Quan niệm nào sau đây thuộc về trường phái triết học nhị nguyên

MỞ ĐẦUTriết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là một bộ phận của kiến trúcthượng tầng, xét đến cùng bị quy định bởi đời sống vật chất của xã hội. Do đó, sự pháttriển của các tư tưởng triết học cũng bị quy định bởi sự phát triển của nền sản xuất vật chất,trong điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị khác nhau mà các nhà triết học có những quanđiểm khác nhau trong việc giải quyết vấn đề cơ bản thứ nhất của triết học là vật chất và ýthức cái nào có trước cái nào và cái nào quyết định cái nào? Từ đó hình thành các hệ thốngtư tưởng, quan điểm khác nhau, mà nổi bật là ba quan điểm nhất nguyên luận, nhị nguyênluận, dao động giữa nhất duy vật và duy tâm để giải quyết vấn đề bản thể luận mà khôngphải bao giờ cũng có thể phân chia một cách rạch ròi. Bởi vậy, trong phạm vi bài viếtnhóm 02 sẽ tập trung vào việc phân biệt ba quan điểm này, đồng thời nêu một số nhân vậtđại diện cho từng quan điểm.NỘI DUNGI- Quan điểm nhất nguyên luận, nhị nguyên luận, dao động giữa nhất duyvật và duy tâm trong việc giải quyết vấn đề bản thể luận.Triết học trước Mác cho rằng bản thể luận là một học thuyết dùng để chỉ sự tồn tạihay những cái đang tồn tại. Đến triết học Mác – Lê nin, phạm trù bản thể luận được dùngđể chỉ những quy luật của sự vận động và phát triển của những cái đang tồn tại. Như vậy,nội dung của bản thể luận là bàn tới tất cả những gì đang tồn tại, đang diễn ra ở bản thânnó, nó không cần biết con người có nhận thức được nó hay không mà nó vẫn tồn tại theoquy luật của nó.Cho tới nay, bản thể luận vẫn là một trong những vấn đề quan trọng của Triết họcmà các nhà nghiên cứu cũng như các trường phái triết học vẫn luôn tìm tòi, tìm hướng giảiquyết. Do đó, việc phân biệt và nghiên cứu quan điểm nhất nguyên, nhị nguyên, dao độnggiữa duy vật duy tâm mang tới những ý nghĩa lớn và tác dụng nhất định trong việc giảiquyết vấn đề bản thể luận.Trước hết, quan điểm nhất nguyên và nhị nguyên mở ra những hướng giải quyết vànghiên cứu vô cùng đa dạng đối với các vấn đề của Triết học nói chung và vấn đề bản thểluận nói riêng. Bên cạnh đó, với số lượng dồi dào các quan điểm của các nhà nghiên cứuthuộc các trường phái không giống nhau ở các thời kỳ lịch sử khác nhau [như sẽ phân tíchở dưới đây] đều đã mang tới những thành tựu nghiên cứu lớn cho Triết học cũng như chonhân loại. Trên cơ sở của các quan điểm đối lập nhau thế nhưng lại cùng giải quyết mộtvấn đề, chúng ta sẽ có được cái nhìn đa dạng, nhiều chiều, khách quan và toàn diện về bảnthế luận, từ đó rút ra những kinh nghiệm, bài học ứng dụng trong các mặt của đời sống.Bên cạnh đó, với mối quan hệ khăng khít giữa bản thể luận và nhận thức luận, việc phân1biệt, phân tích các quan điểm có liên quan sẽ giúp việc hiểu, nghiên cứu và ứng dụng nhậnthức luận trở nên dễ dàng và liền mạch.Ngoài ra, áp dụng vào một lĩnh vực cụ thể-đối với các khoa học xã hội và nhân vănnói riêng, bản thể luận là sự vận dụng, mở rộng nội hàm của vấn đề cơ bản của triết học,theo đó bao gồm quan điểm của con người về mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân [thực tạixã hội là mang tính khách quan hay mang tính chủ quan? Xã hội quy định hành vi của cánhân hay chính các hành vi có ý nghĩa của các cá nhân tạo” thành xã hội?]