II", "My Boo" (song ca với Alicia Keys)
Rihanna 2010 "Rude Boy", "Love the Way You Lie" (Eminem hợp tác với Rihanna), "What's My Name?" (hợp tác với Drake), "Only Girl (In the World)"

Nguồn:[85][96][97][98]

Nhiều đĩa đơn lọt vào top 10 nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số lượng
đĩa đơn
Nghệ sĩ Nguồn
38 Madonna [80]
36† Elvis Presley [99]
34 The Beatles [80]
33 Drake [100]
31 Rihanna [101]
30 Michael Jackson [100]
28 Stevie Wonder [80]
Mariah Carey [102]
27 Elton John [80]
Janet Jackson [103]

Nguồn:[80][104][105]

Lưu ý: Nếu kết hợp những tác phẩm của Paul McCartney và the Beatles lại với nhau, ông sẽ đứng đầu danh sách với 57 hit top 10

Nhiều tuần liên tiếp trong top 10 nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số
tuần
Nghệ sĩ Năm
xếp hạng
Đĩa đơn
69 Katy Perry 2010–11 "California Gurls" (hợp tác với Snoop Dogg), "Teenage Dream", "Firework", "E.T." (hợp tác với Kanye West), "Last Friday Night (T.G.I.F.)"
61 The Chainsmokers 2016–17 "Don't Let Me Down" (hợp tác với Daya), "Closer" (hợp tác với Halsey), "Paris", "Something Just Like This" (với Coldplay)
51 Drake 2015–16 "Hotline Bling", "Work" (Rihanna hợp tác với Drake), "Summer Sixteen", "One Dance" (hợp tác với Wizkid và Kyla)
48 Ace of Base 1993–94 "All That She Wants", "The Sign", "Don't Turn Around"
46 Rihanna 2010–11 "Love the Way You Lie" (Eminem hợp tác với Rihanna), "Only Girl (In the World)", "What's My Name?" (hợp tác với Drake), "S&M"
45 The Weeknd 2015–16 "Earned It", "Can't Feel My Face", "The Hills"

Nguồn:[106][107][108]

Nhiều đĩa đơn á quân nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số đĩa đơn á quân Nghệ sĩ
6 Madonna
Taylor Swift
5 Elvis Presley
The Carpenters
Creedence Clearwater Revival

Ra mắt trong top 10 nhiều nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số lượng Nghệ sĩ Nguồn
17 Drake [100]
14 Taylor Swift [109]
12 Eminem [109]
11 Lil Wayne [110]
9 Ariana Grande [109]
8 Justin Bieber [109]
6 Lady Gaga [109]
Rihanna [109]

Nhiều đĩa đơn trong top 40 nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số lượngNghệ sĩNguồn
95 Drake [34]
81 Lil Wayne [34]
Elvis Presley† [34][111]
57 Elton John [34]
Taylor Swift [34]
52 Nicki Minaj [112]
51 Glee Cast [113]
50 The Beatles [113]
Rihanna [113]
Jay-Z [113]
49 Madonna [113]
Kanye West [113]

† Nếu tính những tác phẩm xuất hiện trước kỷ nguyên Hot 100, Presley sẽ được tính với 115 bài hát lọt vào top 40.[81]

Nhiều bài hát lọt vào Hot 100 nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Số lượng Nghệ sĩ Nguồn
207 Glee Cast [114]
193 Drake [115]
163 Lil Wayne [116]
138 Taylor Swift [117]
109 Elvis Presley † [114]
102 Nicki Minaj [118]
99 Jay-Z [115]
96 Kanye West [119]
93 Chris Brown [120]
91 James Brown [114]
84 Future [121]
75 Ray Charles [115]
74 Eminem [122]
73 Aretha Franklin [115]
71 Justin Bieber [123]
71 The Beatles [115]

Nguồn:[124]

Thay thế chính mình ở vị trí số một[sửa | sửa mã nguồn]

  • Elvis Presley — "Hound Dog" / "Don't Be Cruel" → "Love Me Tender" (27 tháng 10 năm 1956) (bảng xếp hạng "Best Sellers in Stores" và "Most Played by Jockeys")
  • The Beatles † — "I Want to Hold Your Hand" → "She Loves You" (ngày 21 tháng 3 năm 1964); "She Loves You" → "Can't Buy Me Love" (4 tháng 4 năm 1964)
  • Boyz II Men — "I'll Make Love to You" → "On Bended Knee" (3 tháng 12 năm 1994)
  • Ariana Grande- "Thank u, next" -> "7 rings" (22 tháng 1 năm 2019)
  • Puff Daddy — "I'll Be Missing You" (Puff Daddy và Faith Evans hợp tác với 112) → "Mo Money Mo Problems" (The Notorious B.I.G. hợp tác với Puff Daddy và Mase) (30 tháng 8 năm 1997)
  • Ja Rule — "Always on Time" (Ja Rule hợp tác với Ashanti) → "Ain't It Funny" (Jennifer Lopez hợp tác với Ja Rule) (9 tháng 3 năm 2002)
  • Nelly — "Hot in Herre" → "Dilemma" (Nelly hợp tác với Kelly Rowland) (17 tháng 8 năm 2002)
  • OutKast — "Hey Ya!" → "The Way You Move" (OutKast hợp tác với Sleepy Brown) (14 tháng 2 năm 2004)
  • Usher— "Yeah!" (Usher hợp tác với Lil Jon và Ludacris) → "Burn" (22 tháng 5 năm 2004); "Burn" → "Confessions Part II" (24 tháng 7 năm 2004)
  • T.I. — "Whatever You Like" → "Live Your Life" (T.I. hợp tác với Rihanna) (18 tháng 10 năm 2008); "Whatever You Like" → "Live Your Life" (15 tháng 11 năm 2008)
  • The Black Eyed Peas — "Boom Boom Pow" → "I Gotta Feeling" (11 tháng 7 năm 2009)
  • Taylor Swift — "Shake It Off" → "Blank Space" (29 tháng 11 năm 2014)
  • The Weeknd — "Can't Feel My Face" → "The Hills" (3 tháng 10 năm 2015)[125]
  • Justin Bieber — "Sorry" → "Love Yourself" (13 tháng 2 năm 2016)[105]; "I'm the One" (DJ Khaled hợp tác với Justin Bieber, Quavo, Chance the Rapper và Lil Wayne) → "Despacito" (Luis Fonsi và Daddy Yankee hợp tác với Justin Bieber) (27 tháng 5 năm 2017)
  • Drake – "God's Plan" →với 3 "Nice for What" (21 tháng 4 năm 2018); "Nice for What" → "In My Feelings" (21 tháng 7 năm 2018)
  • BTS —"Butter (bài hát)" →"Permission to Dance" (24 tháng 7 năm 2021)

† The Beatles là nghệ sĩ duy nhất trong lịch sử thay thế chính mình ở vị trí số một 3 bài hát liên tiếp.

Nguồn:[126]

Đạt hạng nhất sau khi qua đời[sửa | sửa mã nguồn]

  • Otis Redding (mất ngày 10 tháng 12 năm 1967) — "(Sittin' On) The Dock of the Bay" (16 tháng 3 năm 1968)
  • Janis Joplin (mất ngày 4 tháng 10 năm 1970) — "Me and Bobby McGee" (20 tháng 3 năm 1971)
  • Jim Croce (mất ngày 20 tháng 9 năm 1973) — "Time in a Bottle" (29 tháng 12 năm 1973)
  • John Lennon (mất ngày 8 tháng 12 năm 1980) — "(Just Like) Starting Over" (27 tháng 12 năm 1980)
  • The Notorious B.I.G. (mất ngày 9 tháng 3 năm 1997) — "Hypnotize" (3 tháng 5 năm 1997) và "Mo Money Mo Problems" (30 tháng 8 năm 1997)
  • Soulja Slim (mất ngày 26 tháng 11 năm 2003) — "Slow Motion" (Juvenile hợp tác với Soulja Slim) (7 tháng 11 năm 2004)
  • Static Major (mất ngày 25 tháng 2 năm 2008) — "Lollipop" (Lil Wayne hợp tác với Static Major) (3 tháng 5 năm 2008)
  • XXXTentacion (mất ngày 18 tháng 6 năm 2018) – "Sad!" (30 tháng 6 năm 2018)

Nguồn:[127]

Kỷ lục về độ tuổi[sửa | sửa mã nguồn]

  • Louis Armstrong (62 năm, 279 ngày tuổi) là nghệ sĩ lớn tuổi nhất từng đứng đầu Hot 100. Ông thiết lập kỷ lục này với "Hello, Dolly!" vào ngày 9 tháng 5 năm 1964.
  • Cher (52 năm, 297 ngày tuổi) là nữ nghệ sĩ lớn tuổi nhất từng đứng đầu Hot 100. Bà thiết lập kỷ lục này với "Believe" vào ngày 13 tháng 3 năm 1999.
  • Michael Jackson (11 năm, 155 ngày tuổi) là nghệ sĩ nhỏ tuổi nhất từng đứng đầu Hot 100. Ông thiết lập kỷ lục này, dưới tư cách là thành viên của the Jackson 5, với "I Want You Back" vào ngày 31 tháng 1 năm 1970.
  • Stevie Wonder (13 năm, 89 ngày tuổi) là nghệ sĩ đơn ca nhỏ tuổi nhất từng đứng đầu Hot 100. Ông thiết lập kỷ lục này với "Fingertips Pt. 2" vào ngày 10 tháng 8 năm 1963.
  • Little Peggy March (15 năm, 50 ngày tuổi) là nghệ sĩ nữ nhỏ tuổi nhất từng đứng đầu Hot 100. Bà thiết lập kỷ lục này với "I Will Follow Him" vào ngày 27 tháng 4 năm 1963.
  • Tony Bennett, khi đó 85 năm, 59 ngày tuổi, là nghệ sĩ lớn tuổi nhất từng xuất hiện trên Hot 100, với "Body and Soul", song ca với Amy Winehouse, đạt vị trí thứ 87 vào ngày 1 tháng 10 năm 2011.
  • Nghệ sĩ người Pháp Jordy Lemoine (5 năm, 156 ngày tuổi) là nghệ sĩ nhỏ tuổi nhất từng xuất hiện trên Hot 100, với "Dur dur d'être bébé! (It's Tough to Be a Baby)", khi đó mang nghệ danh Jordy, xuất hiện trên bảng xếp hạng vào ngày 19 tháng 6 năm 1993.[128][129]

Kỷ lục về khoảng cách[sửa | sửa mã nguồn]

  • Khoảng cách dài nhất giữa những đĩa đơn quán quân của một nghệ sĩ là 24 năm, 355 ngày của Cher. Đĩa đơn "Believe" của cô đạt hạng nhất vào ngày 13 tháng 3 năm 1999, lần đầu tiên kể từ đĩa đơn quán quân gần nhất của cô "Dark Lady" vào ngày 23 tháng 3 năm 1974.
  • Cher còn giữ kỷ lục về khoảng cách giữa đĩa đơn quán quân đầu tiên và gần nhất trên Hot 100 từ trước đến nay: 33 năm, 232 ngày (từ "I Got You Babe" của Sonny & Cher ngày 14 tháng 8 năm 1965 đến tuần cuối ở hạng nhất của "Believe" ngày 3 tháng 4 năm 1999).
  • Kỷ lục về khoảng cách chờ đợi dài nhất giữa đĩa đơn xuất hiện đầu tiên trên Hot 100 đến đĩa đơn quán quân đầu tiên thuộc về Santana, với 30 năm kể từ lần đầu tiên ông xuất hiện trên Hot 100 với "Jingo" (25 tháng 10 năm 1969) và tuần đầu tiên trong số 12 tuần ở hạng nhất với "Smooth," hợp tác với Rob Thomas (23 tháng 10 năm 1999).

