Thực trạng phần mềm nguồn mở trên thế giới như thế nào

Mã nguồn mở thường được lưu trữ trong kho lưu trữ công cộng và được chia sẻ công khai. Bất kỳ ai cũng có thể truy cập kho lưu trữ để sử dụng mã một cách độc lập hoặc đóng góp các cải tiến về thiết kế và chức năng của dự án tổng thể.

Mã nguồn mở thường được lưu trữ trong kho lưu trữ công cộng và được chia sẻ công khai.

Phần mềm nguồn mở là gì?

Phần mềm nguồn mở [Open source software – OSS] là phần mềm được phân phối cùng với mã nguồn, do đó, luôn sẵn sàng đối với việc sử dụng, sửa đổi và chia sẻ quyền truy cập. 

Mã nguồn là một phần của phần mềm mà hầu hết người dùng không bao giờ thấy. Đó là mã được các lập trình viên máy tính thiết lập để kiểm soát hoạt động của một chương trình hoặc ứng dụng. Các lập trình viên có quyền truy cập vào mã nguồn, tiến hành các thay đổi chương trình bằng cách thêm hoặc sửa chữa các phần trong đó. OSS thường bao gồm một giấy phép cho phép các lập trình viên sửa đổi phần mềm để phù hợp nhất với nhu cầu của họ và kiểm soát cách phần mềm có thể được phân phối.

Lịch sử của phần mềm mã nguồn mở

Ý tưởng về việc cung cấp mã nguồn có sẵn và miễn phí được đề xuất từ năm 1983 bởi Richard Stallman, một lập trình viên tại MIT. Stallman tin rằng lập trình viên nên được trao quyền truy cập vào phần mềm để sửa đổi nó theo ý muốn, mục tiêu là nhằm tìm hiểu và từng bước cải thiện phần mềm sao cho tối ưu nhất. Stallman bắt đầu phát hành code miễn phí theo giấy phép của riêng mình, được gọi là GNU Public License. Cách tiếp cận và tư tưởng của Stallman đã đặt tiền đề cho sự hình thành của Sáng kiến ​​Nguồn mở [Open Source Initiative] vào năm 1998.

Phần mềm mã nguồn mở hoạt động như thế nào?

Mã nguồn mở thường được lưu trữ trong kho lưu trữ công cộng và được chia sẻ công khai. Bất kỳ ai cũng có thể truy cập kho lưu trữ để sử dụng mã một cách độc lập hoặc đóng góp các cải tiến về thiết kế và chức năng của dự án tổng thể.

OSS thường đi kèm với giấy phép phân phối. Giấy phép này bao gồm các điều khoản xác định cách các nhà phát triển có thể sử dụng, nghiên cứu, sửa đổi và quan trọng nhất là phân phối phần mềm. Theo Synopsys Black Duck® KnowledgeBase, năm trong số các giấy phép phổ biến nhất là:

  • MIT License
  • GNU General Public License [GPL] 2.0 — Giấy phép này nghiêm ngặt hơn và yêu cầu các bản sao của code đã sửa đổi phải được cung cấp để sử dụng công khai
  • Apache License 2.0
  • GNU General Public License [GPL] 3.0
  • BSD License 2.0 [3 điều khoản, Mới hoặc Sửa đổi] 

Khi mã nguồn được thay đổi, OSS phải thông báo những thay đổi đó, cũng như các phương pháp đã được sử dụng. Tùy thuộc vào các điều khoản cấp phép, phần mềm phát sinh từ những sửa đổi này có thể sẽ phải cung cấp miễn phí trong một số trường hợp.

Phần mềm mã nguồn mở không chứa lỗi?

“Is OSS bug-free?”/ “Phần mềm mã nguồn mở không hề có lỗi?” Câu trả lời là không. Với việc nhiều bên thực hiện các sửa đổi và cải tiến, phần mềm mã nguồn mở không thể tránh khỏi các lỗ hổng về chất lượng, hiệu suất và bảo mật. Tuy nhiên, sự tham gia của số lượng rất lớn các lập trình viên trên toàn thế giới cũng có nghĩa là những lỗi này sẽ được xác định và sửa chữa nhanh hơn.

