Giải thích tại sao có sự phát triển không đồng đều giữa các mặt bộ phận của ngôn ngữ

Khi nói về nguồn gốc của ngôn ngữ, chúng ta đã phân tích và thấy rằng ngôn ngữ xuất hiện cùng với quá trình hình thành ý thức, gắn liền với lao động, với sự xuất hiện của con người và xã hội loài người. Vậy, xem xét quá trình diễn tiến của ngôn ngữ trong sự diễn tiến của xã hội loài người sẽ là điều hợp lí.

Về mặt dân tộc học, người ta đã phân loại các đơn vị tổ chức xã hội loài người thành các bậc: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc và cuối cùng là dân tộc. Bên cạnh đó, học thuyết về các hình thái kinh tế xã hội lại phân chia lịch sử xã hội theo một cách khác và được các hình thái kinh tế xã hội ứng xử với các giai đoạn phát triển như: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa.

Trên thực tế, khó lòng có thể vạch ra từng bậc trong sự diễn tiến của ngôn ngữ một cách “phân đoạn” như vậy. Tuy nhiên, trong chừng mực nhất định, người ta vẫn có thể dựa vào những ranh giới phân đoạn đó nhiều hoặc ít, tuỳ theo, vì chẳng còn có cách nào hơn.

2.1. Chế độ công xã nguyên thuỷ ứng với loại cộng đồng thị tộc và bộ lạc [còn gọi chung là các nhóm dân tộc học] trong đó bộ lạc là đơn vị cơ sở.

Mỗi bộ lạc như thế cư trú trên một lãnh thổ, mọi người trong bộ lạc có quan hệ kinh tế

với nhau, mang mang những đặc điểm đời sống-văn hoá chung và nói cùng một thứ tiếng.

Về mặt ngôn ngữ, thời kì này có hai xu hướng gần như trái ngược nhau, nhưng nhiều khi lại đan xen vào nhau: xu hướng chia tách, phân tách và xu hướng liên minh, hợp nhất.

2.1. 1. Xu hướng chia tách thường xảy ra khi một bộ lạc tăng trưởng dân số không ngừng và đến một lúc nào đó, do nhiều điều kiện khác nhau [nhưng nhu cầu sinh sống là chủ yếu] buộc người ta tự nhiên phải tách ra thành những bộ phận, những nhóm, cư trú phân tán trên nhiều địa bàn khác nhau.

Do điều kiện sống xa nhau, thậm chí biệt lập, rất ít tiếp xúc hoặc không có tiếp xúc nữa, các bộ phận cư dân đó về sau đã hình thành nên [một cách tự nhiên] những bộ lạc độc lập.

Trong quá trình đó, những khác biệt về mặt ngôn ngữ đã nảy sinh rồi được củng cố qua nhiều thế hệ và trở thành ngôn ngữ khác nhau có cùng nguồn gốc, hoặc trở thành những phương ngữ, thổ ngữ khác nhau của một ngôn ngữ chung. Các nhà dân tộc học, sử học, ngôn ngữ học cùng với những ngành khoa học hữu quan, khi nghiên cứu sự thân thuộc về mặt cội nguồn giữa các tộc người, giữa các ngôn ngữ hiện đang tồn tại hoặc giữa các phương ngữ của một ngôn ngữ, đã thấy rất rõ điều đó. Chẳng hạn: các nhóm phương ngữ Mày, Rục, Sách, Arem, Mã Liềng của tiếng Chứt; các nhóm phương ngữ Thổ, Poọng, Đan Lai, Li Hà, Cuối Chăm, Cuồi Niêu của tiếng Thổ ở khu vực Đông Nam Trường Sơn [Việt Nam]; Các phương ngữ của tiếng Papua ở Châu Phi, các phương ngữ của tiếng Litva ở Liên Xô… hẳn đã là kết quả của quá trình chia tách và khuếch tán như vậy.

Có thể nói, ngôn ngữ của các bộ lạc, tự nó đã là những mầm mống để hình thành các phương ngữ, thổ ngữ trong giai đoạn xã hội phát triển cao hơn sau này.

2.1.2. Xu hướng hợp nhất có lẽ hay xảy ra vào giai đoạn chót của chế độ công xã nguyên thuỷ đang chuyển dần sang giai đoạn xã hội có giai cấp.

Lúc này, có những liên minh bộ lạc được hình thành [hoặc là bằng cách một bộ lạc này chinh phục các bộ lạc khác, hoặc là một số bộ lạc tự nguyện liên minh với nhau vì một nguyên nhân nào đó].