Thành tựu của album[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều đĩa đơn quán quân nhất từ một album[sửa | sửa mã nguồn]

Nghệ sĩAlbumNămSố lượng
đĩa đơn
Michael Jackson Bad 1987 5
Katy Perry Teenage Dream 2010
Nhiều nghệ sĩ Saturday Night Fever 1977 4
Whitney Houston Whitney 1987
George Michael Faith
Paula Abdul Forever Your Girl 1988
Janet Jackson Janet Jackson's Rhythm Nation 1814 1989
Mariah Carey Mariah Carey 1990
Usher Confessions 2004
Whitney Houston Whitney Houston 1985 3
Madonna True Blue 1986
Mariah Carey Daydream 1995
Fergie The Dutchess 2006
The Black Eyed Peas The E.N.D 2009
Rihanna LOUD 2010
Adele 21 2011
Taylor Swift 1989 2014
Justin Bieber Purpose 2015
The Weeknd After Hours 2020

Nguồn:[130]¤

  • Saturday Night Fever bao gồm những đĩa đơn quán quân từ hai nghệ sĩ khác nhau: "How Deep Is Your Love", "Stayin' Alive" và "Night Fever" bởi the Bee Gees; và "If I Can't Have You" bởi Yvonne Elliman.
  • Teenage Dream: The Complete Confection là một phiên bản tái phát hành của album Teenage Dream của Katy Perry, và bao gồm thêm một đĩa đơn quán quân khác, "Part Of Me", nâng tổng số cuối cùng của cô thành 6. Tuy nhiên, thành tích này không được tính vì những đĩa đơn từ phiên bản tái phát hành của một album và không phải từ bản gốc đều không được tính.[131]

Nhiều đĩa đơn lọt vào top 10 nhất từ một album[sửa | sửa mã nguồn]

Nghệ sĩAlbumNămSố lượng
đĩa đơn
Michael Jackson Thriller 1982 7
Bruce Springsteen Born in the U.S.A. 1984
Janet Jackson Janet Jackson's Rhythm Nation 1814 1989
Drake Scorpion 2018
Michael Jackson Bad 1987 6
George Michael Faith
Janet Jackson Janet. 1993
Katy Perry †† Teenage Dream 2010
Lionel Richie Can't Slow Down 1983 5
Janet Jackson Control 1986
Genesis Invisible Touch
Madonna True Blue
Huey Lewis and the News Fore!
Whitney Houston Whitney 1987
Paula Abdul Forever Your Girl 1988
Bobby Brown Don't Be Cruel
New Kids on the Block Hangin' Tough
Bon Jovi New Jersey
Milli Vanilli Girl You Know It's True 1989
Nhiều nghệ sĩ † Waiting to Exhale 1995
Fergie The Dutchess 2006
The Black Eyed Peas The E.N.D. 2009
Taylor Swift 1989 2014

Nguồn:[132]

† Waiting to Exhale bao gồm những đĩa đơn top 10 của 5 nghệ sĩ khác nhau: "Exhale (Shoop Shoop)" và "Count on Me" bởi Whitney Houston (bài hát sau là bản song ca với CeCe Winans), "Not Gon' Cry" bởi Mary J. Blige, "Sittin' Up in My Room" bởi Brandy, and "Let It Flow" bởi Toni Braxton.

†† Teenage Dream: The Complete Confection là một phiên bản tái phát hành của album Teenage Dream của Katy Perry, và bao gồm thêm hai đĩa đơn khác lọt vào top 10, nâng tổng số cuối cùng của cô thành 8. Tuy nhiên, thành tích này không được tính vì những đĩa đơn từ phiên bản tái phát hành của một album và không phải từ bản gốc đều không được tính.[131]

Thành tựu của album khác[sửa | sửa mã nguồn]

  • Janet Jackson's Rhythm Nation 1814 của Janet Jackson là album sở hữu nhiều đĩa đơn lọt vào top 5 nhất, với 7.[133]
  • Janet Jackson là nghệ sĩ có nhiều album với nhiều đĩa đơn top 5 hoặc top 10 nhất từ trước đến nay, với 3 album: Control, Janet Jackson's Rhythm Nation 1814, và janet.[134]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Danh sách đĩa đơn quán quân (Mỹ)
  • Kỷ lục của UK Singles Chart