Bất kể loại phần mềm nào — mã nguồn mở hay thương mại — đều sẽ tồn tại các lỗ hổng về mã. Sự khác biệt chính là ai chịu trách nhiệm sửa lỗi; đối với phần mềm thương mại, nhà cung cấp chịu trách nhiệm, trong khi đó, người tiêu dùng chịu trách nhiệm về phần mềm nguồn mở. 

Phần mềm mã nguồn mở & phần mềm mã nguồn đóng: Khác biệt là gì?

Tiêu chíPhần mềm mã nguồn mởPhần mềm mã nguồn đóng
Giá thànhMiễn phí truy cập và sử dụngChi phí thay đổi tùy theo quy mô của phần mềm.
Quyền tùy chỉnhHoàn toàn có thể tùy chỉnh nhưng phụ thuộc vào giấy phép nguồn mở. Các yêu cầu thay đổi phải được gửi đến công ty bán phần mềm. Điều này bao gồm các bản sửa lỗi, tính năng và cải tiến.
Trải nghiệm người dùngTrải nghiệm người dùng thường không cao như đối với phần mềm mã nguồn đóng. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc vào mục tiêu của dự án và năng lực của đơn vị duy trì.Thân thiện hơn với người dùng. Trải nghiệm người dùng được để cao, bởi đây là sản phẩm vì lợi nhuận 
Chính sách hậu mãiMột số phần mềm mã nguồn mở rất phổ biến [ví dụ: OSS do Red Hat hoặc SUSE phân phối] có nhiều hỗ trợ. Nếu không, người dùng có thể tìm trợ giúp thông qua các diễn đàn hoặc email.Đội ngũ hỗ trợ luôn sẵn sàng. Mức độ dịch vụ khả dụng tùy thuộc vào thỏa thuận mức dịch vụ [SLA].
Bảo mậtMã nguồn được mở để mọi người cùng xem xét, phát hiện và giảm thiểu nguy cơ tồn tại các lỗi. Tuy nhiên, điều này không loại trừ một số lỗ hổng bảo mật có thể gây ra rủi ro đáng kể. Vì mã nguồn được đóng nên việc phát hiện lỗi có những giới hạn nhất định và các nhà phát triển có trách nhiệm khắc phục các rủi ro bảo mật.
Vendor lock-inKhông có vendor lock-in về chi phí đi kèm. Việc tích hợp vào hệ thông có thể tạo ra ràng buộc kĩ thuật sau này.Trong hầu hết các trường hợp, có nhiều khoản đầu tư lớn vào các phần mềm độc quyền. Việc chuyển sang một nhà cung cấp khác hoặc một giải pháp mã nguồn mở có thể gây ra tốn kém về chi phí
Mức độ phổ biếnMột số giải pháp mã nguồn mở rất phổ biến và thậm chí còn dẫn đầu thị trường [ví dụ: Linux, Apache].Trong một số ngành, phần mềm độc quyền phổ biến hơn, đặc biệt nếu nó đã có mặt trên thị trường trong nhiều năm.
Sự tham gia của cộng đồngBản chất của phần mềm mã nguồn mở là cho phép cộng đồng tham gia phát triển, đánh giá, phê bình và cải tiến phần mềm.Cộng đồng khép kín.
Phát triển tính năng mớiNgười dùng có thể cải tiến hay phát triển tính năng mới nếu cầnChủ sở hữu phần mềm chịu trách nhiệm phát triển tính năng
So sánh phần mềm mã nguồn mở và phần mềm mã nguồn đóng

