Tại sao khi tiêm tĩnh mạch phải lùi nòng, kéo nhẹ ra ngoài để kiểm tra có máu hay không?

– Khi đâm trúng vào tĩnh mạch máu chảy vào trong bơm tiêm nhưng bị đông lại ngay ở đầu mũi kim gây tắc kim tiêm không bơm thuốc vào được thì phải rút kim ra thay kim khác và tiêm lại.

– Tắc do lưu kim luồn: dùng bơm tiêm nước muối [có thể dùng thêm bơm tiêm heparin] để rút cục máu đông ra. Tránh nóng vội bơm ngược vào sẽ đẩy cục máu đông lớn vào gây tắc mạch máu [nguy hiểm nhất là mạch tim, mạch não].

2. Phồng nơi tiêm:

Khi đâm tiêm vào trúng tĩnh mạch máu trào vào bơm tiêm nhưng khi bơm thuốc vào thì lại phồng lên vì mũi vát của kim nằm ngửa trong nửa ngoài tĩnh mạch [xuyên mạch] hoặc bị vỡ tĩnh mạch.

– Xử trí:

+ Không cố điều chỉnh mũi kim gây phù thêm, rút bỏ kim và đặt lại kim khác.

+ Hướng dẫn bệnh nhân chườm lạnh tại nơi phù để giảm đau, sau đó chườm ấm để làm tan máu tụ và giúp thuốc tan nhanh.

+ Khi tiêm xong dặn bệnh nhân chườm ấm để chỗ máu tụ hoặc thuốc tan nhanh.

3. Bệnh nhân bị shock hoặc bị ngất:

– Do bệnh nhân sợ hãi hoặc shock thuốc.

* Do shock thuốc: xử trí ngay theo phác đồ chống shock.

* Do bệnh nhân sợ hãi: cho bệnh nhân nằm nghỉ tại chỗ, ủ ấm, động viên bệnh nhân. Theo dõi thêm tình trạng bệnh nhân 15 – 30p sau tiêm.

4. Tắc mạch: vô cùng nguy hiểm!

a. Bọt khí trong dây truyền dịch hoặc bơm tiêm có thể xuất hiện do:

– Loại thuốc gây sinh khí.

– Cắm dây truyền dịch vào chai khi chưa kéo khóa.

– Xả dịch cho dịch chảy vào dây truyền tốc độ không đều.

– Bóp cho dịch chảy vào bầu đếm giọt quá ít < 2/3 bầu mà lại xả dịch quá nhanh.

b. Xử trí:

* Đối với dây truyền dịch:

– Kéo khóa dây truyền khi cắm dây vào chai.

– Với những thuốc kháng sinh tạo bọt khí, cần lắc trộn nhẹ nhàng giúp bọt khí tan hết từ từ rồi mới cắm dây truyền vào.

– Bóp bầu đếm giọt dứt khoát, sao cho mức dịch là 2/3 bầu.

– Thao tác xả dịch: mở dịch chảy tốc độ nhanh vừa, dịch trong dây truyền đi tốc độ đều đặn, cho đến khi hết dây.

+ Nếu có xuất hiện khí trong dây truyền:

– Lượng ít, bọt lăn tăn và nằm phía gần bầu đếm giọt: căng dây, búng nhẹ nhàng, dứt khoát để cho bọt khí tan hoặc di chuyển về phía bầu dịch.

– Lượng ít, bọt lăn tăn và nằm gần phía đầu kim truyền dịch: xả dịch từ từ cho đuổi hết bọt khí đó ra ngoài.

– Lượng khí nhiều, đoạn khí nằm gần đầu kim: có thể đuổi khí bằng xả dịch hoặc dùng bơm tiêm hút ra cho hết lượng khí, sau đó bơm trả lượng dịch lại vào chai dịch truyền. Tuy nhiên, thao tác rút khí và bơm trả dịch lại bằng bơm tiêm cần phải đảm bảo vô trùng hoàn toàn.

– Lượng khí nhiều, đoạn khí nằm giữa hoặc gần bầu đếm giọt: không thể áp dụng xả dịch, nhất là đối với những loại dịch pha kháng sinh hoặc kháng sinh, hay dịch cao phân tử như máu/dextran 70… vì sẽ làm phí mất lượng thuốc cần truyền => truyền không đủ lượng dịch thuốc theo y lệnh => ảnh hưởng kết quả điều trị. Khi đó, cần áp dụng phương pháp dùng bơm tiêm hút dịch ra cho đến khi lấy được hết toàn bộ lượng khí [tùy vào vị trí đoạn khí mà dùng bơm tiêm lớn hay nhỏ] rồi bơm trả dịch vào chai. Thao tác này đòi hỏi đảm bảo vô trùng hoàn toàn.