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Hot 100 Anniversary: Find Out The Top Songs Of All Time”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 10 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2015.[liên kết hỏng] This contains the heading of the article only, no charts.
  2. ^ This site contains the Hot 100's top 100 songs of all-time in the 50th anniversary edition in 2008.
  3. ^ “Hot 100 55th Anniversary Central”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 2 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2015.
  4. ^ “Greatest Hot 100 Songs & Artists of All Time: Chubby Checker's 'The Twist' & The Beatles Reign”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 12 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2016.
  5. ^ “The Biggest Hits of All: The Hot 100's All-Time Top 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 2 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2018.
  6. ^ “Greatest of All Time: Hot 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 12 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2018.
  7. ^ “Greatest of All Time: Hot 100 Artists”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 12 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2018.
  8. ^ Trust, Gary (ngày 2 tháng 4 năm 2018). “The Longest-Leading Hot 100 No. 1s”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2018.
  9. ^ Letkemann, Jessica (ngày 15 tháng 11 năm 2012). “Biggest No. 2 Hits Ever: The Top 40 Hot 100 Tunes To Not Hit No. 1”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2012.
  10. ^ a b c d e f g h Trust, Gary (ngày 20 tháng 5 năm 2019). “Lil Nas X's 'Old Town Road' Tops Billboard Hot 100 for Seventh Week, Ed Sheeran & Justin Bieber's 'I Don't Care' Debuts at No. 2”. Billboard. Nielsen Global Media. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2019.
  11. ^ a b c Trust, Gary (ngày 13 tháng 5 năm 2019). “Lil Nas X's 'Old Town Road' Rules Billboard Hot 100 for Sixth Week; Shawn Mendes, Logic & Eminem Debut in Top Five”. Billboard. Nielsen Global Media. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2019.
  12. ^ a b c d e f g h Trust, Gary (ngày 9 tháng 5 năm 2014). “Imagine Dragons' 'Radioactive' Ends Record Billboard Hot 100 Run”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2014.
  13. ^ Trust, Gary (ngày 20 tháng 2 năm 2013). “Baauer's 'Harlem Shake' Debuts Atop Revamped Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2013.
  14. ^ Trust, Gary (ngày 3 tháng 9 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' Holds At No. 1 On Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
  15. ^ Trust, Gary (ngày 8 tháng 9 năm 2015). “Justin Bieber Scores First Hot 100 No. 1 With Debut of 'What Do You Mean?'”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2015.
  16. ^ Trust, Gary (ngày 2 tháng 11 năm 2015). “Adele Says 'Hello' to No. 1 Hot 100 Debut; First Song to Sell 1 Million Downloads in a Week”. Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2015.
  17. ^ Trust, Gary (ngày 8 tháng 2 năm 2016). “Zayn's 'Pillowtalk' Debuts at No. 1 on Hot 100'”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2016.
  18. ^ Trust, Gary (ngày 16 tháng 5 năm 2016). “Justin Timberlake Debuts at No. 1 on Hot 100 With 'Can't Stop the Feeling!'”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2016.
  19. ^ “Ed Sheeran Debuts Atop Hot 100 With 'Shape of You' & in Top 10 With 'Castle on the Hill'”. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2017.
  20. ^ “DJ Khaled's All-Star 'I'm the One' Debuts at No. 1 on Billboard Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2017.
  21. ^ “Here Are the 34 Hits That Have Debuted at No. 1 On the Hot 100”. Billboard. Billboard Music. ngày 11 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2019.
  22. ^ Caulfield, Keith (ngày 8 tháng 10 năm 2008). “T.I. Maintains No. 1 Album While Britney Spears Zooms to No. 1 on the Hot 100”. Billboard magazine. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2008.
  23. ^ Silvio Pietroluongo (28 tháng 1 năm 2009). “Kelly Clarkson Breaks Record For Hot 100 Jump”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2009.
  24. ^ Caulfield, Keith (ngày 8 tháng 10 năm 2008). “T.I.'s 'Paper Trail' Leads To No. 1 On The Billboard 200”. Billboard magazine. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2008.
  25. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 11 tháng 2 năm 2009). “Eminem's 'Bottle' Breaks Digital Record”. Billboard magazine. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2009.
  26. ^ Trust, Gary (ngày 5 tháng 9 năm 2017). “Taylor Swift's 'Look What You Made Me Do' Leaps to No. 1 on Hot 100 With Top Streaming & Sales Week of 2017”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2017.
  27. ^ Trust, Gary (ngày 22 tháng 8 năm 2012). “Taylor Swift Scores First-Ever No. 1 on Billboard Hot 100 With 'Never'”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2012.
  28. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 27 tháng 8 năm 2008). “T.I. Sets New Record With Hot 100 No. 1 Jump”. Billboard magazine. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2008.
  29. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 3 tháng 11 năm 2010). “Rihanna's 'What's My Name?' Rockets to No. 1 on Hot 100”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2010.
  30. ^ Silvio Pietroluongo (ngày 18 tháng 2 năm 2009). “Flo Rida Topples Single-Week Download Mark”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2009.
  31. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 14 tháng 5 năm 2008). “Rihanna's 'Bow' Soars 52 Spots To Lead Hot 100”. Billboard magazine. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2008.
  32. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 10 tháng 3 năm 2010). “Taio Cruz Cruises To Record No. 1 Jump on Hot 100”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2010.
  33. ^ “Taylor Swift's 'Bad Blood' Blasts to No. 1 on Hot 100”.
  34. ^ a b c d e f Trust, Gary (ngày 6 tháng 5 năm 2019). “Lil Nas X's 'Old Town Road' Tops Billboard Hot 100 For Fifth Week, Taylor Swift's 'Me!' Vaults to No. 2”. Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2019.
  35. ^ “Hot 100: Week of ngày 7 tháng 2 năm 2009 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  36. ^ “Hot 100: Week of ngày 25 tháng 10 năm 2008 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  37. ^ “Hot 100: Week of ngày 7 tháng 4 năm 2007 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  38. ^ “Hot 100: Week of ngày 14 tháng 10 năm 2006 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  39. ^ Trust, Gary (ngày 26 tháng 10 năm 2011). “Adele's 'Someone Like You' Holds No. 1 on Hot 100 for Fifth Week; Rihanna, Drake on the Rise”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2011.
  40. ^ “Hot 100: Week of ngày 10 tháng 10 năm 2009 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  41. ^ “Hot 100: Week of ngày 14 tháng 3 năm 2009 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  42. ^ Trust, Gary (ngày 21 tháng 8 năm 2013). “Robin Thicke No. 1, Katy Perry No. 2 On Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2013.
  43. ^ “Hot 100: Week of ngày 11 tháng 2 năm 2006 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  44. ^ “Hot 100: Week of ngày 22 tháng 9 năm 2007 (Biggest Jump)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  45. ^ Trust, Gary (ngày 27 tháng 2 năm 2017). “Ed Sheeran's 'Shape of You' Leads Hot 100 for Fifth Week”. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.
  46. ^ Trust, Gary (ngày 13 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran Stays Atop Hot 100, Clean Bandit Bounds to Top 10”. Billboard. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2017.
  47. ^ Trust, Gary (4 tháng 8 năm 2009). “Backwards Bullets: This Week In Charts 1996”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2009.
  48. ^ Trust, Gary (ngày 7 tháng 5 năm 2014). “John Legend's 'All Of Me' Tops Hot 100, Ariana Grande Debuts At No. 3”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2014.
  49. ^ Whitburn, Joel (1998). Billboard Top 10 Charts 1958-1997. Menomonee Falls, WI, USA: Record Research. tr. 762. ISBN 0-89820-127-6.
  50. ^ “Hot 100: Week of ngày 23 tháng 7 năm 2011 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  51. ^ “Hot 100: Week of ngày 2 tháng 1 năm 2016 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2015.
  52. ^ “Hot 100: Week of ngày 26 tháng 7 năm 2014 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  53. ^ “Hot 100: Week of ngày 23 tháng 6 năm 2012 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  54. ^ “Hot 100: Week of ngày 20 tháng 10 năm 2018”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2018.
  55. ^ “Hot 100: Week of ngày 5 tháng 3 năm 2011 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  56. ^ “Hot 100: Week of ngày 27 tháng 3 năm 2010 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  57. ^ “Hot 100: Week of ngày 16 tháng 10 năm 2010 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2010.
  58. ^ “Hot 100: Week of ngày 9 tháng 8 năm 2008 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  59. ^ “Hot 100: Week of ngày 20 tháng 2 năm 2010 (Biggest Fall)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  60. ^ Hot 100. Billboard. ngày 5 tháng 6 năm 1982. tr. 68. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  61. ^ Trust, Gary (ngày 7 tháng 5 năm 2010). “Ask Billboard: Records About Records”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2010.
  62. ^ a b c d Trust, Gary (ngày 7 tháng 1 năm 2019). “Halsey's 'Without Me' Tops Billboard Hot 100, Becoming Her First No. 1 as a Lead Artist”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2019.
  63. ^ a b Trust, Gary (ngày 30 tháng 3 năm 2014). “Ask Billboard: Lady Gaga's Biggest Hot 100 Hits”. Billboard. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2014.
  64. ^ “US Singles Top 100 (ngày 30 tháng 8 năm 2008)”. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2014.
  65. ^ “US Singles Top 100 (ngày 13 tháng 11 năm 2010)”. ngày 4 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2010.
  66. ^ “US Singles Top 100 (ngày 14 tháng 12 năm 2013)”. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2014.
  67. ^ “US Singles Top 100 (ngày 16 tháng 1 năm 2016)”. ngày 5 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  68. ^ “US Singles Top 100 (ngày 12 tháng 1 năm 2019)”. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2019.
  69. ^ Trust, Gary. “Chart Beat Chat”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2012.
  70. ^ “Originals and Covers Both that hit Number One”. Billboard. Retro Hits. 2000. Bản gốc lưu trữ Tháng 2 3, 2013. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2012.
  71. ^ “Cover Me: Same Songs to Hit No. 1 By Two Different Artists”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2012.
  72. ^ Bronson, Fred (ngày 2 tháng 8 năm 2013). “Hot 100 55th Anniversary: The All-time Top 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2013.
  73. ^ Bronson, Fred (ngày 2 tháng 8 năm 2013). “Hot 100 55th Anniversary: The All-time Top 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2013.
  74. ^ Trust, Gary (ngày 17 tháng 6 năm 2010). “Say Say Say ranks as Michael Jackson's Biggest Billboard Hit”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2013.
  75. ^ Lipshutz, Jason (ngày 28 tháng 4 năm 2014). “Top 40 Girl Group Songs Of All Time”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2015.
  76. ^ Caulfield, Keith (ngày 16 tháng 8 năm 2013). “Madonna's 40 Biggest Billboard Hits”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2013.
  77. ^ Bronson, Fred (ngày 2 tháng 8 năm 2013). “Hot 100 55th Anniversary: The All-time Top 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2013.
  78. ^ Bronson, Fred (ngày 2 tháng 8 năm 2013). “Hot 100 55th Anniversary: The All-time Top 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2013.
  79. ^ Megill, Carl (ngày 28 tháng 2 năm 2011). “Top 20 Janet Jackson Hits”. Yahoo Contributor Network. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2013.
  80. ^ a b c d e f g Staff, Billboard (ngày 2 tháng 8 năm 2013). “Hot 100 55th Anniversary By The Numbers: Top 100 Artists, Most No. 1s, Biggest No. 2s, & More”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2013.
  81. ^ a b “Elvis's Top 40 Hits”. washingtonpost.com. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015.
  82. ^ Trust, Gary (ngày 22 tháng 2 năm 2016). “Rihanna & Drake Rise to No. 1 on Hot 100 With 'Work'”. Billboard. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2016.
  83. ^ Trust, Gary (ngày 18 tháng 4 năm 2016). “Rihanna Rules Hot 100, Desiigner's 'Panda' Pushes to No. 2 & Justin Bieber Makes History”. Billboard. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2016.
  84. ^ Bronson, Fred (ngày 10 tháng 4 năm 2008). “Chart Beat”. Billboard magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2008.
  85. ^ a b Bronson, Fred (ngày 19 tháng 8 năm 2011). “How Katy Perry's Hot 100 Record Stacks-Up Against The Beatles, Elvis, Michael, Mariah & Whitney Summit”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2012.
  86. ^ [1] Lưu trữ 2012-02-07 tại Wayback Machine
  87. ^ “The Bee Gees Biography | The Rock and Roll Hall of Fame and Museum”. Rockhall.com. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015.
  88. ^ “The Supremes Biography | The Rock and Roll Hall of Fame and Museum”. Rockhall.com. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015.
  89. ^ Trust, Gary (ngày 17 tháng 8 năm 2011). “Katy Perry Ties Michael Jackson's Historic Hot 100 Record Summit”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2012.
  90. ^ a b “Mariah Carey Biography - Made Chart-Topping Entrance, Mixed Musical Styles, Life Took a Turn, Selected works - Album, Single, Columbia, and Artist - JRank Articles”. Biography.jrank.org. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015.
  91. ^ Whitburn, Joel (2007). “Top Pop Singles 1955–2006”. Record Research. tr. 669–674. ISBN 978-0-89820-172-7.
  92. ^ “Drake's 'One Dance' No. 1 on Hot 100 for Eighth Week”. Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2016.
  93. ^ Lamb, Bill. “Top 100 Pop Songs 2000”. About.com. About Entertainment. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  94. ^ Kurp, Josh (ngày 6 tháng 10 năm 2014). “The 7 Billboard Hot 100 Milestones That Will (Probably) Never Be Broken”. UPROXX Music. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015.
  95. ^ Trust, Gary (ngày 1 tháng 9 năm 2014). “This Week In Billboard Chart History: Aerosmith Ascends To No. 1”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015.
  96. ^ “Number One Trivia: Artist With The Most #1's In The Same Calendar Year”. Billboard. Retro Hits. 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
  97. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 25 tháng 11 năm 2010). “Rihanna's 'Only Girl' Rebounds to No. 1 on Hot 100”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2010.
  98. ^ “George Michael Album & Song Chart History”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
    • “Billboard Hot 100: Week of ngày 2 tháng 1 năm 1988”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
  99. ^ Bronson, Fred (ngày 3 tháng 4 năm 2008). “Chart Beat: Fred discusses chart action on Mariah Carey/Madonna/Elvis Presley, James Brown, Fantasia and more!”. billboard.com. Billboard Music. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2018. Until this week, Presley and Madonna were tied with 36 top 10 hits in the rock era, the highest total for any artist.
  100. ^ a b c Trust, Gary (ngày 9 tháng 7 năm 2018). “Drake Claims 7 of Hot 100's Top 10, Breaking the Beatles' Record, As 'Nice For What' Returns to No. 1 For Eighth Week”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2018.
  101. ^ Trust, Gary (ngày 16 tháng 4 năm 2018). “Drake Dethrones Himself Atop Billboard Hot 100, as 'Nice for What' Debuts at No. 1, Replacing 'God's Plan'”. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2018.
  102. ^ Trust, Gary (ngày 18 tháng 12 năm 2017). “Mariah Carey's 'All I Want for Christmas Is You' Hits Hot 100's Top 10 for First Time, 'Perfect' Still No. 1”. billboard.com. Billboard Magazine. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2018.
  103. ^ “Janet Jackson Hot 100 Chart History”. billboard.com. Billboard Music. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2019.
  104. ^ Trust, Gary (ngày 11 tháng 2 năm 2015). “Rihanna, Kanye West, Paul McCartney & Ellie Goulding Hit Hot 100's Top 10; Mark Ronson, Bruno Mars Still No. 1”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2015.
  105. ^ a b Trust, Gary (ngày 1 tháng 2 năm 2016). “Justin Bieber Replaces Himself at No. 1 on Hot 100 With 'Love Yourself'”. Billboard. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2016.
  106. ^ “The Chainsmokers Hold Atop Hot 100, Shawn Mendes Hits Top 10”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 29 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2016.
  107. ^ “The Chainsmokers & Halsey Lead Hot 100 & Rihanna Returns to Top 10, Fueled by VMAs Gains”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 6 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2016.
  108. ^ “Drake & Rihanna's 'Too Good' Hits New Heights on Hot 100”.
  109. ^ a b c d e f Zellner, Xander (ngày 30 tháng 4 năm 2018). “Ariana Grande Scores 9th Billboard Hot 100 Top 10 With 'No Tears Left to Cry'”. billboard.com. Billboard Music. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2018.
  110. ^ Zellner, Xander. “Lil Wayne Charts 22 Songs From 'Tha Carter V' on Billboard Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2018.
  111. ^ https://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/8491989/elvis-presley-highest-charting-hot-100-hit-since-1978-blue-christmas-debut
  112. ^ “Nicki Minaj Hot 100 Chart History”. billboard.com. Billboard Music. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2018.
  113. ^ a b c d e f Trust, Gary; Zellner, Xander (ngày 12 tháng 6 năm 2018). “Kanye West Debuts All 7 Songs From 'Ye' in Billboard Hot 100's Top 40”. billboard.com. Billboard Music. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2018.
  114. ^ a b c Trust, Gary (ngày 22 tháng 6 năm 2018). “Hot 100 Chart Moves: Taylor Swift's 'Delicate' Becomes Second Radio Songs Top 10 From 'Reputation'”. billboard.com. Billboard Music. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2018.
  115. ^ a b c d e Trust, Gary (ngày 5 tháng 11 năm 2018). “Nicki Minaj Makes History as First Woman With 100 Appearances on Billboard Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2018.
  116. ^ Trust, Gary (ngày 8 tháng 10 năm 2018). “Maroon 5 & Cardi B's 'Girls Like You' Leads Hot 100 for Third Week, Lil Wayne Is First to Debut Two Songs in Top Five”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2018.
  117. ^ “Taylor Swift Chart History”. Billboard. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2019.
  118. ^ “Nicki Minaj Hot 100 Chart History”. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  119. ^ “Kanye West Hot 100 Chart History”. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  120. ^ “Chris Brown Hot 100 Chart History”. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  121. ^ “Future Hot 100 Chart History”. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  122. ^ “Eminem Hot 100 Chart History”. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  123. ^ “Justin Bieber Hot 100 Chart History”. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2019.
  124. ^ Trust, Gary (ngày 27 tháng 12 năm 2016). “Drake Ties Lil Wayne for Most Hot 100 Hits Among Soloists”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2016.
  125. ^ Trust, Gary (ngày 21 tháng 9 năm 2015). “The Weeknd Replaces Himself Atop Hot 100 as 'The Hills' Hits No. 1”. Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2015.
  126. ^ Trust, Gary (ngày 19 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Makes Hot 100 History With 'Blank Space'”. Billboard.com. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2014.
  127. ^ Trust, Gary (ngày 25 tháng 6 năm 2018). “XXXTentacion's 'Sad!' Vaults From No. 52 to No. 1 on Billboard Hot 100 Following Rapper/Singer's Death”. Billboard. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2018.
  128. ^ Bronson, Fred (ngày 11 tháng 1 năm 2012). “Blue Ivy Carter, Jay-Z and Beyonce's Daughter, Becomes Youngest Person Ever to Appear on a Billboard Chart”. Billboard.biz. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2014.
  129. ^ Whitburn, Joel (2009). Top Pop Singles 12th Edition. Record Research. tr. 515. ISBN 0-89820-180-2.
  130. ^ Trust, Gary (ngày 31 tháng 5 năm 2015). “Ask Billboard: Is Taylor Swift's '1989' the Next 'Teenage Dream'?”. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2015.
  131. ^ a b “Katy Perry - Chart history - Billboard”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2017.
  132. ^ Anderson, Trevor (ngày 28 tháng 10 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' and Other Albums With Five Top 10 Hits (or More)”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2015.
  133. ^ Partridge, Kenneth (ngày 18 tháng 9 năm 2014). “Janet Jackson's 'Rhythm Nation 1814' Revisited By Jimmy Jam & Terry Lewis: Track-by-Track Review”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2015.
  134. ^ “Taylor Swift's 1989 and Other Albums With Five Top 10 Hits or More - Billboard”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2017.