Ưu và nhược điểm của phần mềm mã nguồn mở

Ưu điểm

  • Phần mềm mã nguồn mở là hoàn toàn miễn phí
  • Phần mềm mã nguồn mở có khả năng linh hoạt cao, các nhà phát triển có thể kiểm tra hoạt động của mã và thực hiện các thay đổi về tính năng để phù hợp hơn với nhu cầu riêng của họ.
  • Mã nguồn mở mang tính ổn định; có thể được sử dụng cho các dự án dài hạn.
  • Mã nguồn mở thúc đẩy đổi mới, sáng tạo. Các lập trình viên có thể sử dụng mã có sẵn để cải thiện phần mềm và thậm chí đưa ra những đổi mới của riêng họ.
  • Mã nguồn mở được liên tục sửa đổi và cải tiến bởi cộng đồng cùng tham gia phát triển. 
  • Mã nguồn mở mang tới cho các lập trình viên một cơ hội học tập tuyệt vời. Bởi mã nguồn mở có thể truy cập công khai, sinh viên do đó dễ dàng nghiên cứu, học cách phát triển phần mềm, tiếp nhận nhận xét, đánh giá từ những người khác, đồng thời chia sẻ những lỗi gặp phải để tránh việc lặp lại các lỗi tương tự.

Nhược điểm

  • Mã nguồn mở có thể khó sử dụng, khó thiết lập và thiếu một giao diện thân thiện với người dùng.
  • Mã nguồn mở có thể gây ra các vấn đề về tính tương thích. Khi lập trình phần cứng độc quyền với OSS, thường cần có các trình điều khiển chuyên biệt chỉ có sẵn từ nhà sản xuất phần cứng.
  • Phần mềm mã nguồn mở có thể đặt ra các vấn đề về trách nhiệm pháp lý. Không giống như phần mềm thương mại, được kiểm soát hoàn toàn bởi nhà cung cấp, mã nguồn mở hiếm khi có bất kỳ bảo hành, trách nhiệm pháp lý hoặc bồi thường vi phạm nào. Điều này khiến người dùng của phần mềm mã nguồn mở có trách nhiệm duy trì việc tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý.

Nhằm thúc đẩy chia sẻ dữ liệu y tế, hướng tới xây dựng tiền đề phát triển cho cộng đồng Trí tuệ nhân tạo và Khoa học dữ liệu, VinBigdata quyết định mở toàn bộ mã nguồn của VinDr Lab – phần mềm gán nhãn dữ liệu y tế cho cộng đồng. VinDr Lab là phần mềm mã nguồn mở cho phép quản lý và gán nhãn dữ liệu ảnh y tế. Phần mềm được VinBigdata phát triển để lược bỏ những khó khăn mà các kỹ sư, tổ chức gặp phải trong quá trình xây dựng các giải pháp y tế ứng dụng Trí tuệ nhân tạo. Người dùng hoàn toàn có thể tùy chỉnh mã nguồn để phục vụ các mục đích riêng của tổ chức, cá nhân. Cộng đồng quan tâm có thể truy cập tại: //github.com/vinbigdata-medical/vindr-lab 

Phần mềm tự do nguồn mở [free and open-source software, viết tắt là FOSS] là thuật ngữ gần đây được khuyến khích sử dụng thay thế cho thuật ngữ “phần mềm nguồn mở” và đặc biệt là thuật ngữ “mã nguồn mở” bởi vì sự bó hẹp và dễ bị lợi dụng để đánh lừa người nghe [theo kiểu: có mã nguồn có nghĩa là “phần mềm nguồn mở”]. Mặc dù đối với đa số người dùng, nói “mã nguồn mở”, “phần mềm nguồn mở” hay “phần mềm tự do nguồn mở” là tương đương nhau nhưng thực tế chúng là những khái niệm khác nhau. Phần mềm tự do nguồn mở là một thuật ngữ bao gồm cả phần mềm tự do [free software] và phần mềm nguồn mở [open source software, viết tắt là OSS]. Phần mềm tự do nguồn mở cung cấp cho người sử dụng 4 quyền: quyền sử dụng [use], sao chép [copy], nghiên cứu [study], sửa đổi [change] và cải tiến phần mềm thông qua kho mã nguồn được cung cấp của phần mềm. Lợi ích của việc ứng dụng, nghiên cứu và phát triển phần mềm tự do nguồn mở là điều không phải bàn cãi. Mặc dù vậy, sau khi rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật ra đời, dưới sự nỗ lực của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các doanh nghiệp và cộng đồng sử dụng phần mềm tự do nguồn mở, cho đến nay, việc ứng dụng và phát triển phần mềm tự do nguồn mở tại Việt Nam vẫn loay hoay ở điểm xuất phát và dường như chưa tìm thấy một hướng đi phù hợp. Dẫu rằng đây đó đã xuất hiện một vài mô hình thành công, tuy nhiên, với phần mềm tự do nguồn mở, bấy nhiêu là chưa đủ để tạo động lực thúc đẩy quá trình ứng dụng và phát triển diễn ra mạnh mẽ.

