Nhân định nào sau đây không đúng với việc nhà Nước chú trọng đánh bắt xa bờ

Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh phát biểu chỉ đạo tại hội nghị.

Hỗ trợ đến 95% tổng giá trị con tàu
 
 Nghị định của Chính phủ về một số chính sách phát triển thuỷ sản được xem như một chương trình mang tính đột phát trong việc phát triển ngành khai thác thuỷ sản của Việt Nam. Nghị định bao gồm những chính sách về đầu tư, tín dụng, bảo hiểm, chính sách ưu đãi thuế và một số chính sách khác nhằm phát triển thuỷ sản, đồng thời góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Theo đó, các tổ chức, cá nhân đóng mới tàu dịch vụ hậu cần đánh bắt xa bờ, bọc vỏ thép, bọc vỏ chất liệu mới, có tổng công suất máy chính từ 380CV trở lên sẽ được vay vốn ngân hàng thương mại mức tối đa 95% tổng giá trị đầu tư, với lãi suất 5%/năm, trong đó chủ tàu trả 1%/năm, ngân sách nhà nước cấp bù cho ngân hàng thương mại 4%/năm. Trường hợp đóng tàu vỏ gỗ mới, chủ tàu sẽ được vay tối đa 85% tổng giá trị đầu tư với lãi suất 5%, trong đó chủ tàu trả 2%/năm, ngân sách cấp bù 3%/năm. Đối với tàu khai thác hải sản xa bờ có công suất từ 380CV trở lên, bọc thép và các chất liệu mới, chủ tàu sẽ được vay vốn ngân hàng tối đa từ 70%-90% tổng giá trị đầu tư con tàu bao gồm cả ngư lưới cụ, lãi suất 5%/năm, chủ tàu trả từ 1%-2%/năm, phần còn lại sẽ do nhà nước cấp bù cho ngân hàng.    Cũng theo Nghị định này, nhà nước sẽ hỗ trợ mua bảo hiểm thân tàu và ngư lưới cụ trên mỗi tàu với mức 70% kinh phí mua bảo hiểm đối với tàu có công suất máy chính dưới 380CV, 90% kinh phí đối với tàu có công suất máy chính từ 380CV trở lên; hỗ trợ 100% kinh phí mua bảo hiểm tai nạn thuyền viên trên tàu; hỗ trợ 100% chi phí đào tạo, hướng dẫn vận hành thuyền vỏ thép…  

 Hiện thực hoá ước mơ vươn khơi
 


 Theo ý kiến của các ngư dân tham dự buổi họp, chính sách mới này đã mang đến cơ hội cho các ngư dân xây dựng đội tàu đánh cá lớn, mạnh, phát triển mạnh mẽ ngành khai thác thuỷ sản, làm giàu cho ngư dân, đồng thời góp phần bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Ngư dân Thanh Hoá Phạm Gia Thanh cho biết, hiện anh đang làm chủ 9 chiếc tàu vỏ gỗ, tuy nhiên với những chiếc tàu lớn, dài hơn 25m, mã lực trên 1000CV, nếu được thiết kế vỏ gỗ thì rất yếu. Bản thân anh đã từng xin đi làm thuê cho các đội tàu cá bằng sắt của Trung Quốc để nghiên cứu cách làm ăn của họ và thấy rằng tàu vỏ sắt có rất nhiều ưu điểm. Do vậy, chính sách hỗ trợ này sẽ giúp ngư dân hiện thực hoá ước mơ vươn khơi bằng những đội tàu sắt lớn, ngư dân yên tâm, vững vàng bám biển trước sóng gió. Anh Trương Tày, ngư dân tỉnh Quảng Ngãi, cũng đánh giá đây là một động lực to lớn giúp bà con ngư dân phát triển sản xuất. Tuy nhiên, các ngư dân cũng bày tỏ băn khoăn, lo lắng về việc cần phải thiết kế các con tàu vỏ sắt phù hợp với tình hình thực tế tại các địa phương khác nhau; việc duy tu, bảo dưỡng các con tàu vỏ sắt như thế nào khi vẫn chưa có các nhà máy sửa chữa, đóng mới loại tàu này tại các địa phương ven biển; sự bồi lấp luồng lạch, cửa sông, các bến tránh trú bão, neo đậu tàu thuyền chưa được đầu tư, bảo đảm an toàn cho tàu thuyền.