Nguồn[sửa | sửa mã nguồn]

  • Fred Bronson's Billboard Book of Number 1 Hits, 5th Edition (ISBN 0-8230-7677-6)
  • Christopher G. Feldman The Billboard Book of No. 2 Singles (ISBN 0-8230-7695-4)
  • Joel Whitburn's Top Pop Singles 1955-2002 (ISBN 0-89820-155-1)
  • Joel Whitburn Presents the Billboard Pop Charts, 1955-1959 (ISBN 0-89820-092-X)
  • Joel Whitburn Presents the Billboard Hot 100 Charts: The Sixties (ISBN 0-89820-074-1)
  • Joel Whitburn Presents the Billboard Hot 100 Charts: The Seventies (ISBN 0-89820-076-8)
  • Joel Whitburn Presents the Billboard Hot 100 Charts: The Eighties (ISBN 0-89820-079-2)
  • Joel Whitburn Presents the Billboard Hot 100 Charts: The Nineties (ISBN 0-89820-137-3)
  • Thông tin tham khảo có thể kiểm tra tại Trang lưu trữ của Billboard

Top billboard 100 bài hát 2022 năm 2022

Logo Hot 100 hiện tại của Billboard

Billboard Hot 100 là bảng xếp hạng kỷ lục tiêu chuẩn công nghiệp âm nhạc tại Hoa Kỳ cho các bài hát, được xuất bản hàng tuần bởi tạp chí Billboard.Xếp hạng biểu đồ dựa trên doanh số (vật lý và kỹ thuật số), phát radio và phát trực tuyến tại Hoa Kỳ. [1]Billboard Hot 100 is the music industry standard record chart in the United States for songs, published weekly by Billboard magazine. Chart rankings are based on sales (physical and digital), radio play, and online streaming in the United States.[1]

Thời gian theo dõi hàng tuần để bán hàng ban đầu là từ thứ Hai đến Chủ nhật khi Nielsen bắt đầu theo dõi doanh số vào năm 1991, nhưng đã được thay đổi thành Thứ Sáu đến Thứ Năm vào tháng 7 năm 2015. Thời gian theo dõi này cũng áp dụng để biên dịch dữ liệu phát trực tuyến.Radio Airplay, không giống như số liệu bán hàng và phát trực tuyến, có sẵn trên cơ sở thời gian thực, cũng được theo dõi vào chu kỳ thứ Sáu đến thứ Năm có hiệu lực với bảng xếp hạng ngày 17 tháng 7 năm 2021 [2] (trước đó đến thứ Hai đến Chủ nhật và trước tháng 72015, Thứ Tư đến Thứ Ba [3]).Một biểu đồ mới được biên soạn và chính thức phát hành ra công chúng bởi Billboard vào thứ ba nhưng sau ngày thứ bảy sau.

Bài hát số một số đầu tiên của Billboard Hot 100 là "Fool Little Fool" của Ricky Nelson, vào ngày 4 tháng 8 năm 1958. [4]Kể từ vấn đề trong tuần kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 2022, Billboard Hot 100 đã có 1.144 mục nhập số một khác nhau.Bài hát số một của biểu đồ là "All I Want for Christmas is You" của Mariah Carey. [5]

Môn lịch sử

Top billboard 100 bài hát 2022 năm 2022

1958 Lặp lại logo

Biểu đồ đầu tiên được xuất bản bởi Billboard là "Mười người bán chạy nhất tuần trước trong số các bài hát nổi tiếng", một danh sách các bản nhạc bán chạy nhất, vào tháng 7 năm 1913. Các bảng xếp hạng khác liệt kê các buổi biểu diễn bài hát nổi tiếng trong rạp chiếu phim và diễn xuất.Năm 1928, "những con số nổi tiếng được giới thiệu bởi các ca sĩ và nhà lãnh đạo nổi tiếng" đã xuất hiện, trong đó bổ sung các buổi biểu diễn trên đài phát thanh cho các buổi biểu diễn trực tiếp.Vào ngày 4 tháng 1 năm 1936, tạp chí Billboard đã xuất bản "Mười kỷ lục tốt nhất cho tuần kết thúc", trong đó ghi lại 10 hồ sơ bán hàng hàng đầu của ba công ty thu âm hàng đầu theo báo cáo của chính các công ty.Vào tháng 10 năm 1938, một danh sách đánh giá "Hồ sơ tốt nhất trong tuần" đã được xử lý lại "Hướng dẫn mua kỷ lục Billboard" bằng cách kết hợp doanh số phát sóng và bảng âm nhạc, cuối cùng sẽ trở thành cuộc khảo sát thương mại đầu tiên về mức độ phổ biến kỷ lục. [6]Đây, "Biểu đồ phổ biến âm nhạc Billboard" đầy đủ cho tuần kết thúc vào ngày 20 tháng 7 năm 1940 và được xuất bản trong số phát hành ngày 27 tháng 7, với các danh sách bao gồm chơi jukebox, bán lẻ bán lẻ, bán hàng nhạc và phát radio.Được liệt kê là 10 bài hát của "Hồ sơ bán lẻ bán chạy nhất quốc gia", đây là tác nhân đầu tiên của bảng xếp hạng nhạc pop ngày nay, với "Tôi sẽ Never Smile Again" của Tommy Dorsey số một đầu tiên của nó. [7]

Bắt đầu từ ngày 24 tháng 3 năm 1945, bảng xếp hạng phổ biến hàng đầu của Billboard là danh hiệu danh dự của các bản hit.Biểu đồ này được xếp hạng các bài hát phổ biến nhất bất kể người biểu diễn (nó đã kết hợp các phiên bản khác nhau của cùng một bài hát của các nghệ sĩ khác nhau) dựa trên doanh số thu âm và bảng, các buổi biểu diễn của đĩa nhảy và các màn trình diễn của máy hát tự động được xác định bởi cuộc khảo sát trên toàn quốc của Billboard. [8]Khi bắt đầu kỷ nguyên nhạc rock năm 1955, có ba bảng xếp hạng đã đo các bài hát bằng các số liệu riêng lẻ: [9]'s lead popularity chart was the Honor Roll of Hits. This chart ranked the most popular songs regardless of performer (it combined different versions of the same song by different artists) based on record and sheet sales, disk jockey, and jukebox performances as determined by Billboard's weekly nationwide survey.[8] At the start of the rock era in 1955, there were three charts that measured songs by individual metrics:[9]

