Tại sao các nhà kinh tế bất đồng ý kiến

Ý kiến - Đời sống   •   Thứ ba, 24/05/2022, 18:10 PM  •  24/05/2022, 18:10

Kinh tế học thực chứng được xây dựng dựa trên các số liệu cụ thể. Kinh tế học thực chứng được sử dụng cùng kinh tế học chuẩn tắc khi thiếp lập các chính sách.

Khi nghiên cứu kinh tế học, có 2 loại hình kinh tế phổ biến là kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. Vậy sự khác nhau giữa 2 loại hình kinh tế này là gì?

Kinh tế học thực chứng là phương pháp nghiên cứu kinh tế đòi hỏi mọi thứ đều được phải chứng minh, kiểm nghiệm chứ không tìm cách nhận định là sự vật phải hay nên như thế nào. Mục tiêu của kinh tế học thực chứng là phân tích xem xã hội ra quyết định như thế nào về tiêu dùng, sản xuất và trao đổi hàng hóa. Kinh tế học thực chứng xem xét thế giới thực sự hoạt động như thế nào. Đối với kinh tế học thực chứng, tất cả chúng ta xem xét những luận điểm dưới dạng: nếu điều này thay đổi thì điều kia sẽ xảy ra. Kinh tế học thực chứng trả lời cho câu hỏi "điều gì sẽ xảy ra?".

Ví dụ, các nhà kinh tế học với các quan điểm chính trị hoàn toàn khác nhau đều đồng ý rằng khi chính phủ áp đặt thuế đối với một hàng hóa, giá của hàng hóa đó sẽ tăng lên. Câu hỏi chuẩn tắc cho việc này chẳng hạn như "Đánh thuế hàng hóa có tốt hay không?" lại là một vấn đề hoàn toàn khác.

Các phát biểu thực chứng nhằm mô tả nền kinh tế vận hành như thế nào và tránh các đánh giá. Chẳng hạn một phát biểu thực chứng là "lạm phát tăng 5% so với năm trước". Con số 5% này đã được tổng hợp dựa trên các dữ liệu thống kê và đã được kiểm chứng. Vì vậy, không có gì phải tranh cãi với các phát biểu thực chứng.

Kinh tế học thực chứng cũng vẫn tồn tại những câu hỏi chưa giải đáp được và có nhiều bất đồng. Những quan điểm bất đồng này chính là những thách thức đặt ra cho kinh tế học thực chứng.

Kinh tế học chuẩn tắc

Việc nghiên cứu sâu sắc, toàn diện về lý thuyết có thể giải thích nhiều vấn đề còn tồn tại trong kinh tế học thực chứng. Kinh tế học chuẩn tắc dựa trên những nhận định mang giá trị chủ quan chứ không dựa trên những nghiên cứu về sự thực khách quan. Từ đó, kinh tế học chuẩn tắc cũng đưa ra những khuyến nghị dựa trên những nhận định mang giá trị cá nhân.

Kinh tế học chuẩn tắc liên quan đến các đánh giá của cá nhân về nền kinh tế phải là như thế này, hay chính sách kinh tế phải hành động ra sao dựa trên các mối quan hệ kinh tế. Kinh tế học chuẩn tắc đề cập đến "điều gì nên xảy ra?". Chẳng hạn, một phát biểu chuẩn tắc là "thất nghiệp nên được giảm xuống".

Ví dụ, một phát biểu sau đây kết hợp cả kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc: "Những người cao tuổi có chi phí chăm sóc y tế rất cao và chính phủ nên trợ cấp cho họ". "Những người cao tuổi có chi phí chăm sóc y tế rất cao" là một phát biểu thực chứng, nó nhận định về sự vận động của thế giới thực. Phần thứ hai của luận điểm này đề xuất việc chính phủ nên làm gì. Đây chỉ là một nhận định mang giá trị chủ quan dựa trên cảm giác của người đưa ra nhận định và không thể được chứng minh đúng hay sai bằng bất cứ nghiên cứu khoa học nào.

Kinh tế học không thể chỉ ra nhận định của kinh tế học chuẩn tắc là đúng hay sai. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào sở thích hay các ưu tiên của cá nhân hay xã hội khi đưa ra sự lựa chọn.