* Đối với bơm tiêm:

– Đuổi khí bằng cách kéo nòng, để bơm tiêm đứng thẳng ngang tầm mắt rồi đẩy nòng lên, ép khí ra ngoài từ từ.

– Khí lăn tăn nhỏ, có thể kéo nòng và chờ khí tụ về phía đầu kim rồi đẩy nòng ép khí ra.
Nếu lượng khí lăn tăn nhiều, kéo nòng về tạo khoảng trống, rồi lắc nghiêng nhẹ nhàng cho bọt khí tan đều [thao tác giống như lắc nhẹ ống máu]. KHÔNG búng vào bơm tiêm để đuổi khí vì lực búng có thể trở thành yếu tố làm tạo thêm bọt khí.

=> Xử trí khi bệnh nhân shock do khí vào lòng mạch gây TTTM:

– Xác định nguồn khí xâm nhập vào tĩnh mạch.

– Ngăn khí vào thêm [kéo khóa dây truyền].

– Tư thế nằm nghiêng sang trái, và tư thế Trendelenburg. Khi cần phải thực hiện CPR thì tiến hành ở tư thế đầu thấp.

– Cung cấp oxy 100%.

– Hồi sinh tim phổi.

– Bù dịch, vận mạch, thở máy.

5. Đâm nhầm vào động mạch:

– Dấu hiệu: máu trào vào bơm tiêm hoặc dây truyền ồ ạt và theo nhịp tim đập, máu đỏ tươi, bệnh nhân đau buốt tại vị trí tiêm. Nếu bệnh nhân có đặt huyết áp động mạch XL thì sẽ thấy được chỉ số này cao lên khi tiêm nhầm thuốc vào line của ĐMXL.

– Xử trí:

+ Giữ nguyên đường truyền đó, nếu đường truyền còn thông, dùng nước muối sinh lý duy trì. Kiểm tra khí máu, áp lực mạch máu…

+ Đánh giá và nhận biết sự tiến triển của tổn thương.

+ Dùng kháng đông theo y lệnh.

+ Tăng cường máu lưu thông, giảm đau và nâng cao chi tổn thương.

6. Gây hoại tử:

Do tiêm chệch ra ngoài những thuốc chống chỉ định của tiêm dưới da và tiêm bắp thịt như calci clorur…

– Phát hiện: Chỗ tiêm nóng, đỏ, đau, lúc đầu cứng sau mềm nhũn giống ổ áp xe.

– Xử trí:

+ Chườm ấm tại chỗ.

+Lúc hoại tử: Băng mỏng giữ khỏi nhiễm khuẩn thêm, có thể phải chích nếu ổ hoại tử lớn.

7. Nhiễm khuẩn toàn thân:

Do không đảm bảo vô trùng khi thực hiện mũi tiêm. Có thể dẫn đến nhiễm khuẩn huyết.

8. Nhiễm khuẩn lây:

– Nhiễm virus Viêm gan B.

– Nhiễm HIV.

Hội Điều Dưỡng Việt

Admin tổng hợp

Lấy máu tĩnh mạch là công việc bắt buộc của mỗi kỹ thuật viên xét nghiệm. Công việc tưởng chừng như đơn giản nhưng nhiều khi thực sự lại rất khó. Khó ở chỗ nhiều khi bệnh nhân không hợp tác hoặc mạch của bệnh nhân quá khó để lấy. Với một khoảng thời gian cũng không phải là dài trong việc lấy máu bệnh nhân. Hôm nay mình xin chia sẻ những kinh nghiệm của mình trong lấy máu tĩnh mạch, hy vọng nó cũng sẽ giúp ích phần nào trong công việc lấy máu của các bạn. Mình sẽ không đi sâu vào quy trình lấy máu vì mình tin các bạn đã được học quy trình trong trường rồi. Mình chỉ chia sẻ những khó khăn và cách khắc phục trong quá trình lấy máu của mình.

