Bài làm văn bàn luậ về phép học

Nguyễn Thiếp [1723 - 1804] tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng gọi là La Sơn Phu Tử, quê ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn [nay thuộc huyện Đức Thọ], tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Thiếp là người "thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu", từng đỗ đạt, làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học

2. TÁC PHẨM

  1. Hoàn cảnh sáng tác Bàn luận về phép học là phần trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8 năm 1791. Văn bản chỉ rõ mục đích của việc học là để làm người có đạo đức, có tri thức, góp phần làm hưng thịnh cho đất nước. b. Thể loại: Tấu
  • Tấu là một loại văn thư của thần dân gửi lên vua để trình bày sự việc, ý kiến, đề nghị [khác với tấu trong nghệ thuật hiện đại là một loại hình kể chuyện, biểu diễn trước công chúng thường mang tới yếu tố vui, hài hước]. Cùng dạng với tấu còn có nghị, biểu, khải, sớ.
  • Tấu có thể được viết bằng văn xuôi hay văn vần, văn biền ngẫu.
  • Điểm khác nhau và giống nhau chiếu, hịch, cáo Giống nhau: Đều là văn nghị luận cổ. Có nội dung là những việc quan trọng to lớn, được viết bằng văn xuôi, văn vần, văn biền ngẫu. Khác nhau +Chiếu, hịch, cáo: là lời của vua, tướng lĩnh dùng để tuyên bố mệnh lệnh, cổ động, thuyết phục.
  • Tấu: là lời của thần dân gửi lên vua để trình bày ý kiến, đề nghị, sự việc. c. Bố cục -Phần trích trong sách giáo khoa được chia làm 3 phần theo bố cục như sau: +Đoạn 1: Từ đầu -> điều tệ hại ấy Nội dung: Mục đích chân chính của việc học. +Đoạn 2: Nước Việt ta-> xin chớ bỏ qua Nội dung: Bàn luận về phép học. +Đoạn 3: Đạo học-> hết. Nội dung: Ý nghĩa và tác dụng của việc học chân chính d. Phương thức biểu đạt Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là nghị luận kết hợp với biểu cảm, tự sự II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
  • Mục đích chân chính của việc học Mở đầu, ông nhắc lại câu cổ ngữ: ''Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo". Vậy mục đích học là biết "lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người". Nói cách khác, học để mở mang trí tuệ và bồi bổ đạo đức. Đạo mà Nguyền Thiếp nói đến là đạo làm người. Ông than phiền "nền chính học đã bị thất truyền". Có biết bao tệ lậu đáng chê trách như "đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi", coi thường đạo lí "không cồn biết đến tam cương, ngũ thường". Nhà dột từ nóc: "Chúa trọng nịnh thần". Ví dụ, cuối thời Lê - Trịnh, tệ nạn buôn quan bán tước hoành hành, sử sách cho biết: năm 1750, đời vua Lê Hiển Tông, vì Nhà nước thiếu tiền, đã đặt ra lệ thu tiền thông kinh: hễ ai nộp ba quan thì được đi thi hương, không phải khảo hạch. Thành ra những người làm ruộng, đi buôn, ai cũng nộp quyển vào thi, rồi người thì dùng sách, kẻ thì thuê người làm bài; kẻ thuê học mười người không được một [theo Dương Quáng Hàm]. Sống trong thời kì đen tối, loạn lạc ấy, Nguyễn Thiếp vô
  • Theo Nguyễn Thiếp, việc học phải được bắt đầu từ những kiến thức có tính chất nền tảng. Và ông đưa ra các phương pháp học cụ thể. +Phương pháp thứ nhất, học tuần tự tiến lên, từ thấp đến cao: "Phép dạy, nhất định theo Chu Tử. Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử". +Phương pháp thứ hai, đó là học rộng, nghĩ sâu biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất. Với phương pháp này, Nguyễn Thiếp hướng dẫn người học một cách học đúng đắn, dễ nhớ kiến thức. Chúng ta thường mắc bệnh học nhiều, học tràn lan, nhưng cuối cùng lại không ghi nhớ được gì cả vì không biết nghĩ cho sâu, tóm cho gọn. Có như thế này thì người học mới có thể ghi nhớ được kiến thức của mình lâu và khoa học. +Phương pháp thứ ba học phải biết kết hợp với hành. Nói theo quan điểm của Phu Tử đó là "theo điều học mà làm". Học không chỉ để biết mà còn để làm. Học đi đôi với hành là cách để hiểu và ứng dụng điều học có hiệu quả, điều đó khác với việc học chay, học vẹt, học lý thuyết suông, học một cách máy móc, sáo rỗng, có thể đọc nghìn cuốn sách "chữ chứa đầy bụng" nhưng khi bước vào đời thì ngu ngơ, rỗng tuếch, trở thành "thầy dở, thợ dốt". Vì không "học đi đôi với hành", vì không biết "theo điều học mà làm" nên nhiều người "đua học hình thức cầu danh lợi" như La Sơn Phu Tử chê trách. Cho nên học tập phải thu nhận được kết quả thiết thực và hữu ích. Sau này, Bác Hồ trong "Thư trung thu" - 1952, cũng khẳng định: "Mong các cháu cổ gắng Thi đua học và hành Tuổi nhỏ làm việc nhỏ Tuỳ theo sức của mình Để tham gia kháng chiến Để gìn giữ hoà bình"...
  • Ý nghĩa và tác dụng của việc học chân chính
  • Cuối cùng, Nguyễn Thiếp khẳng định tác dụng to lớn và lâu dài của việc học: +Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua.
  • Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị. +Phương pháp học tập tốt sẽ là cơ sở để đào tạo ra người tài đức. Nhiều người có tài có đức sẽ góp phần không nhỏ vào việc hưng thịnh đất nước. +Phép học chân chính mà thành công thì sẽ không còn lối học hình thức hòng cầu danh lợi cá nhân, không còn hiện tượng chúa tầm thường, thần nịnh hót. +Nhiều người học giỏi lại có đạo đức tốt, đỗ đạt làm quan sẽ làm cho triều đình ngay ngắn, xã hội trong sạch. Việc cai trị quốc gia của nhà vua sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn, nước nhà sẽ vững vàng, bình ổn. -Nếu nói theo cách hiểu hôm nay của chúng ta thì đạo học chân chính sẽ có sức mạnh cải tạo con người, cải tạo xã hội, thúc đẩy sự phát triển của xã hội theo hướng tích cực.
  • Đằng sau các lí lẽ bàn về tác dụng cửa phép học, Nguyễn Thiếp đã đề cao tác dụng của phương pháp học tập đúng đắn, tin tưởng ở sự phục hưng của sự nghiệp giáo dục chân chính, kì vọng về tương lai tươi sáng của đất nước. Ý kiến của Nguyễn Thiếp trùng hợp với ý kiến của nhà bác học Lê Quý Đôn: Nhân tài là nguyên khí quốc gia. Đất nước nhiều nhân tài thì chế độ vững mạnh, quốc gia hưng thịnh. Ý nghĩa của phép học chân chính: tác giả dùng cách nói tăng tiến để thấy được mối quan hệ giữa giáo dục với chính trị: giáo dục tạo ra người tài đức, đất nước có người tài thì sẽ thái bình thịnh trị. III. TỔNG KẾT
  • Nội dung Bằng hình thức lập luận chặt chẽ, sáng rõ, Nguyễn Thiếp đã nêu lên quan điểm tiến bộ của ông về việc học. Mục đích của việc học là có đạo đức, để làm người