Động lực nào thúc đẩy sự phát triển của phần mềm tự do nguồn mở?

Phần mềm tự do nguồn mở vốn là phong trào được sinh ra từ hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ của các viện, trường đại học, các trung tâm nghiên cứu, với bản chất là phi lợi nhuận và mục đích khoa học được đặt lên hàng đầu, vì thế phần mềm tự do nguồn mở nó tồn tại và phát triển một cách mạnh mẽ và nó nhanh chóng lan sang khối người dùng thông thường [sử dụng như một sản phẩm miễn phí] và khối doanh nghiệp [sử dụng như một công cụ phát triển doanh nghiệp hoặc công cụ kinh doanh]. Như vậy có thể coi khối giáo dục nói chung, các trường đại học và viện nghiên cứu nói riêng phải là cái nôi của phần mềm tự do nguồn mở. Thế nhưng, thực tế ở Việt Nam, xuất phát điểm của phần mềm nguồn mở không phải từ khối giáo dục. Không những thế, nguồn nhân lực và nơi tập trung hầu hết trí tuệ và chất xám của chúng ta đang được đào tạo bằng giáo trình giới thiệu những công nghệ và phần mềm độc quyền. Hệ quả là tình trạng vi phạm bản quyền, sử dụng phần mềm lậu phổ biến đến mức trở thành một phần quá đỗi bình thường; lực lượng trí thức không được đào tạo sử dụng phần mềm nguồn mở nên chỉ biết đến phần mềm độc quyền, doanh nghiệp khi tuyển dụng nhân sự cũng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc “có thế nào sử dụng thế ấy” và tiếp tục “theo lao” là vi phạm bản quyền từ những phần mềm nhỏ nhất...

Cơ quan quản lý giáo dục đã có nhiều động thái nhằm đẩy mạnh việc ứng dụng phần mềm tự do nguồn mở trong giáo dục [ví dụ như 08/2010/TT-BGDĐT của Bộ GD&ĐT ban hành ngày 01-03-2010 quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở trong các cơ sở giáo dục] tuy nhiên những động thái này tỏ ra không hiệu quả trong việc đẩy mạnh ứng dụng phần mềm tự do nguồn mở chứ chưa nói tới việc tiến tới là đào tạo học sinh, sinh viên sử dụng phần mềm nguồn mở.

Có một giải pháp toàn diện có thể giải quyết triệt để vấn nạn vi phạm bản quyền, đồng thời giúp xây dựng nguồn nhân lực biết sử dụng phần mềm nguồn mở, mở lối cho phần mềm nguồn mở phát triển trong khối giáo dục và là chất xúc tác cho việc ứng dụng phần mềm nguồn mở vào hoạt động của các doanh nghiệp, giải pháp này đã được chỉ ra trong các tham luận tại Hội thảo ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở 2013 tổ chức tại Đà Nẵng và Hà Nội ngày 26/04/2013 vừa qua, đó là đưa phần mềm nguồn mở vào đào tạo cho học sinh, sinh viên. Cụ thể: đối với khối không chuyên có thể thay thế toàn bộ giáo trình hướng dẫn sử dụng phần mềm độc quyền bằng các giáo trình hướng dẫn sử dụng phần mềm nguồn mở tương đương; riêng khối nhân lực chuyên công nghệ thông tin phải đào tạo về quy trình phát triển phần mềm nguồn mở, đưa vấn đề bản quyền, sở hữu trí tuệ và giải pháp sử dụng phần mềm tự do nguồn mở, giấy phép phần mềm nguồn mở, giấy phép tài liệu tự do vào trong giáo trình như một môn học bắt buộc của chuyên ngành công nghệ thông tin.