1. Tâm lý của bệnh nhân.

Đây là điều khá quan trọng. Bệnh nhân cần được giải thích rõ ràng và chuẩn bị sẵn tâm lý để hợp tác. Nhiều khi bệnh nhân quá sợ hãi cũng sẽ làm co mạch gây khó khăn khi xác định ven hoặc nhiều khi bạn vừa đưa kim vào mạch bệnh nhân sợ và rụt tay lại gây chệch ven. Đặc biệt với bệnh nhân nhi, thường thì không hợp tác, trẻ sẽ khóc và phản đối. Khi đó bạn cần giải thích cho phụ huynh của trẻ để họ phối hợp dỗ dành trẻ. Như vậy đầu tiên để lấy được máu tốt cần có sự hợp tác của bệnh nhân bằng việc giải thích rõ ràng cho họ.

2. Tâm lý của kỹ thuật viên.

Nhiều khi bạn cứ nghĩ lấy máu phải quan tâm nhiều đến tâm lý, cảm xúc của người bệnh nhưng thật ra tâm lý của người lấy máu [kỹ thuật viên] cũng quan trọng không kém. Bạn không thể lấy máu tốt khi tâm lý của bạn đang có vấn đề. Bản thân mình nhiều khi tâm trạng không tốt mà lấy máu thì thường xuyên bị lỗi mặc dù mạch của bệnh nhân rất dễ. Hoặc một số bạn sau khi chọc ven lần đầu không lấy được phải chọc lại lần 2, lần 3 thì tâm lý cũng kém đi rất nhiều, thậm chí rất run tay, nhất là còn bị bệnh nhân phàn nàn hoặc tỏ ra khó chịu, mắng mỏ.

Như vậy trước khi lấy máu bạn nên tự chuẩn bị tâm lý cho mình thật tốt, hãy tự tin là mình sẽ làm được. Hãy xác định tâm lý rằng mình phải lấy được nếu không sẽ không ai giúp mình. Nhiều bạn cứ luôn nghĩ rằng chọc được thì được không được thì nhờ người khác. Như thế không nên, nếu tâm lý bạn không tốt hoặc xác định không lấy được thì nên nhờ người khác lấy thay ngay từ đầu.

3. Dụng cụ để lấy máu.

Bạn nên chuẩn bị đầy đủ dụng cụ trước khi lấy máu. Không nên để thiếu dụng cụ trong khi lấy vì sẽ khó xử lý và bệnh nhân thấy bạn thiếu tính chuyên nghiệp. Hãy nhớ luôn luôn đeo găng tay. Một bài học của mình đó là một lần mình lấy máu của một trẻ nhi, vội quá và cũng nghĩ đơn giản nên lấy máu bằng tay không, trong quá trình lấy còn bị máu dây ra tay, sau khi làm xét nghiệm mới biết trẻ đó HIV dương tính. Rất may là tay mình không bị xây xát và mình cũng vệ sinh tay ngay sau khi lấy. Vì vậy hãy nhớ luôn luôn đeo găng tay khi lấy máu để bảo vệ cho chính mình.

Kim lấy máu cũng khá quan trọng. Sau một thời gian lấy máu mình thấy nên dùng kim to cỡ 23G để lấy máu thì sẽ dễ hơn, nhanh hơn và ít gây vỡ hồng cầu. Mình rất ngại khi phải dùng kim 25G. Với trẻ nhi thì mình thường dùng kim 20G để lấy bằng riêng đầu kim mà không dùng bơm.

4. Vị trí lấy máu.

Hãy luôn nhớ chọn những mạch dễ nhất để lấy, đừng tự làm khó mình. Thường mình chọn tĩnh mạch giữa của tĩnh mạch M nếp lằn khuỷu tay để lấy. Vị trí đó thường mạch to và chắc chắn nhất. Tuy nhiên không phải bệnh nhân nào cũng lấy được ở vị trí đó. Với những người không thấy mạch ở vị trí đó hãy kiểm tra sang tay bên cạnh. Trong trường hợp vẫn không xác định được hãy chuyển xuống mu bàn tay hoặc cổ tay... đó là những vị trí mà bản thân mình thường lấy nhất. Nếu vẫn không thể xác định được, hay khuyên bệnh nhân vận động nhẹ cánh tay đặc biệt trong những ngày đông rét. Còn với bệnh nhân nhi thì sao? Khó, phải nói là rất khó đặc biệt với một số trẻ béo, việc xác định vị trí lấy không hề dễ dàng. Bản thân mình thường chọn vị trí là mu bàn tay hoặc mu bàn chân. Tĩnh mạch trán mình chưa thử, có lẽ vì do chưa gặp bệnh nhi nào quá khó.