. Trong nghiêncứu con người, bản thể luận là thuật ngữ bàn về mối quan hệ giữa hành vi và cấu trúc, giữacái ý thức với cái vô thức, giữa tâm lý xã hội và tâm lý cá nhân… Vì vậy, những lý luận vềbản thể luận [bao gồm cả quan điểm nhất nguyên, nhị nguyên, dao động giữa duy tâm vàduy vật] là tri thức căn cốt của một nhà nghiên cứu xã hội- nhân văn nói riêng và nhữngnhà nghiên cứu Triết học nói riêng, nó không chỉ quy định việc anh ta lựa chọn những lýthuyết, phương pháp luận cho các nghiên cứu của mình mà còn quyết định cả việc lựa chọnvà phối hợp các phương pháp nghiên cứu.II- Phân biệt quan điểm nhất nguyên, nhị nguyên, dao động giữa duy vật và duytâm và một số nhân vật đại diện cho các quan điểm nàyVấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: - Mặt thứ nhất, giữa ý thức và vật chất, cáinào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào? - Mặt thứ hai, con người có khảnăng nhận thức được thế giới hay không? Việc giải hai mặt cơ bản của triết học là xuấtphát điểm của các trường phái triết học.Trả lời mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã xuất hiện ba quan điểm: nhấtnguyên luận, nhị nguyên luận và dao động giữa duy vật- duy tâm.Học thuyết triết học thừa nhận chỉ một trong hai thực thể [vật chất hoặc tinh thần] lànguồn gốc của thế giới được gọi là nhất nguyên luận [nhất nguyên luận duy vật hoặc nhấtnguyên luận duy tâm]. Trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học xem vật chất vàtinh thần là hai nguyên thể tồn tại độc lập, tạo thành hai nguồn gốc của thế giới; học thuyếttriết học của họ là nhị nguyên luận. Bên cạnh đó lại có một số nhà triết học không có lậptrường vững vàng trong việc giải quyết vấn đề nguồn gốc của thế giới, có lúc giải thích sựvật, hiện tượng theo chủ nghĩa duy vật, có lúc lại theo chủ nghĩa duy tâm, do đó học thuyếttriết học của họ là dao động giữa duy vật và duy tâm.Sau đây chúng ta sẽ cùng phân tích để làm rõ sự khác nhau giữa ba quan điểm này.1.Quan điểm về nhất nguyên luận và một số đại diện tiêu biểu:1.1 Quan điểm nhất nguyên luận2Thuyết nhất nguyên [hay nhất nguyên luận] cho rằng tất cả thế giới đều thuộc vềmột bản chất, nguyên lý, chất hay năng lượng, tất cả đều có một khởi nguyên. Những triếtgia theo quan điểm nhất nguyên luận lấy việc thừa nhận chỉ một trong hai thực thể [vậtchất hoặc ý thức] là cái có trước và quyết định cái kia, nghĩa là cho rằng thế giới chỉ có mộtnguồn gốc duy nhất để giải thích sự tồn tại, vận động của sự vật, hiện tượng. Nhất nguyênluận bao gồm nhất nguyên luận duy tâm [chủ nghĩa duy tâm, triết học duy tâm] và nhấtnguyên luận duy vật [chủ nghĩa duy vật, triết học duy vật].•Nhất nguyên luận duy tâmQuan điểm nhất nguyên luận duy tâm xuất phát từ chủ nghĩa duy tâm cho rằng bảnchất của thế giới là ý thức, ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trướcvà quyết định vật chất. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sởlý luận, luận chứng cho các quan điểm của mình. Tuy nhiên, có sự khác nhau giữa chủnghĩa duy tâm triết học với chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Trong thế giới quan tôn giáo, lòngtin là cơ sở chủ yếu và đóng vai trò chủ đạo. Còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sảnphẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và lý trí. Chủ nghĩa duy tâm có hai hìnhthức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Trong đó:Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, khẳngđịnh mọi sự vật, hiện tượng chỉ là những cảm giác của cá nhân riêng lẻ. Điển hình chotriết học duy tâm chủ quan là Gióocgiơ Béccli. Đối với triết học Béccli thì “vật thể trongthế giới quanh ta là sự phức hợp của các cảm giác”. Thí dụ, cái cây, đó không phải là mộtvật thể hữu hình mà chỉ là do mắt ta nhìn thấy nó có hình khối; .... Hay nói cách khác, theoBéccli, mọi vật thể chỉ tồn tại trong chừng mực mà con người cảm biết được chúng.Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần, ý thức. Nhữngtinh thần, ý thức ấy được quan niệm là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước vàtồn tại độc lập với giới tự nhiên và con người. Thực thể tinh thần, ý thức khách quan nàyđược mang các tên gọi khác nhau như “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần tuyệt đối”...Đại diện tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm khách quan là Platôn và Hêghen. Điểm nổibật trong hệ thống triết học duy tâm của Platôn là học thuyết về “ý niệm”. Trong thuyếtnày, Platôn đưa ra quan điểm về hai thế giới: thế giới các sự vật cảm biến là không chânthực, không đúng đắn, vì các sự vật không ngừng sinh ra và mất đi, luôn luôn thay đổi, vậnđộng, trong chúng không có cái gì bền vững, ổn định, hoàn thiện. Còn thế giới ý niệm làthế giới của cái phi cảm tính, phi vật thể, là thế giới của đúng đắn, chân thực, sự cảm biếtchỉ là cái bóng của ý niệm. Nhận thức của con người, theo Platôn không phải là phản ánhcác sự vật cảm biến của thế giới khách quan, mà là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm3có trước thế giới các vật cảm biết, sinh ra thế giới cảm biết. Ví dụ: khi nhìn các sự vật thấylà bằng nhau vì trong đầu ta đã có sẵn ý niệm về sự bằng nhau.Còn Hêghen cho rằng khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là “ýniệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”. Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực làkết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Trong hệ thống triết học củaHêghen, tự nhiên, xã hội phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của ý niệm tuyệtđối. Ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới là tính thứ nhất, giới tự nhiên là tính thứ hai, do ýniệm tuyệt đối và tinh thần thế giới sinh ra và quyết định, là một “sự tồn tại khác” của tinhthần. Sau khi trải qua giai đoạn “tồn tại khác” ấy, ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giớimới trở lại “bản thân mình” và đó là giai đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng, được Hêghengọi là “tinh thần tuyệt đối”.Ngoài Gióocgiơ Béccli và Hêgghen còn nhiều nhà triết học thuộc nhiều trường pháikhác nhau nhưng họ đều là những nhà triết học theo chủ nghĩa duy tâm như : Plato, GeorgeBerkeley, Arthur Collier, Fichte.•Quan điểm nhất nguyên luận duy vậtChủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm bản chất của thếgiới là vật chất, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất là cái có trước vàquyết định ý thức. Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thựctiễn, thường gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Nó là kết quảcủa quá trình đúc kết khái quát kinh nghiệm đề vừa phản ánh những thành tựu mà conngười đã đạt được trong từng giai đoạn lịch sử, vừa định hướng cho các lực lượng xã hộitiến bộ hoạt động trên nền tảng của những thành tựu ấy.Chủ nghĩa duy vật quan niệm rằng thứ duy nhất có thể là tồn tại là vật chất; về cănbản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tươngtác vật chất. Từ quan điểm này, chủ nghĩa duy vật đứng ở vị trí đối lập hoàn toàn với chủnghĩa duy tâm. Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa duy vật đã trải qua 3 hình thức cơ bản:Hình thức thứ nhất - chủ nghĩa duy vật chất phác. Hình thức này xuất hiện trong chếđộ chiếm hữu nô lệ như ở Ấn Độ, Trung Hoa, Hy Lạp. Quan điểm của chủ nghĩa duy vậtthời kỳ này nói chung là đúng đắn nhưng mang tính ngây thơ chất phác vì chủ yếu dựa vàoquan sát trực tiếp, chưa dựa vào các thành tựu của các bộ môn khoa học chuyên ngành vìlúc đó chưa phát triển. Tiêu biểu cho chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duyvật chất phác, ngây thơ là Đêmôcrít [460- 370 TCN]. Ông là nhà Triết học duy vật cổ đạinhất trong thế giới cổ đại. Ông là người hiểu biết sâu rộng rất nhiều lĩnh vực: Triết học,toán học, đạo đức học, sinh vật học… là học trò và người kế tục phát triển quan điểm của4Lơxxip. Nổi bật trong triết học duy vật của ông là học thuyết về nguyên tử. Ông cho rằngnguyên tử không nhìn thấy được, không âm thanh, màu sắc và mùi vị. Chúng đồng nhấtvới nhau về chất nhưng khác nhau về hình thức, thứ tự và tư thế. Ông quan niệm nguyên tửlà vô hạn về lượng và hình thức. Mỗi sự vật đều được cấu tạo bởi những nguyên tử do sựkết hợp giữa chúng với nhau theo một trật tự và thế nhất định. Sự biến đổi vật chất là do sựthay đổi trình tự sắp xếp của những nguyên tử tạo thành còn bản thân nguyên tử thì khôngthay đổi. Nguyên tử luôn vận động trong không gian ông thấy rõ quan hệ chặt chẽ giữa vậtchất và vận động. Dựa vào thuyết nguyên tử, ông thừa nhận sự ràng buộc lẫn nhau theoquy luật nhân quả tính khách quan trong tính tất yếu của sự vật, hiện tượng tự nhiên. Đó làđóng góp quan trọng của Đêmôcrit vào triết học duy vật. Tuy quan niệm của ông còn mangtính mộc mạc song nó giữ vai trò rất quan trọng trong việc chống lại các quan điểm duytâm và tôn giáo về tính bất tử của linh hồn người. Đêmôcrit đã có công lao to lớn trong xâydựng lý luận nhận thức giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai tròcủa cảm giác là điểm khởi đầu của nhận thức và tư duy trong việc nhận thức thế giới.Hình thức cơ bản thứ hai là chủ nghĩa duy vật siêu hình. Hình thức này được thểhiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao vào thế kỷ thứXVII, XVIII. Vào thời kỳ này cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên trongkhi tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạnnày chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc phương phápnhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong trạng tháibiệt lập và tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hìnhcũng đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, điểnhình là thời kỳ chuyển tiếp từ đêm trường trung cổ sang thời phục hưng. Đại diện tiêubiểu là Lútvích Phoiơbắc [1804-1972], ông là một nhân vật kiệt suất trước Mác, là nhà tưtưởng của giai cấp tư sản dân chủ. Ông đã có công lớn trong việc phê phán chủ nghĩa duytâm của Heegghen cũng như chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung, khôi phục vị tríxứng đáng của triết học duy vật. Ông đã chứng minh thế giới là vật chất, giới tự nhiên tồntại ngoài con người không phụ thuộc vào ý thức con người, là cơ sở sinh sống của conngười. Giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại và vận động nhờ những cơ sở bêntrong nó. Triết học của ông mang tính nhân bản.Hình thức cơ bản thứ ba là chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác – Ăngghen xâydựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển. Vói sự kế thừa tinhhoa của các học thuyết trước đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học đương thời,chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chếcủa chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII-XVIII vànó đã thể hiện được sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật khoa học và phương phápnhận thức khoa học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực5mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thựcđó. Triết học Mác – Lênin kết thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tưduy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét tự nhiên cũngnhư đời sống xã hội và tư duy con người.2.Thuyết nhị nguyên và một số đại diện tiêu biểu2.1 Thuyết nhị nguyênThuyết nhị nguyên hay nhị nguyên luận thừa nhận sự tồn tại hai thực thể vật chất vàý thức song song tồn tại, có những thuộc tính riêng độc lập, không cái nào có trước, khôngcái nào quyết định cái nào. Có nhiều dạng nhị nguyên, một trong số đó là thuyết nhịnguyên về triết học xem vật chất và ý thức [hay tinh thần], tạo thành hai nguồn gốc của thếgiới. Triết học nhị nguyên cố gắng đứng trên lập trường của cả chủ nghĩa duy vật và chủnghĩa duy tâm để giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tư duy và tồntại. Nhưng thực chất triết học nhị nguyên luận tự mâu thuẫn với bản thân mình, vì khôngthể giải đáp được triệt để mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, tồn tại và tư duy. Quan điểmcủa các nhà triết học theo nhị nguyên luận thường thiếu nhất quán, đa phần là hoài nghi.Hạn chế lớn nhất trong các học thuyết nhị nguyên của các nhà triết học là sự khôngthể khẳng định vật chất có trước hay ý thức có trước, là người đã đứng giữa ranh giới củachủ nghĩa duy vật và duy tâm. Họ muốn dung hoà hai trường phái trên để dẫn đến mộttrường phái duy nhất đó là cùng tồn tại. Quan điểm của họ đa phần là hoài nghi vì thế màkhi giả quyết tiếp mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học họ đã rơi vào thuyết bất khả tri vàdần dần triết học của họ chuyển sang duy tâm. Sự hình thành của thuyết nhị nguyên hiệnđại Cùng với những sai lầm và hạn chế trên thuyết nhị nguyên dần bị các nhà nghiên cứutriết học lãng quên. Nhưng điểm quan trọng trong thuyết nhị nguyên đó là dung hòa đượcsự đối lập của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.2.2 triết gia đại diện cho quan điểm này là Rơnê ĐêcáctơRơnê Đêcáctơ [1596 - 1654] là nhà triết học và khoa học nổi tiếng người Pháp. Ôngđã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đánh giá là một trong những người sáng lậpnên khoa học và triết học của một thời đại mới chống lại tôn giáo, chống lại chủ nghĩa kinhviện, xây dựng nên một tư duy mới có thể giúp cho việc nghiên cứu khoa học. Khi giảiquyết vấn đề cơ bản của triết học, Đêcáctơ đứng trên lập trường nhị nguyên luận [thuyết vềhai nguồn gốc]. Ông thừa nhận có hai thực thể vật chất và tinh thần tồn tại độc lập vớinhau. Ông cố gắng đứng trên cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm để giải quyết vấnđề mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, giữa tồn tại và tư duy, song cuối cùng đã rơi vào6chủ nghĩa duy tâm, vì ông thừa nhận rằng hai thực thể vật chất và tinh thần tuy độc lậpnhưng đều phụ thuộc vào thực thể thứ ba, do thực thể thứ ba quyết định, đó là Thượng đế.Đêcáctơ đã đấu tranh chống lại triết học kinh viện thời trung cổ, phủ nhận uy quyền củanhà thờ và tôn giáo. Ông muốn sáng tạo một phương pháp khoa học mới nhằm đề cao sứcmạnh lý tưởng của con người, đem lý tính khoa học thay thế cho niềm tin tôn giáo mùquáng. Theo ông, nghi ngờ là điểm xuất phát của phương pháp khoa học. Nghi ngờ có thểgiúp con người tránh được những ý kiến thiên lệch, xác định được chân lý. Đêcáctơ nhấnmạnh rằng, dù anh nghi ngờ mọi cái nhưng không thể nghi ngờ rằng anh đang nghi ngờ. Vàông đã đi đến một kết luận nổi tiếng: "Tôi suy nghĩ vậy tôi tồn tại". Điểm tiến bộ của luậnđiểm trên là phủ nhận một cách tuyệt đối tất cả những cái gì mà người ta mê tín. Trongluận điểm đó cũng thể hiện chủ nghĩa duy lý, vì ông nhấn mạnh sự