Câu 3. Theo tác giả, mục đích chân chính của việc học là gì? Câu 4. Tác giả phê phán lối học của người đương thời như thế nào? Những lối học ấy đến ngày nay còn tồn tại không? Câu 5. Câu văn: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo."thuộc kiểu câu nào? Câu 6. Kiểu hành động nói nào đã được thực hiện trong câu: “Nước Việt ta, từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bí thất truyền."? Câu 7. Hiện tượng một số người đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi vẫn đang diễn ra trong xã hội hiện nay. Em hãy chỉ ra 02 biểu hiện của lối học đó hiện nay. Theo em lối học đó có phù hợp trong xã hội đang phát triển như nước ta hay không? Vì sao?

PHẦN II. TẠO LẬP VĂN BẢN Từ nội dung phần đọc hiểu hãy viết một đoạn văn [từ 10 - 12 câu] trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của việc xác định mục tiêu học tập đối với học sinh. Trong đoạn văn có sử dụng 01 câu phủ định [gạch chân và chỉ rõ].

ĐỀ SỐ 2 PHẦN I: ĐỌC HIỂU VĂN BẢN Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:

"Cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các

trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà đi học. Phép dạy, nhất định theo Chu Tử, Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên mà học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm. Hoạ may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ với lòng người. Xin chớ bỏ qua. Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị." [Trích Bàn luận về phép học, Nguyễn Thiếp] Câu 1. Trình bày xuất xứ và hoàn cảnh ra đời của bài văn "Bàn luận về phép học". Câu 2. Cho biết thể loại của văn bản chứa đoạn trích trên? Trình bày ngắn gọn hiểu biết của em về thể loại đó? Câu 3: Trong đoạn trích trên, tác giả Nguyễn Thiếp đã đề cập đến những cách học nào? Cách học đó mang đến lợi ích gì? Câu 4: Theo tác giả, việc học không chỉ liên quan đến mỗi người mà còn quan hệ đến cả quốc gia, xã hội. Quan hệ ấy được hiểu như thế nào? Câu 5. Để chỉnh đốn việc dạy-học, tác giả đề xuất những giải pháp gì?

Phần II: Tạo lập văn bản Từ văn bản “Bàn luận về phép học" của Nguyễn Thiếp, hãy viết một bài văn nghị luận bày tỏ suy nghĩ của em về mối quan hệ giữa học và hành.

Chủ Đề