Liên minh bộ lạc là điều kiện hết sức thuận lợi để các ngôn ngữ [dù không gần gũi với nhau về cội nguồn, hoặc hoàn toàn không có quan hệ thân thuộc đi nữa] tiếp xúc chặt chẽ với nhau và tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Thường có hai lối tác động:

Thứ nhất, một ngôn ngữ bộ lạc chiến thắng các ngôn ngữ khác và trở thành ngôn ngữ chung trong cộng đồng toàn liên minh. Tuy vậy, nó vẫn chịu ảnh hưởng của các ngôn ngữ không chiến thắng khác và thay đổi ít nhiều bộ dạng của mình đi; nhất là ở mặt ngữ âm và từ vựng. Tiếng Latin của người La Mã trong các vùng bị người La Mã chinh phục là như vậy.

Thứ hai, tiếp xúc ngôn ngữ dẫn đến pha trộn ngôn ngữ và thậm chí có thể làm nảy sinh một ngôn ngữ mới. Thế nhưng, đây không phải là sự pha trộn cơ giới, đảo đều; cũng không phải là sự tạo thành một ngôn ngữ hoàn toàn mới, khác hẳn các ngôn ngữ tham gia tiếp xúc, pha trộn; bởi vì ngôn ngữ mới này vẫn giữ cơ cấu hình thái của một trong những ngôn ngữ thuộc thành phần pha trộn đó làm cơ sở nền tảng cho mình. Chính nhờ cái cơ sở [gọi là cơ tầng] đó mà người ta vẫn xác định được ngôn ngữ mới thân thuộc với ngôn ngữ nào hơn và thuộc vào nhóm nào trong phổ hệ của họ ngôn ngữ.

Lối tiếp xúc, ảnh hưởng như thế, ngay gần đây, người ta vẫn còn có thể kiểm chứng được trong không hiếm ngôn ngữ hiện đang tồn tại. Ví dụ:

2.2. 1. Tiếng Việt trong quá trình tiếp xúc lâu đời với tiếng Hán, đã vay mượn vào vốn từ của mình một khối lượng rất lớn các từ và yếu tố tạo từ cùng với một số ảnh hưởng khác về mặt ngữ pháp; nhưng không vì thế mà nó thuộc cùng một nhóm gần gũi về cội nguồn với tiếng Hán.

Ở châu Âu, quan hệ giữa tiếng Anh với tiếng Pháp; tiếng Rumani với các ngôn ngữ Slave và tiếng Hi Lạp, tiếng Hung, người ta cũng thấy những tình hình tương tự: tiếng Anh vẫn thuộc số các ngôn ngữ Giecman, còn tiếng Pháp, tiếng Rumani vẫn thuộc về các ngôn ngữ Roman.

2.2.2. Theo A.G. Haudricourt, người Sán Chấy ở Việt Nam vốn là người Dao gốc Quý Châu [Trung Quốc], di cư đến Quảng Đông rồi di cư sang Việt Nam sống chung với người Tày, Nùng. Tại đây, ngôn ngữ của họ, tiếng Sán Chấy, là một ngôn ngữ pha trộn gồm cơ tầng Dao với tiếng Tày Nùng.

Như vậy, điểm nổi rõ về mặt ngôn ngữ trong thời kì công xã nguyên thuỷ, thời kì của các thị tộc, bộ lạc là luôn luôn diễn ra quá trình chia tách và liên minh, tiếp xúc. Một mặt, sự chia tách làm gia tăng số lượng các ngôn ngữ khác nhau hoặc các phương ngữ, thổ ngữ khác nhau trong một ngôn ngữ; mặt khác, sự tiếp xúc lại dẫn đến tình trạng gần nhau, và tới một mức nào đó sẽ dẫn đến pha trộn ngôn ngữ.

2.2. Thay thế chế độ công xã nguyên thuỷ là chế độ xã hội có giai cấp, gắn liền với sự thiết lập nhà nước [trước hết là những nhà nước cổ đại] theo kiểu nào đó của phương Đông hoặc phương Tây.

Tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở từng nơi mà các nhà nước đó đã được xây dựng bằng những cách khác nhau, bởi những nguyên nhân ít nhiều khác nhau. Các nhà nước cổ đại ở Hi Lạp, La Mã, Ai Cập, Ấn Độ, Trung Hoa và vùng Cận Đông là sản phẩm của những bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc chiến thắng để thống trị các tộc người khác trong cộng đồng. Một số nơi khác [rất có thể như ở nước Văn Lang ở Việt Nam thời xa xưa chẳng hạn] lại xây dựng nhà nước trên cơ sở của một liên minh tự nguyện, thiết lập chính quyền trung ương thống nhất, khả dĩ tập trung sức mạnh toàn cộng đồng để đối phó thiên tai hoặc các cuộc xâm lăng, thôn tính của ngoại xâm.

