Quan điểm đổi mới của Đảng ta tại Đại hội Đảng 6 là gì

[HBĐT] - Đại hội lần thứ VI của Đảng diễn ra từ ngày 15 - 18/12/1986 tại Thủ đô Hà Nội. Dự đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng. Có 32 đoàn đại biểu quốc tế dự.

Đại hội diễn ra trong bối cảnh chung: Hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng, khó khăn nghiêm trọng. Phong trào độc lập dân tộc phát triển mạnh; phong trào không liên kết trở thành lực lượng chính trị rộng lớn, có vai trò ngày càng quan trọng.

Hố ngăn cách giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển ngày càng sâu rộng. Sự bóc lột ngày càng nặng nề của các nước đế quốc chủ nghĩa khiến nhiều nước Á, Phi, Mỹ Latinh ngày càng bần cùng và nợ nần chồng chất. Phong trào công nhân của các nước tư bản có bước phát triển mới.

Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá các lực lượng sản xuất.

Trong nước tiếp tục xây dựng CNXH, xây dựng chế độ làm chủ tập thể, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới XHCN gắn với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, 10 năm đầu tiên của thời kỳ quá độ, nền sản xuất cũ, hậu quả của các cuộc chiến tranh, tàn dư của chế độ cũ đã cản trở sự phát triển của đất nước. Chúng ta chưa tiến xa được mấy so với điểm xuất phát quá thấp. Những sai lầm và khuyết điểm đã mắc phải càng làm cho tình hình thêm khó khăn.

Quyết tâm đổi mới: Ðại hội lần thứ VI đánh dấu sự đổi mới quan trọng của Ðảng trong lãnh đạo chính trị, tư tưởng, tổ chức. Với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", đại hội khẳng định những thành tựu đã đạt được trong nhiệm kỳ trước, đồng thời chỉ rõ: Tình hình KT-XH có những khó khăn gay gắt: sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; tài nguyên của đất nước chưa được khai thác tốt; lưu thông không thông suốt, phân phối rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp, có mặt gay gắt hơn; quan hệ sản xuất XHCN chậm được củng cố; đời sống Nhân dân, nhất là công nhân, viên chức còn nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển.

Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Ðại hội lần thứ V đề ra là cơ bản ổn định tình hình KT-XH, ổn định đời sống Nhân dân.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng đắn tình hình của đất nước, đại hội nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm, khuyết điểm. Ðổi mới tư duy, nhận thức rõ hơn về những quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng CNXH ở miền Bắc và những năm đầu khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, đại hội đề ra đường lối đổi mới.

Ðại hội xác định: Ðảng phải trưởng thành về lãnh đạo chính trị, phát triển và cụ thể hóa đường lối, đề ra những giải pháp đúng đắn đối với những vấn đề mới của sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Ðể tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Ðảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.

Ðại hội quyết định bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Ðiều lệ Ðảng cho phù hợp tình hình mới.

Ðổi mới toàn diện thật sự là ý Ðảng, lòng dân. Nghị quyết Ðại hội VI vào cuộc sống là quá trình thể nghiệm, tìm tòi, từng bước cụ thể hóa, phát triển và tổ chức thực hiện những định hướng lớn. Ðảng và Nhà nước vừa tập trung giải quyết những vấn đề KT-XH cấp bách, giữ vững ổn định chính trị, vừa thực hiện đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các chủ trương, chính sách đổi mới bắt đầu mang lại kết quả rõ rệt, tình hình kinh tế và đời sống Nhân dân dần được cải thiện, sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, lòng tin của Nhân dân vào công cuộc đổi mới tăng lên.

Ðại hội bầu BCH T.Ư gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng. Các đồng chí: Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Lê Ðức Thọ được giao trách nhiệm là cố vấn BCH T.Ư Ðảng.

[Còn nữa]

P.V [TH]

[HNM] - Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng [năm 1982], công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc đã thu được những thành tựu quan trọng. Song, bên cạnh đó cũng xuất hiện mặt trái của tình hình, nhất là về kinh tế - xã hội, sự trì trệ về sản xuất, sự rối ren về phân phối, lưu thông và những khó khăn trong đời sống nhân dân. Vì thế, Đảng ta xác định Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI phải đánh dấu sự đổi mới về tư duy, phong cách, tổ chức và cán bộ nhằm đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của đất nước trong tình hình mới.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp từ ngày 15 đến 18-12-1986 tại Thủ đô Hà Nội, với sự tham dự của 1.129 đại biểu, thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên trong cả nước. Dự Đại hội có 32 đoàn đại biểu quốc tế.

Đại hội đã nghe đồng chí Nguyễn Văn Linh trình bày diễn văn khai mạc; đồng chí Trường Chinh trình bày Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đồng chí Võ Văn Kiệt trình bày Báo cáo về phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm [1986-1990].

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết điểm, đổi mới tư duy lý luận, Đại hội đề ra đường lối đổi mới. Trước hết, là đổi mới cơ cấu kinh tế [cơ cấu công - nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế huyện]. Thực hiện 3 chương trình kinh tế, gồm: Chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế.

Đại hội đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc. Thứ nhất, phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Thứ hai, phải xuất phát từ thực tế của nước ta và vận dụng quan điểm của Lênin coi trên nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Thứ ba, trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất trên cả 3 mặt: Xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.

Đại hội giao Ban Chấp hành Trung ương khóa VI chỉ đạo thực hiện thành công những nhiệm vụ đề ra trong Báo cáo chính trị, mà quan trọng là: Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách thường xuyên với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất...; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế…

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI với 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã họp Hội nghị lần thứ nhất bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu là Tổng Bí thư. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ được giao trọng trách làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội [ĐH] đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18-12-1986. Dự ĐH có 1.129 đại biểu chính thức thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong cả nước. ĐH lần thứ VI của Đảng là ĐH đổi mới toàn diện đất nước, hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, ĐH đã khẳng định những thành tựu quan trọng trong 5 năm [1981-1985] trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đặc biệt trên mặt trận sản xuất nông nghiệp và mặt trận bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, làm nghĩa vụ quốc tế với Lào, Campuchia. Đồng thời nghiêm khắc chỉ ra những khuyết điểm, sai lầm trong nhận thức cũng như trong tổ chức thực hiện đường lối và nguyên tắc của Đảng. ĐH đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động chỉ đạo của Đảng. Một là trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", chăm lo xây dựng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hai là Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba là phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Bốn là chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, đề ra đường lối đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta với các nội dung cơ bản: Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. ĐH cũng đưa ra hệ thống các giải pháp cơ bản về đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội, chính sách đối ngoại để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu nêu trên. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. ĐH đã bầu Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành TƯ đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm là Cố vấn Ban Chấp hành TƯ Đảng.

ĐH VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. ĐH thể hiện sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và trước dân tộc. Sau ĐH, Đảng đã lãnh đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, từng bước tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển, đưa cách mạng nước ta từng bước đạt được những thành tựu rất quan trọng.

Video liên quan

Chủ Đề