Sự khác nhau giữa kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc giải thích tại sao lại có sự bất đồng giữa các nhà kinh tế. Thực tế, sự bất đồng bắt nguồn từ quan điểm của mỗi nhà kinh tế khi nhìn nhận vấn đề.

Nguồn: vietnamfinance.vn

Link bài gốc

//vietnamfinance.vn/khac-biet-giua-kinh-te-hoc-thuc-chung-va-kinh-te-hoc-chuan-tac-20180504224268965.htm

Vũ Trang

Đề cương các chủ đề Phân loại tổng quát Các phương pháp kỹ thuật Lĩnh vực và tiểu lĩnh vực

Hộp này:

  • xem
  • thảo luận
  • sửa

Kinh tế học

Các nền kinh tế theo vùng

Châu Phi· Bắc Mỹ
Nam Mỹ· Châu Á
Châu Âu· Châu Đại Dương

Kinh tế học vi mô· Kinh tế học vĩ mô
Lịch sử tư tưởng kinh tế
Lý luận· Các phương pháp không chính thống

Toán học· Kinh tế lượng
Thực nghiệm· Kế toán quốc gia

Hành vi· Văn hóa· Tiến hóa
Tăng trưởng· Phán triển· Lịch sử
Quốc tế· Hệ thống kinh tế
Tiền tệ Tài chính
Công cộng Phúc lợi
Sức khỏe· Nhân lực· Quản lý
Quản trị· Thông tin· Lý thuyết trò chơi
Lý thuyết tổ chức ngành· Luật pháp
Nông nghiệp· Tài nguyên thiên nhiên
Môi trường· Sinh thái
Đô thị· Nông thôn· Vùng

Danh sách

Tạp chí · Ấn bản
Phân loại · Các chủ đề · Kinh tế học gia

Các tư tưởng kinh tế

Vô chính phủ· Tư bản
cộng sản· Tập đoàn
Phát-xít· Gióc-giơ
Hồi giáo· Laissez-faire
Chủ nghĩa xã hội thị trường· Trọng thương
Bảo hộ· Xã hội
Chủ nghĩa công đoàn· Con đường thứ ba

Các nền kinh tế khác

Ăng-lô - Xắc-xông· Phong kiến
Toàn cầu· Săn bắn-hái lượm
Nước công nghiệp mới
Cung điện· Trồng trọt
Hậu tư bản· Hậu công nghiệp
Thị trường xã hội· Thị trường chủ nghĩa xã hội
Token· Truyền thống
Thông tin· Chuyển đổi

Chủ đề Kinh tế học

Kinh tế học chuẩn tắc [trái ngược với kinh tế học thực chứng] là một phần của kinh tế học có mục tiêu là công bằng hoặc kết quả của nền kinh tế hoặc mục tiêu của chính sách công phải là.[1] Kinh tế học chuẩn tắc chú ý tới sự đáng có của những mặt nhất định của nền kinh tế. Nó nhấn mạnh sự cần thiết có các chính sách kinh tế.

Các nhà kinh tế học thường thích phân biệt kinh tế học chuẩn tắc ["điều gì nên là" trong các vấn đề kinh tế] với kinh tế học thực chứng ["điều gì là"]. Tuy nhiên, nhiều phán đoán [giá trị] quy chuẩn được đưa ra có điều kiện, sẽ được từ bỏ nếu sự kiện hoặc kiến thức về sự kiện thay đổi, do đó, sự thay đổi giá trị có thể hoàn toàn là khoa học.[2] Mặt khác, nhà kinh tế học phúc lợi Amartya Sen tách biệt những phán đoán cơ bản [chuẩn tắc], những phán đoán không phụ thuộc vào kiến thức như vậy, với những phán đoán phi cơ bản. Ông cảm thấy thú vị khi lưu ý "không có phán đoán nào là cơ bản một cách rõ ràng" trong khi một số phán đoán giá trị có thể được chứng minh là không cơ bản. Điều này mở ra khả năng thảo luận khoa học hiệu quả về các phán đoán giá trị.[3]

Kinh tế học tích cực và chuẩn tắc thường được tổng hợp theo kiểu chủ nghĩa duy tâm thực tiễn. Trong bộ môn này, đôi khi được gọi là "nghệ thuật kinh tế học", kinh tế học tích cực được sử dụng như một công cụ thực tế để đạt được các mục tiêu chuẩn tắc, thường liên quan đến những thay đổi chính sách hoặc tình trạng của vấn đề.