Bằng cách này chúng ta đồng thời giải quyết nhiều vấn đề cùng một lúc: có nguồn nhân lực biết sử dụng phần mềm nguồn mở sẵn sàng đáp ứng cho nhu cầu ngày càng tăng của các doanh nghiệp, nhanh chóng giảm tỉ lệ vi phạm bản quyền trong cả khối giáo dục và doanh nghiệp, tạo đà cho sự phát triển của phần mềm nguồn mở trong nước...

Bên cạnh đó, sự hiểu biết về phần mềm tự do nguồn mở và về tài liệu tự do sẽ dẫn theo nhiều lợi ích giúp thúc đẩy ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin theo hướng tích cực hơn. Ví dụ như sách giáo khoa phổ cập giáo dục hoàn toàn có thể được cung cấp theo giấy phép tài liệu tự do, giúp nhiều người có thể tiếp cận chúng tự do, miễn phí [không mất tiền mua sách để có được sách mà có thể sử dụng bất kỳ bản sao nào phù hợp].

Lối đi nào cho doanh nghiệp ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở?

Xin tạm thời tách ra 2 nhóm là nhóm ứng dụng phần mềm nguồn mở [sử dụng phần mềm nguồn mở như một giải pháp cho công việc của doanh nghiệp – số này tương đối nhiều và sử dụng tương đối thành công] và nhóm thứ 2 là nhóm các doanh nghiệp phát triển phần mềm nguồn mở.

Nhóm các doanh nghiệp ứng dụng phần mềm nguồn mở tương đối nhiều, nó cũng muôn hình vạn trạng, nằm ở nhiều khâu trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Một ví dụ điển hình là việc Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel sử dụng hệ điều hành Ubuntu trong hoạt động kinh doanh của mình suốt nhiều năm qua đã giúp tiết kiệm chi phí không nhỏ và còn nâng cao hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong khuôn khổ bài viết này chúng ta đi sâu phân tích vào nhóm doanh nghiệp phát triển phần mềm nguồn mở.

Nhóm các doanh nghiệp phát triển phần mềm nguồn mở có 2 dạng: dạng thứ nhất là tham gia vào việc phát triển phần mềm hoặc cung cấp dịch vụ triển khai trên nền những phần mềm nguồn mở có sẵn [dạng doanh nghiệp này hiện nay tương đối nhiều, họ có thể thừa nhận hoặc không thừa nhận việc này] và dạng thứ hai là trực tiếp lãnh đạo sự phát triển của phần mềm nguồn mở [dạng này ở Việt Nam tương đối hiếm vì hiện nay ngoài phần mềm NukeViet có thời gian tồn tại tương đối lâu còn hầu hết các phần mềm nguồn mở khác đều đã ngưng phát triển, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp hậu thuẫn cho phần mềm cũng đã đóng cửa hoặc chuyển hướng hoạt động].

Một thực tế rằng trong khi chờ đợi vấn đề được giải quyết từ gốc thì các doanh nghiệp phát triển phần mềm nguồn mở vẫn phải tìm cách tồn tại.Và ít nhiều vì sự sinh tồn của mình, nhiều doanh nghiệp đã làm cho mô hình phát triển phần mềm nguồn mở trong doanh nghiệp mình trở lên méo mó. Sự méo mó này là một trong những nguyên nhân khiến các doanh nghiệp làm phần mềm nguồn mở chết nhanh hơn và nhanh chóng chuyển sang con đường khác.

