Hình thành giọt côaxecva có khả năng sinh sản là dấu hiệu đánh dấu sự xuất hiện
Bài viết này cần thêm liên kết tới các bài viết khác để giúp nó bách khoa hơn. Xin hãy giúp cải thiện bài viết này bằng cách thêm các liên kết có liên quan đến ngữ cảnh trong văn bản hiện tại. (tháng 7 2018) Coacervate (tên Việt hóa Côaxecva hay Coaxecva, phát âm như là Cô-a-xéc-va) là các giọt tụ tạo bởi các dung dịch keo hòa tan vào nhau mà thành phần dung dịch keo chính là những hợp chất hữu cơ cao phân tử hòa tan trong nước[1][2], đây được xem là một dạng sống nguyên thủy.
Năm 1936, Aleksandr Ivanovich Oparin, trong cuốn sách nổi tiếng của mình "The Origin of Life on Earth" (Nguồn gốc của sự sống trên Trái Đất), đã cho thấy rằng sự hiện diện của không khí chứa oxy và những hình thái sống phức tạp đã ngăn cản những chuỗi phản ứng có thể tạo nên sự sống. Oparin còn cho rằng, một "món súp nguyên thủy" với những hợp chất hữu cơ chỉ có thể tạo thành ở những nơi thiếu oxy, qua ánh sáng Mặt Trời. Sau đó, ông cho rằng chính những hợp chất hữu cơ cao phân tử hòa tan trong nước thành các dung dịch keo, các dung dịch keo này có thể hòa tan vào nhau tạo thanh những giọt rất nhỏ gọi là coacervate. Những giọt này có thể lớn lên nhờ hấp thụ các giọt khác, có thể sinh sản khi có những tác động cơ giới chia nó ra làm các hạt nhỏ hơn, do đó nó có các tính chất cơ bản của một tế bào nguyên thủy. Tất cả những học thuyết hiện đại đều khởi đầu từ những luận điểm của Oparin.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Coacervate&oldid=68330046” Tế bào sơ khai (protocell) cũng còn được gọi là tiền tế bào (protobiont) là dạng sớm nhất của tế bào sinh học xuất hiện trong tiến trình phát sinh sự sống trên Trái Đất.[2][3][4][5][6] Thuật ngữ này trong tiếng Anh là protobiont hoặc protocell dùng để chỉ một tập hợp siêu hiển vi, hình cầu, được bao bọc bởi lớp màng, trong có chứa các chất có thể tạo thành dạng tiền thân của tế bào nhân sơ cổ nhất, xuất hiện trong giai đoạn tiến hoá tiền sinh học (Pre-biological evolution).[6][7][8] Tế bào sơ khai với các đặc điểm cấu trúc, thành phần hoá học, tính năng hoạt động v.v. đã được mô tả kĩ lưỡng và minh hoạ bằng nhiều thí nghiệm khoa học, nhưng thực ra vẫn chỉ là cấu trúc khoa học giả thuyết, bởi vì chưa tìm được bằng chứng về sự tồn tại của nó. Điều này thật dễ hiểu, bởi các nghiên cứu về nguồn gốc sự sống, dù có cố gắng đến đâu cũng gặp những khó khăn to lớn khó vượt qua, khi nhà khoa học phải xâm nhập vào quá khứ Trái Đất hàng tỉ năm trước.[9] Tế bào sơ khai được xem là ranh giới giữa thế giới không sống và thế giới sống trong lịch sử phát sinh sự sống.[10][11][12] Cũng có tác giả phân biệt tế bào sơ khai với tế bào nguyên thuỷ ở điểm chủ yếu là: tế bào sơ khai là tiền thân của tế bào nguyên thuỷ (tế bào chính thức), đồng thời sự xuất hiện tế bào nguyên thuỷ đánh dấu tiến trình phát sinh sự sống chuyển sang giai đoạn tiến hoá sinh học (biological evolution).[3] Lipôxôm - mô hình vỏ của tiền tế bào.
Côaxecva Vào năm 1924 nhà khoa học Nga là A.I. Ôparin cho rằng: trong khí quyển nguyên thuỷ bao quanh Trái Đất cổ xưa đã có nhiều hợp chất hữu cơ khác nhau, được sinh ra theo con đường phi sinh học. Những hợp chất này nặng hơn mọi chất khí, nên rơi xuống, ở đại dương tạo thành nồi súp nguyên thuỷ. Trong môi trường nước biển, những hợp chất này hỗn hợp với nhau, từ đó vô số những "giọt" keo rất nhỏ thuộc nhiều loại khác nhau được hình thành, mà ông gọi là côaxecva.[9] Từ côaxecva dần tạo nên tiền tế bào, rồi thành tế bào. Mô hình hiện đạiMô hình động lớp lipid kép - cấu trúc cơ bản tạo nên màng tế bào - theo quan niệm hiện đại.
Các vi túi (vesicles) là thành phần thiết yếu của các tế bào nguyên thủy.[23] Định luật thứ hai của nhiệt động lực học đòi hỏi vật chất di chuyển theo hướng entropy tăng. Chính "ranh giới" là lớp màng lipid rất cần thiết để phân biệt các cấu trúc xuất hiện trong tế bào sơ khai.[24] Màng tế bào là cấu trúc tế bào duy nhất được tìm thấy trong tất cả các tế bào của tất cả các sinh vật trên Trái Đất.[25] Các nhà khoa học Irene A. Chen và Jack W. Szostak (Giải Nobel năm 2009) cũng đã góp phần chứng minh những tính chất lý, hóa đơn giản của tế bào sơ khai có thể được tạo ra như vậy qua quá trình chọn lọc theo kiểu Đacuyn đã mô tả.[26] Sự đóng gói vi mô tạo thành các vi túi này cho phép trao đổi chất trong màng, trao đổi các phân tử nhỏ và ngăn chặn sự đi qua của các chất lớn trên nó. Những ưu điểm chính của đóng gói bao gồm tăng độ hòa tan của hàng hóa và tạo ra năng lượng dưới dạng gradient hóa học. Do đó, năng lượng thường được lưu trữ bởi các tế bào trong cấu trúc của các phân tử các chất như carbohydrates (đường, bột), lipid và prôtêin, giải phóng năng lượng khi kết hợp hóa học với oxy trong quá trình hô hấp tế bào.[27][28]
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tế_bào_sơ_khai&oldid=67956901” |