Cung đình huế được xếp loại tư liệu nào

Vùng đất Huế vốn có lịch sử lâu đời và là nơi giao thoa, hội tụ của nhiều luồng văn hóa, văn minh, mà nổi bật là văn minh Nho giáo từ phương Bắc xuống, văn minh Phật giáo từ phương Nam lên, kết hợp với các yếu tố bản địa Đông Nam Á...

Từ năm 1636, Huế đã được lựa chọn để xây dựng làm thủ phủ - kinh đô của Đàng Trong, và từ đó dần dần trở thành một trung tâm văn hóa, chính trị mới ở phía nam Đại Việt. Cho đến giữa thế kỷ XVIII, Huế đã trở thành kinh đô nổi tiếng phồn hoa đô hội của vương quốc Đàng Trong với một hệ thống công trình kiến trúc gỗ phong phú. Tuy nhiên, phải đến đầu thế kỷ XIX, sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước, xây dựng Huế trở thành kinh đô của nước Việt Nam độc lập, việc quy hoạch và xây dựng kinh đô Huế mới trở nên hoàn chỉnh. Có thể nói, kinh đô Huế thời Nguyễn là sự tích hợp và phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc truyền thống Việt Nam với một quy hoạch hoàn chỉnh và một hệ thống công trình kiến trúc đồ sộ, bao gồm thành quách, cung điện, lăng tẩm, đàn miếu, chùa quán... được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, tuyệt đẹp với sông Hương, núi Ngự, đồi Vọng Cảnh, phá Tam Giang... Các công trình kiến trúc từ Ngọ Môn, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, Triệu Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu, chùa Thiên Mụ… đều sử dụng văn thơ để trang trí trên liên ba, đố bản, cổ diềm ở cả nội và ngoại thất công trình. Và cách trang trí 1 ô thơ hoặc 1 đại tự đi liền với 1 bức họa tạo nên kiểu thức "nhất thi nhất họa" hoặc "nhất tự nhất họa" gần như đã trở thành một phong cách riêng trong trang trí kiến trúc cung đình thời Nguyễn. Đây là một hình thức trang trí được thực hiện trên các liên ba sơn son thếp vàng, dùng kiểu ô hộc lớn nhỏ xen nhau, thể hiện nhiều đề tài, nhiều biểu tượng kèm theo, được lắp đặt khéo léo tại phần trên của các bức tường. Trong giai đoạn này, chất liệu chế tác để tạo nên văn thơ là từ gỗ quý hoặc có độ bền vững cao [lim, kiền kiền, thị, dỗi rừng…] hoặc xà cừ, xương hay cao cấp hơn là ngà voi, hoặc đồ pháp lam [đồ đồng tráng men], bê tông đắp ngõa sành sứ.

Phần lớn các công trình kiến trúc được xây dựng dưới thời vua Nguyễn [1802-1945] có thơ văn được trang trí "nhất thi nhất họa" và "nhất tự nhất họa" được hình thành cùng thời xây dựng công trình. Thơ văn này thể hiện sự phong phú đa dạng về cả nội dung cho đến hình thức. Một ô thơ đi kèm với một ô họa khắc những đề tài truyền thống thuần túy Việt Nam như bát bửu, hoa lá, trái cây, rồng, hạc, đầu rồng, dây lá… Nội dung của những ô họa chỉ mang tính chất trang trí, không minh họa cho nội dung của những ô thơ đi kèm với nó. Trải qua một thời gian dài, sự tàn phá của chiến tranh, các thảm họa thiên nhiên và con người, Cố đô Huế còn bảo lưu được một khối lượng rất lớn thơ văn trên các di tích kiến trúc này. Theo thống kê hiện nay, trên các di tích kiến trúc cung đình có tổng số 2679 ô thơ văn và cũng có chừng đó ô họa được chạm khắc, sơn thếp, cẩn xà cừ trên gỗ, trên pháp lam và đắp ngõa sành sứ. Đây thật sự là một bảo tàng sống động về văn chương của triều Nguyễn.

Văn tự chữ Hán được chạm khảm trên gỗ ở kiến trúc Huế là những bản gốc duy nhất hiện còn ở hệ thống di tích Cố đô Huế.Trong lịch sử xây dựng và tu sửa các công trình từ triều Nguyễn chưa hề có tư liệu nào đề cấp đến việc thay đổi, chỉnh sửa hay làm mới các văn tự trên di tích. Từ sau triều Nguyễn cáo chung [1945], việc trùng tu sửa chữa đến các chi tiết trang trí "nhất thi nhất họa" không hề được đặt ra.Trong 3 thập niên vừa qua, kỹ nghệ trùng tu di tích ngày càng tiến bộ, sự quan tâm của cả nước và quốc tế đến công cuộc bảo tồn di tích ngày càng sâu sắc, song các ô hộc thơ văn chữ Hán hiện còn vẫn là hiện trạng gốc, không hề có sự thay đổi, điều chỉnh hay làm mới.

Đến nay, công cuộc bảo tồn phát triển rực rỡ, văn tự chữ Hán trên di tích luôn được nhìn nhận là những tác phẩm nghệ thuật vô giá, vừa hàm chứa một giá trị lịch sử quý báu, nên càng lúc càng được bảo tồn trân trọng. Trong những năm gần đây, nhiều di tích được trùng tu lớn, các văn tự này ở một số nơi được tôn vinh bằng cách dặm vá lại bằng sơn son và thếp vàng [vàng thật] như nó đã là trong quá khứ, vừa đảm bảo tính lịch sử vừa thể hiện sự trân trọng với mảng văn hóa độc đáo này.

Di sản tư liệu hệ thống di sản thơ văn chữ Hán trên kiến trúc cung đình Huế như đã nêu có giá trị rất độc đáo và không thể thay thế. Nếu một số thứ bị mất, hỏng sẽ làm ảnh hưởng đến tính toàn vẹn của một mảng di sản nhân loại. Di sản này tạo ra sự ảnh hưởng lớn đến một giai đoạn phát triển lịch sử mỹ thuật kiến trúc trang trí của Việt Nam.

Đây là một di sản tư liệu chân xác hàm chứa một nội dung giá trị được lưu giữ bằng những tác phẩm nghệ thuật vô giá: những bức tranh, những bức thư pháp được các nghệ nhân tài hoa chạm khảm trên một loại gỗ quý và bền như sắt thép [lim: thiết mộc] để trang hoàng làm tôn vinh giá trị của các công trình kiến trúc cung đình Huế.

Ngày 19/5/2016, Ủy ban di sản ký ức thế giới vinh danh thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là di sản tư liệu thế giới thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã khẳng định giá trị nhiều mặt, xứng đáng được tôn vinh và bảo tồn bền vững di sản này ở Việt Nam và trên toàn thế giới.

Cung đình Huế được xếp vào loại tư liệu gì?

Giải thích: Những đồ vật, những di tích của người xưa con được lưu giữ lại trong lòng đất hay trên mặt đất đều thuộc tư liệu hiện vật.

Tư liệu chữ viết có ý nghĩa gì?

Tư liệu chữ viết không chỉ là cách ghi chép sự thay đổi trong xã hội, mà còn là cách bảo tồn văn hóa và di sản. Chúng giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quá khứ và sự tiến hóa của con người và nền văn hóa qua từng giai đoạn lịch sử.

Chủ Đề