suy nghĩ, tư duy. Ôngcho rằng không phải cảm giác, mà tư duy mới chứng minh được sự tồn tại của chủ thể. Vàtư duy rõ ràng, mạch lạc là tiêu chuẩn của chân lý. Nhưng luận điểm "Tôi suy nghĩ vậy tôitồn tại" cũng bộc lộ chủ nghĩa duy tâm.3. Quan điểm dao động giữa duy vật, duy tâm và các đại diện tiêu biểu choquan điểm này3.1 Quan điểm dao động giữa duy vật, duy tâmCác nhà triết học theo quan điểm này, trong thời gian lúc đầu nghiên cứu đã hết sứcquan tâm giải quyết vấn đề cốt lõi là vật chất. Họ đưa ra những kiến giải khác nhau về vậtchất và qua đó đã có những đóng góp hết sức quan trọng đối với lịch sử phát triển của triếthọc duy vật. Họ chứng minh và khẳng định rằng thế giới này là vật chất và vật chất là toànbộ thế giới tự nhiên. Nó không do ai sáng tạo ra mà nó tồn tại độc lập với ý thức và khôngphụ thuộc vào bất cứ ý niệm, ý thức nào. Tuy nhiên tất cả họ đều mắc phải hạn chế lớnnhất là đã đồng nhất vật chất với vật thể hoặc một thuộc tính nào đó của vật thể, họ khôngthấy được sự tồn tại của vật chất gắn liền với vận động và họ không chỉ ra được biểu hiệncủa vật chất trong đời sống xã hội. Khi đó họ không thể lý giải được những hiện tượngtrên. Như vậy, từ chủ nghĩa duy vật, họ đã tiến gần đến chủ nghĩa duy tâm, họ rơi vào mụcđích luận của Thần học và cho rằng Thượng đến là động cơ đầu tiên của thế giới, nguyênnhân tận cùng, mục đích tối thượng của mọi hiện tượng.3.2 Những đại diện tiêu biểu•ArixtốtArixtốt [384 – 322 TCN] là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất thời cổ HyLạp. Ông để lại cho nhân loại một di sản triết học đồ sộ, trong đó tiêu biểu nhất là tác phẩmSiêu hình học, mặc dù là học trò của Platon, nhưng với phương châm “Platon là người thầy7nhưng chân lý quý hơn”, Arixtốt đã phê phán học thuyết duy tâm của Platon về ý niệm đểxây dựng cho mình một tư tưởng triết học hoàn toàn khác mà ở đó có sự dao động giữa duyvật và duy tâm.Theo Arixtốt, tồn tại nói chung xuất phát từ 4 nguyên nhân cơ bản: hình dạng, vậtchất, vận động và mục đích. Bất kỳ sự vật nào cũng đều tồn tại dựa trên 4 nguyên nhân đó.Chẳng hạn, cái nhà đã có được là nhờ hình dạng của nó – tức ý tưởng, đồ án về cái nhà màcon người cần có trước khi xây dựng; vật chất - các nguyên vật liệu cần thiết tạo nên cáinhà như gạch, ngói…; vận động – hoạt động của những người thợ làm nhà; và mục đíchcủa việc con người làm nhà. Trong số các nguyên nhân trên của tồn tại thì nguyên nhânhình dạng là cơ bản nhất, nó là thực chất của tồn tại, là bản chất của sự vật. Một mặt, ôngkhẳng dạng mọi sự vật trong thế giới của chúng ta đều là sự thống nhất giữa vật chất vàhình dạng. Chẳng hạn, quả cầu đồng là sự thống nhất giữa vật chất là chất đồng với hìnhdạng –hình cầu. Trong đó, theo ông, hình dạng là cái tích cực, là thực thể của mọi vật, cònvật chất là cái thụ động và chỉ là cái cơ chất của chúng. Mặt khác, ông thừa nhận tồn tại“hình dạng thuần túy” phi vật chất hoàn toàn thuộc về lĩnh vực tư tưởng, cũng như khẳngđịnh có cả “vật chất đầu tiên” tức là vật chất phi hình dạng. Ở đây ông đã tách rời vật chấtvà hình dạng. Hơn nữa, ông còn coi “hình dạng thuần túy” [hay “hình dạng của mọi hìnhdạng”] là động cơ đầu tiên của thế giới làm cho mọi vật đều có thể vận động được. Đóchính là Thượng đế, hay trí tuệ thuần túy. Đây là điểm triết học Arixtốt hòa nhập với thầnhọc của ông.Như vậy, từ chỗ chưa hiểu đúng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng Arixtốt đãdao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong quan niêm về vật chất và hìnhdạng. Điều đó làm cho sự phê phán của ông đối với lập trường duy tâm trong triết học về ýniệm không triệt để. Nói đúng hơn, Arixtốt chưa hoàn toàn thoát khỏi lập trường duy tâmtrong quan niệm về vật chất và tinh thần.