Để phát triển phần mềm tự do nguồn mở, đa số phần mềm nguồn mở ở nước ngoài đi theo mô hình xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển cho phần mềm, các quỹ này được dây dựng dựa vào đóng góp tình nguyện của cộng đồng [bao gồm doanh nghiệp, người sử dụng và các nhà hảo tâm], điển hình cho mô hình này là Quỹ phần mềm tự do [Free Software Foundation -FSF] sử dụng để hỗ trợ phát triển phần mềm tự do trong Dự án GNU hoặc Open Source Matters, Inc [tổ chức phi lợi nhuận hỗ trợ cho dự án Joomla!]... Một mô hình khác cũng phổ biến không kém, đó là sử dụng doanh nghiệp tài trợ cho dự án phát triển phần mềm, doanh nghiệp này sẽ đứng ra để bảo đảm cho sự phát triển của phần mềm cũng như tham gia trong việc dẫn dắt dự án phần mềm [trong đó có việc tham gia của các doanh nghiệp khác], điển hình cho mô hình này là Red Hat, Inc [công ty hỗ trợ phần mềm Red Hat Enterprise Linux, doanh nghiệp 100% PMNM đầu tiên trên thế giới đạt doanh thu trên 1 tỷ USD/năm] hoặc Công ty TNHH Canonical [doanh nghiệp hỗ trợ phần mềm Ubuntu]...

Ở Việt Nam hoàn toàn không thể áp dụng mô hình hoạt động dành cho quỹ vì quy mô dự án trong phạm vi quốc gia thường không huy động được quyên góp tài chính đủ lớn từ người sử dụng để duy trì sự phát triển của phần mềm, mặt khác thủ tục pháp lý cho việc thành lập 1 quỹ đứng dưới tên một tổ chức phi lợi nhuận chưa thực sự dễ dàng. Chính vì vậy con đường phát triển phần mềm nguồn mở duy nhất ở Việt Nam hiện nay là sử dụng mô hình doanh nghiệp để quản lý và dẫn dắt phần mềm nguồn mở, đây chính là mô hình mà phần mềm nguồn mở NukeViet [www.nukeviet.vn] đã áp dụng tương đối thành công. Hướng đi là vậy, tuy nhiên việc phát triển như thế nào lại phụ thuộc vào chiến lược và tầm nhìn dài hạn của từng doanh nghiệp, và nó ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến sự tồn tại của doanh nghiệp và thậm chí là chính sự tồn vong của bản thân phần mềm nguồn mở đã lựa chọn doanh nghiệp để hậu thuẫn [rất nhiều phần mềm nguồn mở ở Việt Nam không đạt được điều này và đã dừng phát triển].

Nhưng cho dù mô hình và hướng đi như thế nào đi chăng nữa, con đường cho sự phát triển phần mềm tự do nguồn mở Việt Nam không thể nằm ngoài quy luật phát triển phần mềm tự do nguồn mở trên thế giới - quy luật “ngược lên dòng trên” [upstream] - quy luật này đồng thời cũng mô tả quy trình để một lập trình viên hoặc một công ty sau khi sửa đổi và cải tiến cho phần mềm trong quá trình sử dụng thì đồng thời sẽ có những đóng góp những sửa đổi đó trở ngược lại cho dự án và giúp dự án ngày một phát triển tốt hơn. Quy luật này điều tiết sự hội tụ công nghệ trong một phân mềm nguồn mở, bất cứ sự rẽ nhánh nào cũng ít nhiều gây ra chia rẽ cho phần mềm nguồn mở, và nếu doanh nghiệp duy trì nhánh rẽ đó không tốt, không những nhánh rẽ đó dừng phát triển mà còn ảnh hưởng lớn đến cộng đồng người sử dụng phần mềm thuộc nhánh rẽ đó.

NukeViet là phần mềm tự do nguồn mở duy nhất của Việt Nam cho tới nay đạt được những thành quả nhất định:

- Có thời gian duy trì lâu dài nhất: Ra mắt năm 2004 và chính thức chuyên nghiệp hóa từ năm 2010, cho tới nay phần mềm tự do nguồn mở NukeViet vẫn phát triển mạnh mẽ với cộng đồng gần 30.000 người. Hệ quản trị nội dung nguồn mở này đang giúp vận hành hơn 5000 website, ước tính phục vụ hàng triệu lượt truy cập mỗi ngày.