Tàu hậu cần nghề cá là ưu tiên cao nhất của chính sách này.

Đại tá Hà Sơn Hải, Tổng Giám đốc Công ty Sông Thu cho rằng, để chương trình hỗ trợ này thật sự hiệu quả, nhà nước cần có lộ trình phát triển của ngành khai thác và đánh bắt hải sản xa bờ, quy hoạch ngư trường. Đặc biệt phải tìm hiểu nhu cầu của người dân. “Không phải cứ phải tàu vỏ sắt mới có hiệu quả, mà tàu vỏ gỗ cũng có những ưu điểm của nó. Nhà nước nên tổ chức nghiên cứu, tìm hiểu và đưa ra những mẫu thiết kế phù hợp với từng địa phương, từng ngư trường khác nhau để người dân lựa chọn. Quan trọng nhất là tiền phải đến tay người dân, không để thất thoát, mất mát, nếu không sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả” - Đại tá Hà Sơn Hải lưu ý.  

 Địa phương phải vào cuộc mạnh mẽ
 

 Phát biểu tại hội nghị, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh nhấn mạnh, một trong những ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước là phải đẩy mạnh kinh tế biển, làm giàu từ biển. Trong đó ngành công nghiệp đóng tàu được ưu tiên phát triển, vừa phục vụ phát triển kinh tế, bảo đảm cuộc sống của ngư dân nhưng cũng vừa bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ. Với những chính sách hỗ trợ lần này, Chính phủ ưu tiên cao nhất đối với việc đóng mới các tàu dịch vụ hậu cần vỏ sắt, chuyên cung cấp các nhu yếu phẩm, nước, dầu và thu mua hải sản ngay trên biển; hình thành các đội tàu đánh bắt xa bờ lớn, hiện đại, vươn khơi xa, bám biển dài ngày. Đồng thời tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, các khu cảng, neo đậu, trú tránh bão. Phó Thủ tướng tiếp thu các ý kiến đóng góp của các đại biểu, đặc biệt là của các ngư dân nhằm hoàn chỉnh dự thảo Nghị định. Về đối tượng, Phó Thủ tướng thống nhất bổ sung các loại tàu đóng bằng vật liệu mới, kinh phí đầu tư nạo vét luồng lạch, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ chế rủi ro chặt chẽ…  

 Phó Thủ tướng cũng yêu cầu các địa phương, bộ ngành cần nhanh chóng tập trung nghiên cứu, lấy ý kiến của ngư dân trong việc hỗ trợ đóng tàu vỏ thép, trong đó chú ý các vấn đề về hỗ trợ đào tạo vận hành con tàu, cơ sở duy tu bảo dưỡng. Các địa phương phải vào cuộc mạnh mẽ, khẩn trương triển khai thực hiện thí điểm và nhân rộng mô hình nếu thấy có hiệu quả. “Chính phủ sẽ giao quyền tự chủ thực hiện chương trình này cho các địa phương. Phải triển khai nhanh chóng, đồng bộ và hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi nhất ngư dân tiếp cận vốn vay, đồng thời bảo đảm tính công khai, minh bạch. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khẩn trương nghiên cứu, đưa ra các mẫu tàu, thuyền, các chủ tàu sẽ là người quyết định chọn mẫu nào, trang thiết bị, ngư lưới cụ nào phù hợp bởi họ mới chính là chủ thể của chính sách này” – Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh nói.