  • Những người bán hàng tốt nhất trong các cửa hàng là bảng xếp hạng bán chạy nhất lần đầu tiên được thành lập vào tháng 7 năm 1940. Biểu đồ này được xếp hạng đơn lớn nhất trong các cửa hàng bán lẻ, theo báo cáo của các thương nhân được khảo sát trên toàn quốc (20 đến 50 vị trí).
  • Được chơi nhiều nhất bởi Jockeys là bảng xếp hạng phát sóng ban đầu của Billboard.Nó xếp hạng các bài hát được chơi nhiều nhất trên các đài phát thanh Hoa Kỳ, theo báo cáo của các đài phát thanh và đài phát thanh (20 đến 25 vị trí).'s original airplay chart. It ranked the most played songs on United States radio stations, as reported by radio DJs and radio stations (20 to 25 positions).
  • Hầu hết được chơi trong Jukeboxes xếp hạng các bài hát được chơi nhiều nhất trong Jukeboxes trên khắp Hoa Kỳ (20 vị trí).Đây là một trong những cửa hàng chính của việc đo lường sự phổ biến của bài hát với thế hệ người nghe âm nhạc trẻ hơn, vì nhiều đài phát thanh chống lại việc thêm nhạc rock and roll vào danh sách phát của họ trong nhiều năm.

Mặc dù chính thức cả ba bảng xếp hạng đều có "trọng lượng" bằng nhau về tầm quan trọng của chúng, Billboard lại xem xét lại những người bán chạy nhất trong biểu đồ cửa hàng khi tham khảo hiệu suất của bài hát trước khi tạo ra Hot 100. [10]Vào tuần kết thúc vào ngày 12 tháng 11 năm 1955, Billboard đã xuất bản Top 100 lần đầu tiên.Top 100 kết hợp tất cả các khía cạnh của hiệu suất duy nhất (bán hàng, phát sóng và hoạt động máy hát tự động), dựa trên một hệ thống điểm thường mang lại trọng lượng bán hàng (mua) nhiều hơn so với phát thanh phát thanh.Số 1 đầu tiên trong bảng xếp hạng đó là "Tình yêu là một điều nhiều người" của bốn con át chủ bài. [6]Những người bán hàng giỏi nhất trong các cửa hàng, được chơi nhiều nhất bởi jockeys và hầu hết được chơi trong bảng xếp hạng máy hát tự động tiếp tục được xuất bản đồng thời với bảng xếp hạng Top 100 mới.The Top 100 for the first time. The Top 100 combined all aspects of a single's performance (sales, airplay and jukebox activity), based on a point system that typically gave sales (purchases) more weight than radio airplay. The first No. 1 in that chart was "Love Is a Many-Splendored Thing" by The Four Aces.[6] The Best Sellers in Stores, Most Played by Jockeys and Most Played in Jukeboxes charts continued to be published concurrently with the new Top 100 chart.

Vào ngày 17 tháng 6 năm 1957, Billboard đã ngừng biểu đồ Jukeboxes được chơi nhiều nhất, khi sự phổ biến của máy hát tự động suy yếu và các đài phát thanh kết hợp âm nhạc ngày càng nhiều nhạc rock vào danh sách phát của họ.Tuần ngày 28 tháng 7 năm 1958, có trận đấu cuối cùng được chơi nhiều nhất bởi Jockeys và 100 bảng xếp hạng Top 100, cả hai đều có phiên bản "Patricia" của Perez Prado được chơi lên hàng đầu. [11]

Vào ngày 4 tháng 8 năm 1958, Billboard đã ra mắt một bảng xếp hạng đơn thể loại chính: The Hot 100, với "Fool Little Fool" của Ricky Nelson, số 1. [12] [13] đầu tiên của nóHot 100 nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn công nghiệp và Billboard đã ngừng các sản phẩm bán chạy nhất trong bảng xếp hạng các cửa hàng vào ngày 13 tháng 10 năm 1958.

Hot 100 được tạo ra bởi các nhà báo Tom Noonan, Paul Ackerman và Seymour Stein;Stein không nhớ ai đã chọn tên. [14]

Billboard Hot 100 vẫn là tiêu chuẩn mà sự phổ biến của một bài hát được đo lường ở Hoa Kỳ.Hot 100 được xếp hạng bởi các ấn tượng của khán giả phát thanh phát thanh được đo bằng Nielsen BDS, dữ liệu bán hàng do Nielsen Soundcan biên soạn (cả tại bán lẻ và kỹ thuật số) và hoạt động phát trực tuyến được cung cấp bởi các nguồn âm nhạc trực tuyến. [9]

Có một số biểu đồ thành phần góp phần tính toán tổng thể của Hot 100. Các biểu đồ quan trọng nhất là:

  • Hot 100 Airplay: (mỗi bảng quảng cáo) Khoảng 1.000 trạm ", bao gồm các định dạng đương đại, R & B, hip hop, quốc gia, rock, phúc âm, tiếng Latin và Kitô giáo, theo dõi kỹ thuật số hai mươi bốn giờ một ngày, bảy ngày một tuần. Biểu đồ làĐược xếp hạng theo số lượng ấn tượng tổng số khán giả, được tính toán bằng cách tham chiếu chéo thời gian chính xác của phát thanh phát thanh với dữ liệu người nghe của Actionron. "
  • HOT Singles Sales: (Per Billboard) "Các đĩa đơn bán chạy nhất được biên soạn từ một mẫu cửa hàng bán lẻ quốc gia, báo cáo bán hàng hàng loạt và bán hàng internet được thu thập, biên soạn và cung cấp bởi Nielsen Soundcan."Biểu đồ được phát hành hàng tuần và đo lường doanh số bán các đĩa đơn thương mại vật lý.Với sự suy giảm doanh số của những người độc thân thể chất ở Mỹ, nhiều bài hát trở thành số một trên bảng xếp hạng này thường không biểu đồ trên Hot 100.
  • Bài hát kỹ thuật số: Bán hàng kỹ thuật số được Nielsen Soundcan theo dõi và được đưa vào như một phần của điểm bán hàng của tiêu đề.
  • Truyền phát các bài hát: Sự hợp tác giữa Billboard, Nielsen Soundcan và Hiệp hội các thương nhân ghi âm quốc gia đo lường các bài hát phát thanh được phát trực tuyến, các bài hát và video theo yêu cầu hàng đầu về các dịch vụ âm nhạc trực tuyến hàng đầu.

Tổng hợp

Tuần theo dõi để bán hàng, phát trực tuyến và phát sóng bắt đầu vào thứ Sáu và kết thúc vào thứ năm (phát sóng được sử dụng để có một tuần theo dõi từ thứ Hai đến Chủ nhật, nhưng có hiệu lực với bảng xếp hạng ngày 17 tháng 7 năm 2021, tuần đã được điều chỉnh để phù hợp với haisố liệu [2]).Một biểu đồ mới được Billboard biên soạn và chính thức phát hành ra công chúng vào thứ ba.Mỗi biểu đồ được gửi qua ngày với ngày phát hành "kết thúc tuần" bốn ngày sau khi các biểu đồ được làm mới trực tuyến (tức là, thứ bảy sau). [15]Ví dụ:

  • Thứ Sáu, ngày 1 tháng 1-Tuần theo dõi bắt đầu bán hàng, phát trực tuyến và phát sóng
  • Thứ Năm, ngày 7 tháng 1-Theo dõi tuần kết thúc để bán hàng, phát trực tuyến và phát sóng
  • Thứ ba, ngày 12 tháng 1-Biểu đồ mới được phát hành, với vấn đề sau ngày thứ bảy, ngày 16 tháng 1

Thay đổi chính sách

Các phương pháp và chính sách mà dữ liệu này được lấy và biên dịch đã thay đổi nhiều lần trong suốt lịch sử của biểu đồ.

Mặc dù sự ra đời của một bảng xếp hạng âm nhạc độc thân đã tạo ra các nhà sử học biểu đồ và những người theo dõi biểu đồ và ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa nhạc pop và tạo ra vô số bit của những câu đố, mục đích chính của Hot 100 là để hỗ trợ những người trong ngành công nghiệp âm nhạc: phản ánh sự phổ biến của ""Sản phẩm "(The Singles, The Album, v.v.) và để theo dõi xu hướng của công chúng mua.Billboard đã (nhiều lần) thay đổi phương pháp và chính sách của mình để đưa ra sự phản ánh chính xác và chính xác nhất về những gì phổ biến.Một ví dụ rất cơ bản về điều này sẽ là tỷ lệ được đưa ra cho doanh số và phát sóng.Trong lịch sử ban đầu của Hot 100, những người độc thân là cách hàng đầu mà mọi người đã mua nhạc.Đôi khi, khi doanh số bán hàng đơn trở nên mạnh mẽ, trọng lượng hơn được trao cho các điểm bán lẻ của một bài hát hơn là phát sóng phát thanh của nó.

Khi nhiều thập kỷ trôi qua, ngành công nghiệp ghi âm tập trung nhiều vào doanh số album hơn là bán hàng đơn.Các nhạc sĩ cuối cùng đã bày tỏ kết quả sáng tạo của họ dưới dạng album dài hơn là người độc thân, và đến những năm 1990, nhiều công ty thu âm đã ngừng phát hành hoàn toàn (xem phần cắt album, bên dưới).Cuối cùng, các điểm phát sóng của một bài hát được cân nặng hơn doanh số của nó.Billboard đã điều chỉnh tỷ lệ bán hàng/phát sóng nhiều lần để phản ánh chính xác hơn sự phổ biến thực sự của các bài hát.

Người độc thân hai mặt

Billboard cũng đã thay đổi chính sách nóng 100 của mình liên quan đến "đơn hai mặt" nhiều lần.Biểu đồ 100 trước nóng bỏng "Người bán chạy nhất trong các cửa hàng" được liệt kê các mặt A và-B phổ biến với nhau, với mặt được chơi thường xuyên nhất (dựa trên các biểu đồ khác của nó) được liệt kê trước tiên.Một trong những điều đáng chú ý nhất trong số này, nhưng khác xa với người duy nhất, là "Đừng tàn nhẫn" của Elvis Presley.Trong cuộc chạy bảng xếp hạng của Presley, thanh toán hàng đầu đã được chuyển qua lại giữa hai bên nhiều lần.Nhưng trong "các hộp được chơi nhiều nhất trong các hộp Juke", "hầu hết được chơi bởi Jockeys" và "Top 100", hai bài hát được liệt kê riêng, như đúng với tất cả các bài hát.Với sự khởi đầu của Hot 100 vào năm 1958, các mặt A và-B được biểu đồ riêng biệt, như họ đã có trên Top 100 trước đây.