Ví dụ về một báo cáo kinh tế chuẩn tắc như sau:

Giá sữa phải là 6 đô la một gallon để mang lại cho những người nông dân chăn nuôi bò sữa mức sống cao hơn và để cứu trang trại của gia đình.

Đây là một tuyên bố mang tính quy phạm, bởi vì nó phản ánh các phán đoán giá trị. Tuyên bố cụ thể này đưa ra nhận định rằng nông dân xứng đáng có mức sống cao hơn và các trang trại gia đình phải được cứu.[1]

Kinh tế học chuẩn tắc tự dự đoán khi tối đa hóa cả tác nhân tiện ích xã hội và chính trị, được công nhận là "lợi ích tổng hợp".

Các lĩnh vực con của kinh tế học chuẩn tắc bao gồm lý thuyết lựa chọn xã hội, lý thuyết trò chơi hợp tác và thiết kế cơ chế.

Một số vấn đề kỹ thuật trước đó đặt ra trong kinh tế học phúc lợi và công lý đã được giải quyết đầy đủ để dành chỗ cho việc xem xét các đề xuất trong các lĩnh vực ứng dụng như phân bổ nguồn lực, chính sách công, chỉ số xã hội và đo lường sự bất bình đẳng và nghèo đói. [4]

Xem thêmSửa đổi

  • Phân phối [kinh tế]
  • Hệ tư tưởng kinh tế
  • Kinh tế học thực chứng
  • Kinh tế học phúc lợi

Ghi chúSửa đổi

  1. ^ a b Paul A. Samuelson and William D. Nordhaus [2004]. Economics, 18th ed., pp. 5-6 & [end] Glossary of Terms, "Normative vs. positive economics."
  2. ^ Stanley Wong [1987]. "Positive economics," The New Palgrave: A Dictionary of Economics, v. 3, p. 21.
  3. ^ Amartya K. Sen [1970], Collective Choice and Social Welfare, pp. 61, 63-64].
  4. ^ Marc Fleurbaey [2008]. "Ethics and economics," The New Palgrave Dictionary of Economics. Abstract.

Tham khảoSửa đổi

  • Andrew Caplin và Andrew Schotte, ed. [2008]. The Foundations of Positive and Normative Economics: A Handbook, Oxford. Description and preview.
  • Marc Fleurbaey [2004]. "Normative Economics and Theories of Distributive Justice," The Elgar Companion to Economics and Philosophy, J.B. Davis and J. Runde, ed., pp. 132-58.
  • _____ [2008]. "Ethics and economics," The New Palgrave Dictionary of Economics. Abstract.
  • Milton Friedman [1953]. "The Methodology of Positive Economics," Essays in Positive Economics
  • John C. Harsanyi [1987], “Value judgments," The New Palgrave: A Dictionary of Economics, v. 4, pp.792–93
  • Daniel M. Hausman and Michael S. McPherson [1996]. Economic Analysis and Moral Philosophy, Cambridge: Cambridge University Press.
  • Phillipe Mongin [2002]. "Is There Progress in Normative Economics?" in Stephan Boehm et al., eds., Is There Progress in Economics?, pp. 145-170.
  • Amartya K. Sen [1970], Collective Choice and Social Welfare. "5.3 Basic and Nonbasic Judgments" & "5.4 Facts and Values," pp.59–64.
  • Stanley Wong [1987]. “Positive economics," The New Palgrave: A Dictionary of Economics, v. 3, pp.920–21.
  • Silvestri P. [ed.], L. Einaudi, On Abstract and Historical Hypotheses and on Value judgments in Economic Sciences, Critical edition with an Introduction and Afterword by Paolo Silvestri, Routledge, London - New York, 2017. DOI: //doi.org/10.4324/9781315457932.

Video liên quan

Chủ Đề