NGỌC THỦY

Nhận định không đúng về ý nghĩa việc đánh bắt xa bờ ở nước ta: Phòng tránh được thiên tai.

Đáp án C

Câu hỏi trên thuộc đề trắc nghiệm dưới đây !

Số câu hỏi: 39

Trong một thời gian dài, ngư dân Việt Nam chủ yếu đánh bắt cá ven bờ, chưa coi trọng việc đánh bắt xa bờ. Nếu được đào tạo tốt, được trang bị kiến thức quốc phòng và được sự phối hợp của các đơn vị chức năng thì ngư dân sẽ trở thành lực lượng dân quân biển tích cực trong việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia.

Nước ta là một trong số ít quốc gia được thiên nhiên ban phát tài nguyên biển phong phú và đa dạng. Nằm phía tây Thái Bình Dương, bờ biển Việt Nam có chiều dài hơn 3.260 km cùng hơn 1 triệu km² vùng biển đặc quyền kinh tế. Với 28 tỉnh thành có biển là điều kiện cho phép khai thác nhiều lợi thế về kinh tế biển khác nhau.

Bên cạnh đó, Biển Đông của chúng ta lại nằm ở vị trí trung tâm vùng kinh tế Đông Á phát triển năng động, cũng như gần một trong những đường hàng hải quan trọng và nhộn nhịp thuộc loại nhất thế giới. Vị trí này không chỉ quan trọng về kinh tế mà cả về an ninh, nhất là khi chúng ta có cảng Cam Ranh là mơ ước của nhiều cường quốc quân sự.

Thống kê gần đây cho thấy kinh tế biển của chúng ta đóng góp khoảng 47 – 48% GDP, trong số này các ngành chủ lực đóng góp lớn là dầu khí 64%, hải sản 14%, vận tải biển và dịch vụ biển 11%, du lịch biển khoảng 9%.

Tiềm năng tài nguyên biển đáng kể của chúng ta là tổng trữ lượng dầu khí của thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỉ tấn, đưa nước ta vào danh sách những quốc gia xuất khẩu dầu có thế lực ở khu vực. Nguồn hải sản cũng rất đáng kể với con sốước toán khai thác bền vững từ 1,4 đến 1,7 triệu tấn một năm, đem lại nguồn lợi cũng như tạo việc làm cho hơn 4 triệu lao động trực tiếp đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản và hơn nửa triệu lao động liên quan.

Tiềm năng kinh tế biển phong phú đã và đang tạo cơ hội lớn thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng đồng thời cũng gặp trở ngại không nhỏ là nội lực và nhận thức kinh tế biển chưa ngang tầm.

Tuy vậy, chúng ta đã xây dựng chiến lược kinh tế biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu đóng góp 53 – 55% GDP và 55 – 60% vào kim ngạch xuất khẩu.

Nhưng liệu mục tiêu này có đạt được hay không, như chuyên gia lịch sử Stein Tonnesson nhận định: “Việt Nam không có truyền thống khai thác biển hay hàng hải mạnh mẽ. Lịch sử Việt Nam gắn với việc sở hữu đất đai, phát triển nghề trồng lúa nước, thủy lợi nông nghiệp, cùng với việc quản lý lãnh thổ chống lại sự xâm lăng đến từ người láng giềng phương Bắc”.

Trong một thời gian dài, ngư dân Việt Nam chủ yếu đánh bắt cá ven bờ, chưa coi trọng việc đánh bắt xa bờ mặc dù sở hữu một vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn.

Thế nhưng những năm gần đây, tình hình đã đổi khác.

Đánh bắt hải sản giữ một vai trò quan trọng đối với Việt Nam cả về khía cạnh thu nhập quốc gia [chiếm 7% GDP] và tạo công ăn việc làm cho người dân.