Bắt đầu với bảng xếp hạng Hot 100 cho tuần kết thúc vào ngày 29 tháng 11 năm 1969, quy tắc này đã bị thay đổi;Nếu cả hai bên nhận được phát sóng đáng kể, chúng được liệt kê cùng nhau.Điều này bắt đầu trở thành một điểm moot vào năm 1972, vì hầu hết các hãng thu âm lớn đã củng cố một xu hướng mà họ đã bắt đầu vào những năm 1960 bằng cách đặt cùng một bài hát ở cả hai bên của những người độc thân được cung cấp cho đài phát thanh.

Các vấn đề phức tạp hơn bắt đầu phát sinh khi định dạng người độc thân điển hình của người độc thân nhường chỗ cho những người độc thân và bóng tối Maxi 12 inch, nhiều trong số đó chứa nhiều hơn một bên B.Các vấn đề khác phát sinh khi, trong một số trường hợp, một bên B cuối cùng sẽ vượt qua mức độ phổ biến của A"B-Side.

Việc bao gồm các lần cắt album trên Hot 100 đã đưa các vấn đề đình đám hai mặt để nghỉ ngơi vĩnh viễn.

Cắt album

Vì nhiều chính sách biểu đồ nóng 100 đã được sửa đổi trong những năm qua, một quy tắc luôn không đổi: các bài hát không đủ điều kiện để vào Hot 100 trừ khi chúng có sẵn để mua dưới dạng duy nhất.Tuy nhiên, vào ngày 5 tháng 12 năm 1998, Hot 100 đã thay đổi từ biểu đồ "Singles" sang biểu đồ "Bài hát". [16]Trong những năm 1990, một xu hướng phát triển trong ngành công nghiệp âm nhạc là quảng bá các bài hát lên đài phát thanh mà không bao giờ phát hành chúng như những người độc thân.Nó đã được tuyên bố bởi các hãng thu âm lớn [CITE cần] rằng những người độc thân đang ăn thịt người bán hàng, vì vậy họ đã dần dần bị loại bỏ.Trong giai đoạn này, các cáo buộc bắt đầu bay vào thao tác biểu đồ khi các nhãn sẽ giữ được phát hành một cho đến khi phát sóng ở đỉnh cao tuyệt đối của nó, do đó đưa ra một top 10 hoặc, trong một số trường hợp, một lần ra mắt số một.Trong nhiều trường hợp, một nhãn sẽ xóa một bản duy nhất khỏi danh mục của nó chỉ sau một tuần, do đó cho phép bài hát bước vào Hot 100, ra mắt cao và sau đó từ từ từ từ khi sản xuất một lần của bán lẻ đơn lẻ được bán hết.citation needed] that singles were cannibalizing album sales, so they were slowly phased out. During this period, accusations began to fly of chart manipulation as labels would hold off on releasing a single until airplay was at its absolute peak, thus prompting a top ten or, in some cases, a number-one debut. In many cases, a label would delete a single from its catalog after only one week, thus allowing the song to enter the Hot 100, make a high debut and then slowly decline in position as the one-time production of the retail single sold out.

Đó là trong giai đoạn này, một số bản hit chính nổi tiếng không bao giờ được xếp hạng trên Hot 100, hoặc được xếp hạng tốt sau khi phát sóng của họ đã giảm.Trong khoảng thời gian họ không được phát hành dưới dạng đĩa đơn, các bài hát không đủ điều kiện để lập biểu đồ.Nhiều bài hát trong số này đã thống trị bảng xếp hạng HOT 100 AirPlay trong thời gian dài:

  • 1995 The Rembrandts: "Tôi sẽ ở đó vì bạn" (số một trong tám tuần)
  • 1996 Không còn nghi ngờ gì nữa: "Đừng nói" (số một trong 16 tuần)
  • 1997 Sugar Ray có Super Cat: "Fly" (số một trong sáu tuần)
  • 1997 Will Smith: "Đàn ông mặc đồ đen" (số một trong bốn tuần)
  • 1997 The Cardigans: "Lovefool" (số hai trong tám tuần)
  • 1998 Natalie Imbruglia: "Torn" (số một trong 11 tuần)
  • 1998 Goo Goo Doll: "Iris" (số một trong 18 tuần)

Khi các cuộc tranh luận và xung đột xảy ra ngày càng thường xuyên hơn, Billboard cuối cùng đã trả lời các yêu cầu của các nghệ sĩ và người trong ngành âm nhạc bằng cách bao gồm các đĩa đơn chỉ phát sóng (hoặc "cắt album") trong Hot 100. [Cites cần thiết]citation needed]

EPS

Các bản phát hành chơi mở rộng (EP) đã được Billboard liệt kê trên Hot 100 và trong bảng xếp hạng 100 lần nóng (Top 100) cho đến giữa những năm 1960.Với sự phổ biến ngày càng tăng của các album, người ta đã quyết định chuyển EPS (thường chứa bốn đến sáu bản nhạc) từ Hot 100 đến Billboard 200, nơi chúng được đưa vào ngày nay.

Tải xuống kỹ thuật số, phát trực tuyến và các gói

Kể từ ngày 12 tháng 2 năm 2005, Billboard Hot 100 bài hát đã thanh toán các bản tải xuống kỹ thuật số từ các dịch vụ internet như iTunes, MusicMatch và Rhapsody.Billboard ban đầu bắt đầu theo dõi các bản tải xuống vào năm 2003 với biểu đồ theo dõi kỹ thuật số nóng.Tuy nhiên, những bản tải xuống này không được tính vào Hot 100 và biểu đồ đó (trái ngược với các bài hát kỹ thuật số nóng) đã đếm từng phiên bản của một bài hát riêng biệt (biểu đồ vẫn tồn tại ngày nay cùng với các bài hát kỹ thuật số nóng).Đây là cuộc đại tu lớn đầu tiên của công thức biểu đồ Hot 100 kể từ tháng 12 năm 1998.

Sự thay đổi trong phương pháp đã làm rung chuyển biểu đồ một cách đáng kể, với một số bài hát ra mắt trên bảng xếp hạng nghiêm ngặt với doanh số trực tuyến mạnh mẽ và những người khác tạo ra những bước nhảy vọt.Trong những năm gần đây, một số bài hát đã có thể đạt được các bước nhảy vị trí 80 đến 90 trong một tuần vì các thành phần kỹ thuật số của chúng đã được cung cấp tại các cửa hàng âm nhạc trực tuyến.Kể từ năm 2006, kỷ lục mọi thời đại cho phong trào lên một tuần lớn nhất đã bị phá vỡ chín lần.

Trong vấn đề ngày 11 tháng 8 năm 2007, Billboard bắt đầu kết hợp dữ liệu hàng tuần từ các phương tiện truyền thông và dịch vụ theo yêu cầu vào Hot 100. Hai công ty lớn đầu tiên cung cấp số liệu thống kê của họ cho Nielsen BDS hàng tuần là AOL Music và Yahoo!Âm nhạc. [17]Vào ngày 24 tháng 3 năm 2012, Billboard đã công chiếu biểu đồ các bài hát theo yêu cầu và dữ liệu của nó được đưa vào phương trình biên dịch Hot 100. [18]Điều này đã được mở rộng sang biểu đồ các bài hát phát trực tuyến rộng hơn vào tháng 1 năm 2013, xếp hạng các luồng radio web từ các dịch vụ như Spotify, cũng như các tiêu đề âm thanh theo yêu cầu. [19]Vào tháng 2 năm 2013, các lượt xem của Hoa Kỳ cho một bài hát trên YouTube đã được thêm vào công thức Hot 100."Harlem Shake" là bài hát đầu tiên đạt được số một sau khi những thay đổi được thực hiện. [20]

Vào tháng 7 năm 2020, Billboard tuyên bố rằng họ sẽ không còn cho phép bán các gói vật lý/kỹ thuật số được báo cáo là doanh số kỹ thuật số.Điều này đề cập đến các bài hát được mua cùng với hàng hóa, từ một trang web nghệ sĩ hoặc thông qua một nhà cung cấp khác.Tạp chí tuyên bố rằng đây là một chiến thuật thường được sử dụng bởi một số nghệ sĩ nhất định để tăng vị trí biểu đồ của họ.Thay vào đó, các bản phát hành vật lý như vậy hiện chỉ được tính khi chúng được chuyển đến người tiêu dùng, khiến chiến thuật "không hiệu quả". [21]

Phối lại

Một xu hướng ngày càng tăng trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 là phát hành một bài hát như một "bản phối lại" rất khác biệt về cấu trúc và nội dung trữ tình từ phiên bản gốc của nó đến nỗi nó thực chất là một bài hát hoàn toàn mới.Trong những trường hợp bình thường, các điểm phát sóng từ phiên bản album của bài hát, "Radio" Mix và/hoặc Dance Music Remix, v.v. đều được kết hợp và đưa vào màn trình diễn của bài hát trên Hot 100, vì cấu trúc, lời bài hát và giai điệu vẫn còn nguyên vẹn.Những lời chỉ trích bắt đầu khi các bài hát được ghi lại hoàn toàn đến mức chúng không còn giống với bản ghi âm gốc.Ví dụ đầu tiên về kịch bản này là "Tôi là thật" của Jennifer Lopez.Ban đầu bước vào Hot 100 trong phiên bản album của nó, một "bản phối lại" đã được phát hành giữa biểu đồ của nó có sự góp mặt của rapper Ja Rule.Phiên bản mới này được chứng minh là phổ biến hơn nhiều so với phiên bản album và bản nhạc được đưa lên số một.

Để giải quyết vấn đề này, Billboard hiện đã tách các điểm phát sóng với phiên bản gốc của bài hát và bản phối lại của nó, nếu bản phối được xác định là "bài hát mới".Kể từ khi quản lý quy tắc biểu đồ mới này, một số bài hát đã xếp hạng hai lần, thường được ghi có là "Phần 1" và "Phần 2".Quy tắc phối lại vẫn còn đúng.