•Khổng TửKhổng Tử [551 – 479 tr.CN], tên Khâu, tự Trọng Ni, sinh ra ở nước Lỗ, trong mộtgia đình quý tộc nhỏ bị sa sút. Ông được xem là người đã sáng lập tư tưởng Nho gia – nềntư tưởng thống trị suốt hằng hai ngàn năm lịch sử Trung Quốc. Khổng Tử rất ít bàn đếnnhững vấn đề trừu tượng thuộc về bản thể luận, về chuyện quỷ thần quái dị... như phầnđông các nhà tư tưởng cùng thời. Tuy vậy, nhiều chỗ ông nói đến “Trời, Mệnh trời” những yếu tố có vai trò quan trọng trong tư tưởng triết học của ông nhưng do hạn chế về tàiliệu, cách trình bày của ông không nhất quán cho nên chưa thể đủ căn cứ để khẳng định làduy tâm hay duy vật, vô thần hay hữu thần. Cụ thể là:8Thứ nhất, bàn về Trời. “Trời” đối với Khổng Tử có chỗ như là một quy luật, là trậttự của vạn vật trong tự nhiên tự nhiên [“trời có nói gì đâu, bốn mùa vẫn thay đổi, vạn vậtvẫn sinh trưởng”], có chỗ ông lại khẳng định trời làm chủ vũ trụ, “Trời” như là một thựcthể có ý chí [“Than ôi! Trời làm mất đạo ta”, “Mắc tội với trời không thể cầu ở đâu màthoát được”], ý chí của trời gọi là “Thiên mệnh”, vì thế ông đã đề cao thuyết thiên mệnh.Thiên mệnh nhiều khi được trình bày như một lực lượng khách quan thần bí toàn năng, chiphối đời sống của con người. Mỗi người, sự sống chết, phú quý hay nghèo hèn đều dothiên mệnh quy định. Mặt khác, Khổng Tử lại cho rằng con người bằng nỗ lực chủ quancủa mình cũng có thể thay đổi được cái “Thiên tính” ban đầu. Ông nói con người lúc sinhra, cái “tính” trời phú cho là giống nhau, nhưng quá trình tiếp xúc, học tập…nó làm cho họkhác nhau, có kẻ trí có người ngu [“Tính tương cận, tập tương viễn”] đây là mặt tích cực,chỗ “thêm vào” của Khổng Tử so với quan niệm về “Thiên mệnh” mang nặng tính chấtduy tâm cảm tính của thời Tây Chu trước đó.Thứ hai, về vấn đề quỷ thần. Khổng Tử tỏ ra có thái độ hoài nghi về sự tồn tại củaquỷ thần cho nên một mặt ông chủ trương tôn kính, một mặt lại xa lánh và cảnh giác. Ôngnói: biết kính quỷ thần mà lánh xa nó là người trí – Như vậy kẻ mê tín quỷ thần là kẻ ngu;Tế thần xem như là có thần – có thần hay không là do mình [“Tế thần như thần tại”]; Quỷthần không đáng tế mà tế là nịnh – Phải cảnh giác.Thứ ba, quan niệm của Khổng Tử về việc sống - chết. Khi được học trò là Tử Lộ hỏi,sau khi chết con người sẽ ra sao? Ông nói : Chưa biết được việc sống làm sao mà biết đượcviệc chết, tức là người đang sống thì cốt biết đến hiện tại hay thế giới hiện hữu [thuộc vềduy vật]. Song, cũng có lúc ông lại cho rằng: người sống nhân nghĩa khi chết sẽ được lênvới Trời ở cõi cực lạc; người sống mà không nhân nghĩa thì khi chết sẽ bị quỷ xứ giày xéo.Như vậy, ông cũng thừa nhận sự tồn tại của một thế giới khác mà con người chưa biết được[thuộc về duy tâm].KẾT LUẬNNhư vậy, trong lịch sử tuy những quan điểm triết học biểu hiện đa dạng nhưng suycho cùng, triết học chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duytâm. Khi đứng trên lập trường của một trong hai chủ nghĩa này thì triết gia sẽ có quan điểmtheo thuyết nhị nguyên luận, khi đứng trên lập trường của cả hai chủ nghĩa này mà quanniệm rằng chúng cùng tồn tại một cách độc lập, không cái nào quyết định cái nào thì triếtgia sẽ thuộc về thuyết nhị nguyên luận. Còn có những triết gia lại bị dao động giữa hai chủnghĩa này, trong cùng một sự vật, hiện tượng lại có cách giải thích khác nhau, thậm chí đốilập nhau thì triết học của họ là dao động giữa duy vật và duy tâm.9MỤC LỤC10

Video liên quan

Chủ Đề