- Phát triển chuyên nghiệp, mô hình kinh doanh chuyên nghiệp: Sau khi chuyên nghiệp hóa bằng việc thành lập công ty chủ quản chuyên trách việc kinh doanh nhằm đảm bảo nguồn tài chính phát triển phần mềm, công việc phát triển phần mềm cũng liên tục được hoàn thiện bằng việc liên tục bổ sung các hệ thống hỗ trợ, xây dựng kho ứng dụng tập trung cũng như đưa kho mã nguồn lên github và mới đây là việc cung cấp dịch vụ xây dựng website tự động bằng hệ thống NukeViet SaaS [Sofware as a service].

- NukeViet là hệ quản trị nội dung nguồn mở duy nhất của Việt Nam được Bộ GD&ĐT khuyến khích sử dụng trong giáo dục [thông tư 08/2010/TT-BGDĐT]. Báo cáo tham luận "Hiện trạng triển khai nội dung thông tư 08/2010/TT-BGDĐT về sử dụng PMNM trong các cơ sở giáo dục và định hướng cho thời gian tới", của tiến sĩ Quách Tuấn Ngọc tại Hội thảo PMNM trong các cơ quan, tổ chức nhà nước diễn ra ngày 15/06/2012 do bộ TT&TT tổ chức đã tổng kết việc ứng dụng PMNM trong giáo dục và kết luận: “NukeViet được nhiều cơ sở giáo dục thích dùng". Số lượng cơ sở giáo dục sử dụng NukeViet cũng liên tục tăng nhanh khi gần đây Công ty cổ phần phát triển nguồn mở Việt Nam ra mắt riêng dòng sản phẩm cổng thông tin tích hợp chuyên dùng cho phòng, sở GD&ĐT với tên gọi NukeViet Edu Gate.

- NukeViet CMS cũng đã được trao giải Nhân Tài Đất Việt 2011 [Sản phẩm đã được ứng dụng rộng rãi thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin] và trở thành phần mềm nguồn mở đầu tiên đạt giải thưởng này.
 

Giải pháp cho việc ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở cho các cơ quan nhà nước?

Sau rất nhiều các hội thảo về triển khai ứng dụng phần mềm nguồn mở trong các cơ quan nhà nước thì một nhận xét chung là phần mềm nguồn mở dường như vẫn dẫm chân tại chỗ với nhiều lý do: thiếu kinh phí, thiếu nguồn lực, thói quen sử dụng phần mềm...

Tuy nhiên, thời gian gần đây, các cơ quan quản lý nhà nước không chỉ quyết tâm ứng dụng mà còn có những động thái bước đầu ủng hộ cho việc phát triển phần mềm nguồn mở.

Do đặc thù triển khai nặng về thủ tục hành chính nên việc ứng dụng phần mềm nguồn mở cho các cơ quan nhà nước cần có cơ chế riêng đế có thể đáp ứng được điều này. Một loạt những giải pháp sau đây cầm phải áp dụng để các dự án ấy đạt được hiệu quả:

- Giám sát chặt chẽ và triệt để trong việc triển khai các quy định về chuẩn mở, định dạng mở đã ban hành.

- Khuyến khích đẩy mạnh ứng dụng phần mềm nguồn mở và ưu tiên các giải pháp phần mềm nguồn mở tương đương.

- Ban hành chính sách về mua sắm/ sử dụng dịch vụ và định mức/ chi phí dịch vụ cho phần mềm nói chung [vì PMTDNM kinh doanh chủ yếu dưa vào dịch vụ].

- Công khai các thông tin về các dự án/gói thầu do các đơn vị đặt hàng sử dụng phần mềm tự do nguồn mở [để tăng tính cạnh tranh và cũng là đảm bảo dự án được triển khai dựa trên PMTDNM].