Định kỳ

Billboard, trong nỗ lực cho phép biểu đồ duy trì hiện tại nhất có thể và đưa ra đại diện cho các nghệ sĩ và bài hát mới và đang phát triển, đã (từ năm 1991) đã loại bỏ các tiêu đề đã đạt được một số tiêu chí nhất định về thứ hạng và số tuần hiện tại của nó trên bảng xếp hạng.Các tiêu chí tái phát đã được sửa đổi nhiều lần và hiện tại (tính đến năm 2015), một bài hát được chuyển vĩnh viễn sang "Trạng thái tái phát" nếu nó đã dành 20 tuần cho Hot 100 và giảm xuống dưới vị trí số 50. Ngoài ra, các bài hát giảm dần được xóa khỏiBiểu đồ nếu xếp hạng dưới số 25 sau 52 tuần. [22]Các trường hợp ngoại lệ được thực hiện để phát hành lại và sự hồi sinh đột ngột trong sự phổ biến của các bài hát đã mất một thời gian rất dài để đạt được thành công chính thống.Những trường hợp hiếm hoi này được xử lý trên cơ sở từng trường hợp và cuối cùng được xác định bởi các nhà quản lý và nhân viên biểu đồ của Billboard.Các bài hát Giáng sinh là sự hiện diện thường xuyên trên Hot 100 mỗi tháng 12 kể từ khi thư giãn các quy tắc tái diễn, lên đến đỉnh điểm trong bản thu âm năm 1994 của Mariah Carey "All I Want for Christmas là bạn" đạt số 1 trên bảng xếp hạng vào tháng 12 năm 2019. [23]'s chart managers and staff. Christmas songs have been a regular presence on the Hot 100 each December since the relaxation of recurrent rules, culminating in Mariah Carey's 1994 recording "All I Want for Christmas is You" reaching #1 on the chart in December 2019.[23]

Điều chỉnh tuần theo dõi

Billboard đã thay đổi tuần theo dõi để bán hàng, phát trực tuyến và phát thanh phát thanh để phù hợp với ngày phát hành toàn cầu mới, hiện rơi vào thứ Sáu ở tất cả các lãnh thổ thị trường lớn (sản phẩm Hoa Kỳ trước đây được phát hành vào thứ ba trước tháng 6 năm 2015).Lịch theo dõi sửa đổi này có hiệu lực trong vấn đề ngày 25 tháng 7 năm 2015. [3]

Biểu đồ cuối năm

"Năm biểu đồ" của Billboard diễn ra từ tuần đầu tiên của tháng 12 đến tuần cuối cùng vào tháng 11.Lịch thay đổi này cho phép Billboard tính toán các biểu đồ cuối năm và phát hành chúng kịp thời cho vấn đề in cuối cùng vào tuần cuối tháng 12.'s "chart year" runs from the first week of December to the final week in November. This altered calendar allows for Billboard to calculate year-end charts and release them in time for its final print issue in the last week of December.

Trước Nielsen Soundcan, các biểu đồ đơn cuối năm được tính bằng một hệ thống điểm nghịch chỉ dựa trên màn trình diễn của bài hát trên Hot 100 (ví dụ, một bài hát sẽ được đưa ra một điểm trong một tuần ở vị trí 100, hai điểm cho mộtTuần dành ở vị trí 99 và vv, lên tới 100 điểm cho mỗi tuần ở vị trí số một).Các yếu tố khác bao gồm tổng số tuần mà một bài hát dành cho bảng xếp hạng và ở vị trí cao nhất của nó được tính vào tổng số cuối năm của nó.

Sau khi Billboard bắt đầu có được thông tin bán hàng và phát sóng từ Nielsen Soundcan, các bảng xếp hạng cuối năm hiện được tính bằng tổng số tích lũy rất đơn giản của các điểm bán hàng, phát trực tuyến và phát sóng.Điều này cung cấp một bức tranh chính xác hơn về bất kỳ bài hát phổ biến nhất trong năm nhất định, vì các điểm được tích lũy bởi một bài hát trong tuần của nó ở vị trí số một vào tháng 3 có thể ít hơn những bài hát được tích lũy bởi một bài hát khác đạt vị trí thứ ba vào tháng 1.Các bài hát ở đỉnh cao của sự nổi tiếng của họ tại thời điểm cắt giảm bảng xếp hạng tháng 11/tháng 12 nhiều lần cuối cùng được xếp hạng trên bảng xếp hạng năm sau, vì các điểm tích lũy của chúng được phân chia giữa hai năm biểu đồ, nhưng thường được xếp hạng thấp hơnhơn họ đã có đỉnh xảy ra trong một năm.

Sử dụng trong phương tiện truyền thông

Hot 100 phục vụ trong nhiều năm khi nguồn dữ liệu cho Đài tin vô tuyến hàng tuần cho thấy Top 40 của Mỹ. Mối quan hệ này đã kết thúc vào ngày 30 tháng 11 năm 1991, khi Top 40 của Mỹ bắt đầu sử dụng phía chỉ phát sóng của Hot 100 (sau đó được gọi là Top 40Đài phát thanh).Sự kết hợp liên tục của top 40 radio vào đầu những năm 1990 đã dẫn các đài dựa vào các định dạng cụ thể, có nghĩa là thực tế không có đài nào sẽ chơi nhiều thể loại thường sáng tác mỗi biểu đồ 100 nóng hàng tuần.Top 40 Radio Monitor). The ongoing splintering of Top 40 radio in the early 1990s led stations to lean into specific formats, meaning that practically no station would play the wide array of genres that typically composed each weekly Hot 100 chart.

Khả năng của một nghệ sĩ hoặc ban nhạc để có được các bản hit trong Hot 100 trong nhiều thập kỷ được công nhận là dấu hiệu của tuổi thọ và có thể thích nghi với việc thay đổi phong cách âm nhạc.Chỉ có năm nghệ sĩ đã có một bản hit Top 40 nóng bỏng trong bốn thập kỷ từ những năm 1980 đến những năm 2010: Michael Jackson, Madonna, "Weird Al" Yankovic, U2 và Kenny G. [24]Mariah Carey là nghệ sĩ đầu tiên có một đĩa đơn số một trong bốn thập kỷ khác nhau. [25]

Biểu đồ tương tự

Một bảng xếp hạng mới, The Pop 100, được Billboard tạo ra vào tháng 2 năm 2005 để trả lời những lời chỉ trích rằng Hot 100 tại thời điểm đó đã bị chi phối bởi Hip Hop và R & B.Nó đã bị ngừng vào tháng 6 năm 2009 do các bảng xếp hạng ngày càng giống nhau.

Canada Hot 100 đã được ra mắt vào ngày 16 tháng 6 năm 2007. Giống như bảng xếp hạng Hot 100, nó sử dụng theo dõi bán hàng và phát sóng được biên soạn bởi Nielsen Soundcan và BDS. [26]

Billboard Japan Hot 100 đã được ra mắt trong số phát hành ngày 31 tháng 5 năm 2008, sử dụng các phương pháp tương tự như bảng xếp hạng Hot 100 cho Hoa Kỳ và Canada, sử dụng dữ liệu bán hàng và phát sóng từ Soundcan Nhật Bản và dịch vụ theo dõi đài phát thanh Plantech. [27]

Phiên bản Việt Nam của Hot 100, Billboard Việt Nam Hot 100, đã được ra mắt vào ngày 14 tháng 1 năm 2022. [28]

Xem thêm

  • Top 40 của Mỹ
  • Người bán hàng giỏi nhất
  • Biểu đồ Billboard
  • Billboard Global 200
  • Giải thưởng âm nhạc Billboard
  • Chart-topper
  • Danh sách các nghệ sĩ đạt vị trí số một ở Hoa Kỳ
  • Danh sách các nghệ sĩ âm nhạc bán chạy nhất
  • Danh sách các thành tích và cột mốc biểu đồ Hot 100 của Billboard
  • Danh sách Billboard Hot 100 số một của những năm 2020
  • Danh sách Billboard Hot 100 Mười đơn hàng đầu
  • Danh sách những người độc thân một số Billboard-One
  • Chứng nhận duy nhất
  • Đá lăn Top 100