5. Cách xác định ven

Có nhiều cách để xác định ven, mỗi người có thể chọn một cách riêng phù hợp với bản thân. Riêng mình chọn cách sờ mạch khi không thể nhìn thấy rõ ràng. Khi sờ mạch mình cố gắng tĩnh tâm để cảm nhận được mạch đập, dù rất nhỏ nhưng mình sẽ cảm nhận được vị trí của mạch. Ngoài ra mình còn sờ để xác định đường đi của mạch. Có những bệnh nhân mạch đi thẳng, có người mạch đi hơi chéo thậm chí có người mạch lại nằm ngang. Vì thế nếu không xác định được đường đi bạn rất dễ đâm chệch hoặc xuyên mạch.

Cách xác định mạch và cách lấy máu nhi mình sẽ trình bày trong một bài riêng về lấy máu nhi.

6. Trong thao tác lấy máu.

Sau khi xác định mạch, bạn sát khuẩn và tiến hành lấy máu. Bạn đưa kim nhanh qua da sau đó đưa chậm đến vị trí mạch. Nếu bạn đẩy kim nhanh quá rất dễ xuyên mạch. Bản thân mình ngày xưa cũng hay gặp phải lỗi này, thường xuyên đâm qua mạch và sẽ gây vỡ mạch của bệnh nhân sau lấy. Vì vậy hãy nhớ sau khi đưa kim qua da bạn nên luồn kim chậm đến mạch. Khi kim đã vào mạch bạn nên rút máu chậm và đều tay. Việc này có lợi là:

- Không bị vỡ hồng cầu do áp lực lớn.

- Không gây co mạch đột ngột. Nhiều bệnh nhân có mạch máu khá mỏng manh, khi bạn rút nhanh và đột ngột mạch máu sẽ co chặt lại ngay vị trí lấy khiến bạn không thể hút được máu ra.

Một điều vô cùng quan trọng đó là bạn phải cố định kim tốt. Nếu bạn không cố định tốt thì rất dễ bị tuột kim khỏi lòng mạch. Có nhiều người sau khi chọc máu vào ven và thấy máu chảy vào đốc kim sẽ đổi tay. Nhưng kinh nghiệm của mình là mình không đổi tay, mình chỉ đổi tay sau khi đã rút đủ máu. Trong quá trình lấy máu cố gắng giữ kim ở vị trí cố định, không đẩy sâu hơn hoặc rút lui lại.

Sau khi lấy đủ lượng máu hãy rút kim ra nhanh. Nhớ đặt bông trước khi rút kim để tránh máu trào ra ngoài gây tâm lý hoang mang cho bệnh nhân. Dặn bệnh nhân giữ bông nhẹ nhàng mà không nên day bông hay gấp tay lại vì có thể gây vỡ mạch.

Nếu bạn không chọc đúng mạch hoặc không thể rút được máu ra thì sao? Đừng quá lo lắng, hãy cố gắng điều chỉnh lại kim nhẹ nhàng. Sau tối đa 3 lần điều chỉnh lại kim mà không được hãy rút kim ra và lấy lại ở vị trí khác. Nhớ phải xin lỗi và an ủi bệnh nhân hoặc nói điều gì đó vui vui để bệnh nhân không thấy khó chịu và tâm lý của mình cũng thoải mái hơn. Lúc này nếu không xác định được mạch nữa hoặc thấy quá khó hãy nhờ người khác lấy hộ bạn.

Trên đây là một vài kinh nghiệm trong lấy máu tĩnh mạch của mình. Đến nay bản thân mình không phải 100% lúc nào lấy 1 lần cũng được ngay nhưng có thể thành công ngay lần 1 tới hơn 90%. Vì vậy mình nghĩ những kinh nghiệm của mình cũng có thể giúp ích phần nào cho các bạn. Bài viết mang tính kinh nghiệm cá nhân của mình chứ không phải là quy trình thực hành chuẩn. Nếu các bạn có những kinh nghiệm gì hay xin chia sẻ thêm.

Cao Tuyến

Video liên quan

Chủ Đề