- Tìm đơn vị tư vấn độc lập cho việc giám sát các gói thầu phần mềm nguồn mở để đảm bảo nó tuân thủ theo đúng quy trình phát triển phần mềm nguồn mở [nhằm đảm bảo dự án được triển khai đúng theo quy trình phát triển PMTDNM].

Trong bối cảnh các dự án và gói thầu sử dụng ngân sách nhà nước nhằm thúc đẩy phần mềm nguồn mở phát triển, cơ quan nhà nước cần có đơn vị tư vấn độc lập đủ chuyên môn và khách quan để theo dõi và đảm bảo kinh phí đầu tư cho phát triển phần mềm nguồn mở được rót đúng chỗ, đúng lúc. Có như vậy, nguồn kinh phí hạn hẹp dành cho ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở mới phát huy được tối đa giá trị của nó. Đặc biệt, cần tránh việc tự các trung tâm công nghệ thông tin trực thuộc chính các cơ quan quản lý nhà nước tự mình triển khai và cạnh tranh với các doanh nghiệp phần mềm nguồn mở.

Sự ra đời của Câu lạc bộ phần mềm tự do nguồn mở Việt Nam [VFOSSA] trong thời gian gần đây đã bước đầu thu hút các thành viên là các doanh nghiệp có cùng mối quan tâm đối với phần mềm tự do nguồn mở. VFOSSA đang dần phát huy vai trò là một tổ chức chuyên môn đủ năng lực và uy tín để giúp các cơ quan, tổ chức nhà nước trong việc ứng dụng các phần mềm nguồn mở, tư vấn, giám sát các dự án/gói thầu một cách độc lập, giúp giảm thiểu các rủi ro trong quá trình triển khai dự án phần mềm nguồn mở.

Có nhiều phương pháp và tiêu chí để đánh giá một dự án phần mềm nguồn mở. Một trong các phương pháp đánh giá hay được sử dụng đó là phương pháp Tính chỉ số khả năng một dự án PMTDNM đang trên con đường dẫn tới Thất bại – Points of FAIL. Phương pháp này sẽ sử dụng một thang điểm chi tiết cho mỗi tiêu chí, điểm càng lớn nghĩa là dự án càng đang tiến gần đến điểm “Chết” và giải pháp cho nó chính là tìm phương án điều chỉnh để giảm điểm chết của dự án. Trên thực tế, để phân biệt và đánh giá một phần mềm tự do nguồn mở đơn giản chỉ cần đặt 3 câu hỏi: Phần mềm có được phát hành theo giấy phép phần mềm tự do nguồn mở hay không? Có kho mã nguồn công khai trên internet hay không? Có cộng đồng người dùng hay không? Với 3 câu hỏi đơn giản này, chúng ta dễ dàng điểm mặt, chỉ tên các phần mềm “mạo danh” phần mềm nguồn mở.

Bài đăng tại Trang 14-18, tạp chí CNTT&TT [ISSN 1859 - 3550] kỳ 2 [8.2013]

Nguồn tham khảo:

- Các tài liệu trong Hội thảo ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở 2013:

//vfossa.vn/vi/mininews/detail/Hoi-thao-ung-dung-va-phat-trien-phan-mem-nguon-mo-2013-Truc-tuyen-tai-Da-Nang-va-Ha-Noi-78/

- Thuật ngữ và mô hình “ngược lên dòng trên” được mô tả trong bài “Mô hình phát triển và ứng dụng phần mềm tự do nguồn mở bền vững” đăng trên tạp chí Tin học & Đời sống, số tháng 05/2013, trang 58-63

- “NukeViet bắt đầu được cung cấp như một dịch vụ [SaaS]” – bài viết đăng trên trên tạp chí TH&ĐS số tháng 5/2013

- How to tell if a FLOSS project is doomed to FAIL [Tính chỉ số khả năng một dự án PMTDNM đang trên con đường dẫn tới Thất bại]: //www.theopensourceway.org/wiki/How_to_tell_if_a_FLOSS_project_is_doomed_to_FAIL

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Video liên quan

Chủ Đề