Ghi chú

  1. ^"Billboard hoàn thiện các thay đổi về cách các luồng được tính trọng số cho Billboard Hot 100 & Billboard 200".Bảng quảng cáo.Ngày 1 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2021 .________ 0: CS1 Duy trì: URL-status (liên kết) "Billboard Finalizes Changes to How Streams Are Weighted for Billboard Hot 100 & Billboard 200". Billboard. May 1, 2018. Retrieved August 4, 2021.{{cite magazine}}: CS1 maint: url-status (link)
  2. ^ abtrust, Gary (ngày 12 tháng 7 năm 2021)."BTS '' Butter 'dẫn đến HOT 100 trong tuần thứ bảy,' Montero 'của Lil Nas X trở lại top năm".Bảng quảng cáo.Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2021.a b Trust, Gary (July 12, 2021). "BTS' 'Butter' Leads Hot 100 for Seventh Week, Lil Nas X's 'Montero' Returns to Top Five". Billboard. Retrieved July 12, 2021.
  3. ^ ab "Billboard để thay đổi tuần theo dõi biểu đồ cho ngày phát hành toàn cầu".Bảng quảng cáo.Ngày 24 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2015.a b "Billboard to Alter Chart Tracking Week for Global Release Date". Billboard. June 24, 2015. Retrieved June 24, 2015.
  4. ^"Ricky Nelson quy tắc đầu tiên nóng 100 với 'kẻ ngốc nhỏ tội nghiệp'".Ngày 4 tháng 8 năm 2019. "Ricky Nelson Rules First-Ever Hot 100 with 'Poor Little Fool'". August 4, 2019.
  5. ^Tin tưởng, Gary (ngày 27 tháng 12 năm 2022)."Mariah Carey 'All I Want For Christmas là bạn' giữ trên đỉnh nóng 100, '' vào Giáng sinh 'cuối cùng'.Bảng quảng cáo.Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2022. Trust, Gary (December 27, 2022). "Mariah Carey's 'All I Want for Christmas Is You' Holds Atop Hot 100, Wham!'s 'Last Christmas' Hits Top Five". Billboard. Retrieved December 27, 2022.
  6. ^ ab "Biểu đồ trong quá trình tiến hóa: Một biên niên sử".Bảng quảng cáo.Ngày 21 tháng 5 năm 1977. P. & NBSP; RS-110.a b "The Chart in Evolution: A Chronicle". Billboard. May 21, 1977. p. RS-110.
  7. ^"Biểu đồ phổ biến âm nhạc Billboard" (PDF).Bảng quảng cáo.Ngày 27 tháng 7 năm 1940. P. & NBSP; 11. "Billboard Music Popularity Chart" (PDF). Billboard. July 27, 1940. p. 11.
  8. ^"Billboard Honor Roll of Hits đại diện cho đỉnh điểm của cuộc sống của đĩa trên bảng xếp hạng" (PDF).Bảng quảng cáo.Ngày 24 tháng 4 năm 1954. P. & NBSP; 34. "Billboard Honor Roll of Hits Represents Culmination of Disk's Life on the Charts" (PDF). Billboard. April 24, 1954. p. 34.
  9. ^ Abmolanphy, Chris (ngày 1 tháng 8 năm 2013)."Làm thế nào Hot 100 trở thành phong vũ biểu nổi tiếng của Mỹ".Tất cả mọi thứ đã được cân nhắc.NPR.Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2018.a b Molanphy, Chris (August 1, 2013). "How The Hot 100 Became America's Hit Barometer". All Things Considered. NPR. Retrieved March 14, 2018.
  10. ^"Biểu đồ đánh bại trò chuyện 12/2/2005".Bảng quảng cáo.Ngày 2 tháng 12 năm 2005. Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 28 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2020. Biểu đồ chính là những người bán chạy nhất trong các cửa hàng và đó là danh sách Billboard sử dụng làm biểu đồ 100 trước. "CHART BEAT CHAT 12/2/2005". Billboard. December 2, 2005. Archived from the original on September 28, 2015. Retrieved July 15, 2020. The main chart was Best Sellers in Stores, and that's the list Billboard uses as THE pre-Hot 100 chart.
  11. ^Whitburn, Joel (2012).Cuốn sách Billboard của top 40 hit, phiên bản thứ 9.Clarkson Potter/TEN TỐC ĐỘ.P. & NBSP; 879.ISBN & NBSP; 9780307985125. Whitburn, Joel (2012). The Billboard Book of Top 40 Hits, 9th Edition. Clarkson Potter/Ten Speed. p. 879. ISBN 9780307985125.
  12. ^"Hot 100 Kỷ niệm 55 năm: Mỗi bài hát số 1 (1958-2013)".Bảng quảng cáo.Ngày 2 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2021. "Hot 100 55th Anniversary: Every No. 1 Song (1958-2013)". Billboard. August 2, 2013. Retrieved December 26, 2021.
  13. ^"Billboard Hot 100".Bảng quảng cáo.Ngày 4 tháng 8 năm 1958. "Billboard Hot 100". Billboard. August 4, 1958.
  14. ^Tin tưởng, Gary (ngày 4 tháng 8 năm 2021)."Seymour Stein trên bảng quảng cáo của mình bắt đầu và Hot 100 được sinh ra vào ngày 4 tháng 8 năm 1958".Bảng quảng cáo.Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2022. Tom [Noonan] có thể đã đưa ra cái tên.Tôi chắc chắn đã không.Nó có thể là một trong những phóng viên, hoặc Paul Ackerman.Tôi chỉ không nhớ. Trust, Gary (August 4, 2021). "Seymour Stein on His Billboard Beginning & How the Hot 100 Was Born on Aug. 4, 1958". Billboard. Retrieved October 1, 2022. Tom [Noonan] could have come up with the name. I certainly did not. It might have been one of the reporters, or Paul Ackerman. I just don't remember.
  15. ^"Biểu đồ Billboard & Tạp chí có ngày ngay bây giờ để sắp xếp gần hơn để phát hành tuần".Bảng quảng cáo.Ngày 19 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2018. "Billboard Chart & Magazine Dates Now to Align Closer to Release Week". Billboard. December 19, 2017. Retrieved January 1, 2018.
  16. ^"Làm thế nào Hot 100 trở thành phong vũ biểu hit của Mỹ".NPR.Ngày 1 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2017. "How The Hot 100 Became America's Hit Barometer". NPR. August 1, 2013. Retrieved August 2, 2017.
  17. ^Mayfield, Geoff (ngày 4 tháng 8 năm 2007)."Billboard Hot 100 để bao gồm các luồng kỹ thuật số".Bảng quảng cáo.Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2007. Mayfield, Geoff (August 4, 2007). "Billboard Hot 100 To Include Digital Streams". Billboard. Retrieved July 30, 2007.
  18. ^Tin tưởng, Gary (ngày 14 tháng 3 năm 2012)."Hot 100 bị ảnh hưởng bởi biểu đồ các bài hát theo yêu cầu mới".Bảng quảng cáo.Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2012. Trust, Gary (March 14, 2012). "Hot 100 Impacted by New On-Demand Songs Chart". Billboard. Retrieved March 14, 2012.
  19. ^Pietroluongo, Silvio (ngày 17 tháng 1 năm 2013)."Biểu đồ bài hát mới/điện tử mới ra mắt với Will.i.am & Britney ở vị trí số 1".Bảng quảng cáo.Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2012. Pietroluongo, Silvio (January 17, 2013). "New Dance/Electronic Songs Chart Launches With Will.i.am & Britney at No. 1". Billboard. Retrieved February 19, 2012.
  20. ^Sisario, Ben (ngày 20 tháng 2 năm 2013)."Số 1 của Billboard là gì? Bây giờ YouTube có tiếng nói".Thời báo New York.Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2013. Sisario, Ben (February 20, 2013). "What's Billboard's No. 1? Now YouTube Has a Say". The New York Times. Retrieved February 20, 2013.
  21. ^Eggertsen, Chris (ngày 13 tháng 7 năm 2020)."Billboard thông báo các quy tắc biểu đồ mới: Không còn gói Merch & Ticket".Bảng quảng cáo.Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2020. Eggertsen, Chris (July 13, 2020). "Billboard Announces New Chart Rules: No More Merch & Ticket Bundles". Billboard. Retrieved July 16, 2020.
  22. ^Tin tưởng, Gary (ngày 23 tháng 11 năm 2015)."Adele đứng đầu 100 Hot 100 trong tuần thứ tư; Justin Bieber, Alessia Cara lọt vào top 10".Bảng quảng cáo.Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2015. Trust, Gary (November 23, 2015). "Adele Tops Hot 100 for Fourth Week; Justin Bieber, Alessia Cara Hit Top 10". Billboard. Retrieved November 23, 2015.
  23. ^"Mong muốn trở thành sự thật: 'All I Want For Christmas của Mariah Carey là bạn' đạt số 1 trên Hot 100 sau 25 năm chờ đợi".Bảng quảng cáo.Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2019. "Wish Come True: Mariah Carey's 'All I Want for Christmas Is You' Hits No. 1 on Hot 100 After 25-Year Wait". Billboard. Retrieved December 17, 2019.
  24. ^Tin tưởng, Gary (ngày 4 tháng 11 năm 2019)."Nhờ Kanye, Kenny G chỉ là hành động thứ năm với 100 lượt truy cập nóng bỏng 100 trong bốn thập kỷ qua".Bảng quảng cáo.Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2019. Trust, Gary (November 4, 2019). "Thanks to Kanye, Kenny G Is Just the Fifth Act With Hot 100 Top 40 Hits in Each of the Last Four Decades". Billboard. Retrieved November 6, 2019.
  25. ^Tin tưởng, Gary (ngày 30 tháng 12 năm 2019)."Mariah Carey trở thành nghệ sĩ đầu tiên ở vị trí số 1 trên Billboard Hot 100 trong bốn thập kỷ, nhờ 'Tất cả những gì tôi muốn cho Giáng sinh'".Bảng quảng cáo.Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2019. Trust, Gary (December 30, 2019). "Mariah Carey Becomes First Artist at No. 1 on Billboard Hot 100 in Four Decades, Thanks to 'All I Want for Christmas'". Billboard. Retrieved December 30, 2019.
  26. ^"Billboard ra mắt bảng xếp hạng Hot 100 của Canada".Bảng quảng cáo.Ngày 7 tháng 6 năm 2007 Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2010. "Billboard Launches Canadian Hot 100 Chart". Billboard. June 7, 2007. Retrieved June 4, 2010.
  27. ^Tin tưởng, Gary (ngày 21 tháng 5 năm 2008)."Billboard Japan Hot 100 tìm thấy khán giả toàn cầu".Bảng quảng cáo.Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2010. Trust, Gary (May 21, 2008). "Billboard Japan Hot 100 Finds Global Audience". Billboard. Retrieved June 4, 2010.
  28. ^"Billboard Việt Nam Hot 100".Bảng quảng cáo.Ngày 20 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2022. "Billboard Vietnam Hot 100". Billboard. January 20, 2022. Retrieved January 19, 2022.

Người giới thiệu

  • Bronson, Fred.Sách Billboard của số 1 lượt truy cập, Phiên bản thứ 5 (ISBN & NBSP; 0-8230-7677-6)
  • Feldman, Christopher G. Sách Billboard của số 2 đĩa đơn (ISBN & NBSP; 0-8230-7695-4)
  • Whitburn, Joel.Đĩa đơn hàng đầu 1955 Từ2008, 12 phiên bản (ISBN & NBSP; 0-89820-180-2)
  • Whitburn, Joel.Các bảng xếp hạng pop Billboard, 1955 Từ1959 (ISBN & NBSP; 0-89820-092-X)
  • Whitburn, Joel.Bảng xếp hạng Billboard Hot 100: Những năm sáu mươi (ISBN & NBSP; 0-89820-074-1)
  • Whitburn, Joel.Bảng xếp hạng Billboard Hot 100: The Seventies (ISBN & NBSP; 0-89820-076-8)
  • Whitburn, Joel.Bảng xếp hạng Billboard Hot 100: The Eighties (ISBN & NBSP; 0-89820-079-2)
  • Whitburn, Joel.Bảng xếp hạng Billboard Hot 100: The Nineties (ISBN & NBSP; 0-89820-137-3)

liện kết ngoại

  • Trang web chính thức

Bài hát số 1 ngay bây giờ 2022 là gì?

Taylor Swift, người chống anh hùngAnti-Hero

Bài hát nào là số 1 trên Billboard 2022?

Động vật thủy tinh '' Sóng nhiệt 'là bài hát Hot 100 của Billboard, Bad Bunny là nghệ sĩ hàng đầu: Năm trong bảng xếp hạng 2022. "Sóng nhiệt" đã mất kỷ lục 59 tuần để đạt được số

Bài hát số 1 Hot 100 của mọi thời đại là gì?

Top 10 bài hát của mọi thời đại (1958 Từ2021).

Ai hiện là số 1 trên Billboard Artist 100?

Nghệ sĩ cuối năm Billboard 100 năm 2021.