Theo báo cáo gần đây nhất được công bố vào năm 2014 của Tổ chức Nông lương Thế giới [FAO], Việt Nam đứng vị trí thứ 9 trên toàn thế giới năm 2012 về sản lượng cá đánh bắt được, với hơn 2,418 triệu tấn.

Như đa số các quốc gia ven Biển Đông, từ một thập niên qua, Việt Nam đã ghi nhận tăng trưởng mạnh về khai thác hải sản, cụ thể là tăng 46,8% trong khoảng thời gian 2003-2012. Hơn nữa, từ khi “Đổi mới”, những chuyển đổi quan trọng đã được thực hiện như chuyển hướng từ sản xuất sang khai thác [Việt Nam là nước đứng thứ 4 về xuất khẩu cá và hải sản xa bờ], phát triển mạnh lĩnh vực nuôi thủy hải sản, tăng số lượng ngư dân và cuối cùng là hướng về đánh bắt thủy hải sản xa bờ.

Chú trọng đánh bắt cá xa bờ cũng chính là điểm cần được nhấn mạnh trong tình hình căng thẳng trên Biển Đông do các hành vi ngang ngược của Trung Quốc, gây khó khăn cho hoạt động đánh bắt của ngư dân. Nhằm mục đích gìn giữ phần bờ biển vốn đã được triệt để khai thác lâu nay khiến sản lượng ngày càng thấp, Chính phủ tích cực ủng hộ việc khai thác hải sản xa bờ.

Chương trình Đánh bắt hải sản xa bờ được phê duyệt năm 1997 có mục tiêu khuyến khích chuyển đổi từ đánh bắt hải sản thủ công, quy mô gia đình và gần bờ với việc sử dụng các tàu có công suất dưới 20 mã lực và các kỹ thuật truyền thống sang đánh bắt hải sản chuyên nghiệp, có đầu tư nguồn vốn lớn và chuyên môn hóa trong đánh bắt các loài hải sản có giá trị gia tăng cao nhờ vào sử dụng các loại tàu công suất lớn hơn 90 mã lực. Chính sách này đang bắt đầu mang lại kết quả.

Theo thống kê năm 2012, sản lượng đánh bắt hải sản gần bờ và xa bờ trong tổng sản lượng đã có sự cân bằng, với các con số lần lượt là 50,6% và 49,4%. Đây là một sự thay đổi đáng kể nếu so với thống kê năm 2001, thời kỳ ghi nhận sự vượt trội của đánh bắt hải sản gần bờ với 69,2% tổng sản lượng khai thác được. Đến 2020, Chính phủ dự kiến đạt mức 64% sản lượng hải sản xa bờ và 36% gần bờ.

Việc phát triển đánh bắt hải sản xa bờ còn mang ý nghĩa quan trọng cả về mặt chính trị, đó là việc tái khẳng định chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên Vùng đặc quyền kinh tế. Ngư dân Việt Nam là những người đối mặt nhiều nhất với các va chạm trên biển, họ thường bị các lực lượng Trung Quốc, Philippines và Đài Loan bắt giữ. Khai thác hải sản đã trở thành một thách thức cả về mặt chiến lược và kinh tế.

Để bảo vệ ngư dân và chống lại việc khai thác hải sản trái phép, Chính phủ đã đầu tư trong việc đóng mới tàu dành cho lực lượng tuần tra bờ biển. Nhà nước đã thành lập Trung tâm Giám sát nguồn hải sản ngoài khơi, được trang bị một đội tàu với hơn 3.000 tàu đánh bắt hải sản xa bờ và hệ thống vệ tinh cho phép nâng cao hiệu quả các chiến dịch khai thác hải sản, đồng thời duy trì kiểm soát thường xuyên tại các trung tâm kiểm soát đặt tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu.