Nhà nước ra đời đòi hỏi trong cộng đồng phải có một ngôn ngữ thống nhất làm ngôn ngữ nhà nước. Ngôn ngữ đó có thể là một ngôn ngữ bản địa của người chiến thắng như tiếng Latin từ sau năm 49 trước công nguyên ở đế quốc La Mã, tiếng Xôngai trong lãnh thổ của nhà nước Xôngai [ở Châu Phi] trước đây; cũng có thể là ngôn ngữ của bộ lạc làm hạt nhân, trung tâm cho nhà nước như tiếng Việt trong lãnh thổ nước Văn Lang thời xưa. Mặt khác, ở một số nơi, cùng với sự hình thành nhà nước là quá trình xuất hiện, xây dựng chữ viết [hoặc là tự sáng tạo, hoặc là vay mượn, cải biến, hoặc là tiếp thu hẳn một hệ thống của ngoại tộc].

Người nắm được và sử dụng chữ viết lúc đó chủ yếu là các trí thức trong tầng lớp thống trị, các tăng lữ thuộc các tôn giáo hoặc thương nhân [như ở Cận Đông và vùng Địa Trung Hải]. Vì vậy, trong giai đoạn này ngôn ngữ nhà nước không phải ở nơi nào cũng đồng thời là ngôn ngữ của toàn dân. Thậm chí, khi nhà nước đã đạt tới trình độ quản lí tổ chức và tập trung cao [như trong chế độ phong kiến về sau chẳng hạn] thì cái gọi là ngôn ngữ nhà nước, ngôn ngữ có tính chính thống thường cũng có nghĩa là ngôn ngữ viết, phân biệt với ngôn ngữ nhân dân [là ngôn ngữ dùng trong giao tiếp rộng rãi hàng ngày] và có khi nó xa cách với ngôn ngữ nhân dân.

Điều này còn diễn ra cho tận đến lúc ngôn ngữ dân tộc dần dần chiếm ưu thế trong mọi phạm vi giao tiếp của nhà nước.

Dẫu sao thì sự ra đời của nhà nước cũng đã có ảnh hưởng đến ngôn ngữ. Nó là nhân tố vừa đòi hỏi, vừa thúc đẩy việc tìm kiếm, xây dựng một ngôn ngữ chính thức, thống nhất về phương diện quốc gia, dù có đồng thời là ngôn ngữ toàn dân hay không.

2.3. Nét nổi bật trong thời kì hình thành dân tộc là hình thành một ngôn ngữ dân tộc thống nhất.

Dân tộc vốn là một phạm trù lịch sử, xuất hiện vào một giai đoạn nhất định, với những điều kiện và hoàn cảnh nhất định.

Một trong những điều kiện quan trọng bắt buộc, để đảm bảo một cộng đồng người hình thành một dân tộc [ví dụ như điều kiện về lãnh thổ, về kinh tế, về cấu tạo tâm lí và văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần…] là cộng đồng đó phải có một ngôn ngữ chung.

Tuy nhiên, ngôn ngữ chính thức, thống nhất của nhà nước với ngôn ngữ thống nhất của dân tộc không phải bao giờ cũng trùng nhau. Tình trạng này hiện nay chúng ta vẫn còn quan sát được ở nhiều nước châu Phi: tại đó, có nhiều ngôn ngữ của các dân tộc bản địa, nhưng ngôn ngữ nhà nước lại là một thứ tiếng châu Âu nào đó, được phổ biến từ thời thực dân. Ví dụ tiếng Anh ở Nigiêria, tiếng Pháp ở Mali và Ghilê…

Dân tộc được hình thành, làm tăng cường thêm sự thống nhất về nhiều mặt, trong đó có thống nhất ngôn ngữ. Những dị biệt của ngôn ngữ mang tính xã hội hoặc lãnh thổ giữa các bộ lạc, bộ tộc bị triệt thoái dần; còn những nét chung, thống nhất càng ngày càng được phát hiện, xây dựng và củng cố để trở thành tài sản chung của tất cả mọi người.

Thông thường, ngôn ngữ dân tộc có thể được xây dựng trên cơ sở của một ngôn ngữ có sẵn [thường là phương ngữ ở vùng trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá trong quan hệ nhà nước] hoặc xây dựng trên cơ sở của các tác động qua lại dẫn đến sự tổng hoà, có chọn lọc từ các phương ngữ khác nhau. Ví dụ, có thể coi tiếng Việt với phương ngữ Bắc [mà trung tâm là hai vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã] thuộc trường hợp thứ nhất; còn tiếng Nga với sự tổng hoà các phương ngữ Bắc Nga và Nam Nga cùng một phần tiếng Slave cổ, thuộc về trường hợp thứ hai.