Ngoài ra, còn có thể kể đến một số biện pháp mạnh mẽ hơn. Năm 2009, Quốc hội đã thông qua Luật Dân quân tự vệ cho phép các đơn vị hành chính ven biển và hải đảo thành lập các lực lượng tự vệ biển và các tàu đánh cá được sử dụng đến lực lượng tự vệ. Người ta cũng biết rằng cả Trung Quốc và Philippines đều không chậm trễ trong việc bảo vệ bờ biển của họ với các lực lượng tuần tra bờ biển và hải giám được trang bị thuyền có vũ khí. Vì vậy, nguy cơ quân sự hóa các cuộc xung đột liên quan tới việc khai thác hải sản xa bờ là rất rõ ràng.

Thách thức kinh tế, quốc phòng và chiến lược hội tụ trong một vấn đề, điều này đã được thể hiện trong chủ trương cố gắng xây dựng Việt Nam trở thành một cường quốc biển, sở hữu nền kinh tế biển giàu có, song song với việc duy trì chủ quyền quốc gia trên biển và hải đảo để đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, xây dựng một đất nước thịnh vượng và mạnh mẽ vào năm 2020.

Đẩy mạnh việc đánh bắt hải sản xa bờ không chỉ là hoạt động góp phần phát triển kinh tế, mà còn nhằm mục đích xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển. Sự có mặt thường xuyên, đông đảo của các đội tàu, của ngư dân trên các vùng biển xa, không chỉ nhằm khai thác tốt tiềm năng, lợi thế nguồn tài nguyên biển, mà còn góp phần quan trọng vào việc khẳng định chủ quyền và bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển. Sự phát triển lớn mạnh của các đội tàu thuyền đánh bắt hải sản xa bờ sẽ là điều kiện thuận lợi để chúng ta nghiên cứu, xây dựng lực lượng dân quân biển, cả về tổ chức, số lượng và chất lượng.

Khi lực lượng ngư dân trên các đội tàu đánh bắt hải sản xa bờ có nhận thức chính trị tốt, được tổ chức, quản lý một cách chặt chẽ, được đào tạo, huấn luyện đầy đủ theo quy định,… họ sẽ kết hợp có hiệu quả giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh; vừa tiến hành các hoạt động sản xuất trên biển, vừa làm nhiệm vụ cảnh giới, phát hiện, xua đuổi và ngăn chặn sự xâm nhập trái phép của tàu thuyền nước ngoài vào khai thác hải sản trên các vùng biển của ta. Khi có tình huống phức tạp xảy ra, đây sẽ là một lực lượng đông đảo hỗ trợ, phối hợp cùng lực lượng chuyên trách chiến đấu bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh quốc gia trên biển.

Chủ trương đánh bắt hải sản xa bờ càng có ý nghĩa to lớn hơn khi kết hợp được giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh; kết hợp có hiệu quả giữa tổ chức lực lượng đánh bắt hải sản xa bờ với xây dựng thế trận chiến đấu chống xâm nhập trên biển.

Lâu nay, ngư dân của chúng ta đánh bắt hải sản ở các vùng biển truyền thống ở Hoàng Sa, Trường Sa vẫn thường bị lực lượng hải giám Trung Quốc làm khó, nhiều tàu cá đã bị đâm chìm. Tình trạng này ngày càng căng thẳng và trong chừng mực có thể nói ngư dân phải đơn độc đối phó.

Đặc điểm của việc đánh bắt hải sản xa bờ là các đội tàu đều có sự quản lý, chỉ huy chặt chẽ, mỗi tàu đều có những ngư dân khỏe mạnh, có kinh nghiệm đi biển, chịu đựng bền bỉ và dẻo dai trước những khó khăn của biển cả và công việc.

Vì vậy, nếu được đào tạo tốt, được trang bị kiến thức quốc phòng và được sự phối hợp của các đơn vị chức năng thì ngư dân sẽ trở thành lực lượng dân quân biển tích cực trong việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, bảo vệ và khai thác tài nguyên biển có hiệu quả.

Video liên quan

Chủ Đề