Tính thống nhất của ngôn ngữ dân tộc, tuy vậy, vẫn buộc phải chấp nhận tình trạng còn tồn tại những phương ngữ địa lí và phương ngữ xã hội. Đó là sự thực hiển nhiên mà chúng ta hoàn toàn có thể quan sát được thống nhất trong cái đa dạng, và đa dạng trên một căn bản thống nhất. Tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Khmer, tiếng Lào, tiếng Thái Lan cũng như tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Anh… đều như thế.

Sự hình thành ngôn ngữ dân tộc thống nhất cũng sẽ thường dẫn đến việc xây dựng ngôn ngữ văn học [hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là ngôn ngữ trong văn học nghệ thuật]. Đó là thứ ngôn ngữ có quy chế, được trau dồi dù có chính thức hay không.

Thật ra, quá trình hình thành ngôn ngữ dân tộc và xây dựng ngôn ngữ văn học [của dân tộc] không phải bao giờ cũng đi đôi với nhau hoặc tiếp liền nhau. Trong khi ở Hi Lạp cổ đại, ngôn ngữ văn học được xây dựng từ rất sớm [thế kỉ III trước công nguyên] thì trước đây và ngay cả thời gian không xa so với hiện nay, ở nhiều nơi người ta dùng hẳn một ngôn ngữ khác [cùng với chữ viết của nó] để làm ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ nhà nước. Ngôn ngữ văn học như thế cũng đồng thời chỉ có nghĩa là ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ đó thường là của những dân tộc khác có nền văn hoá, văn học hết sức rực rỡ. Chẳng hạn một số nước châu Âu dùng tiếng Latin; vùng bắc Phi và tiểu Á, một số nước dùng tiếng Ả Rập; còn vùng Lào, Thái Lan, Campuchia dùng tiếng Bali, Sanskrit; Việt Nam dùng tiếng Hán…

Khi ngôn ngữ dân tộc dần dần khẳng định được vai trò vị trí của mình, nó cũng được nhân dân tích cực trau dồi, làm cho có quy chế, có chuẩn mực cả hình thức nói lẫn hình thức viết. Do vậy, nó được dùng trong lĩnh vực giáo dục, văn hoá, văn học nghệ thuật, thông tin đại chúng… Từ đây, ngôn ngữ dân tộc của nhân dân được lựa chọn, được quy chế hoá để trở thành văn hóa ngôn ngữ dân tộc mình.

2. 4. Xem xét diễn tiến của ngôn ngữ loài người nói chung cũng như của ngôn ngữ nói riêng, hầu như người ta hiếm gặp những trường hợp biến đổi và phát triển đơn tuyến.

Những điều trình bày trên đây, quả thực đã có phần đơn giản hoá vấn đề đi rất nhiều để cho phù hợp với mục đích của chúng ta: chỉ quan sát những đường hướng khái quát và giản lược nhất mà thôi.

Dù sao thì ngôn ngữ cũng không bao giờ không biến đổi. Chỉ có điều, khi khảo sát diễn tiến của bất kì ngôn ngữ nào cũng vậy, cần lưu ý rằng:

2.4.1. Nó không phát triển, biến đổi theo phương thức đột biến và cách mạng, mặc dù luôn luôn biến đổi không ngừng.

2.4.2. Trong các quá trình biến đổi, do những tác động ảnh hưởng nhiều chiều, nhiều kiểu của nhiều nhân tố trong và ngoài ngôn ngữ, thì ba mặt: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp của nó vẫn không biến đổi đồng đều như nhau.

Để thực hiện được chức năng làm công cụ giao tiếp và phản ánh, bảo đảm cho mọi người sử dụng có thể hiểu được nhau, mặt từ vựng của ngôn ngữ bao giờ cũng thay đổi nhanh nhạy nhất, mặt ngữ âm biến đổi chậm hơn rất nhiều so với từ vựng, còn ngữ pháp là bộ phận biến đổi chậm nhất và ít nhiều nó mang tính cách của một nhân tố, một thành phần bảo thủ.

Đối với việc nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử của ngôn ngữ nói chung hay từng mặt, từng bộ phận riêng của nó, nhận thức đó là một trong những điều rất có ý nghĩa và cần thiết.

[theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 38–44]

Video liên quan

Chủ Đề