Có bao nhiêu nước Tây Âu nhận viện trợ của mỹ theo Kế hoạch macsan

Mục lục

  • 1 Trước khi có Kế hoạch Marshall
    • 1.1 Bối cảnh tại châu Âu
    • 1.2 Bối cảnh chính trị tại Hoa Kỳ
  • 2 Ý tưởng ban đầu
  • 3 Bài diễn văn
  • 4 Liên Xô khước từ tham gia
  • 5 Quá trình đàm phán
  • 6 Thực thi
  • 7 Phí tổn
  • 8 Hiệu quả
  • 9 Hoàn trả
  • 10 Các quốc gia không nằm trong Kế hoạch Marshall
  • 11 Chỉ trích
    • 11.1 Những chỉ trích ban đầu
    • 11.2 Những chỉ trích hiện đại
  • 12 Chú thích
  • 13 Tham khảo
  • 14 Đọc thêm
  • 15 Liên kết ngoài

Trước khi có Kế hoạch MarshallSửa đổi

Bối cảnh tại châu ÂuSửa đổi

Các tòa nhà đổ nát sau cuộc không kích Hamburg

Phần lớn châu Âu bị tàn phá nặng nề với hàng triệu người chết và bị thương sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến sự tàn phá trên toàn lục địa, trải rộng trên một diện tích còn lớn hơn Chiến tranh thế giới thứ nhất. Các cuộc ném bom dai dẳng cũng đồng nghĩa với việc phần lớn các thành phố lớn đều bị tàn phá nặng nề, với các khu công nghiệp bị đánh phá nghiêm trọng. Rất nhiều thành phố lớn, bao gồm cả Warszawa và Berlin hoàn toàn đổ nát, các thành phố khác, như Luân Đôn và Rotterdam, thì bị thương tích nặng nề. Hạ tầng cơ sở kinh tế điêu tàn, hàng triệu người trở thành vô gia cư. Mặc dù nạn đói ở Hà Lan năm 1944 đã dịu đi cùng với nguồn viện trợ, nhưng sự hoang tàn của ngành nông nghiệp cũng khiến cho nạn đói xảy ra tại một số vùng trên lục địa, lại càng trở nên nghiêm trọng vì mùa đông đặc biệt khắc nghiệt năm 1946–1947 tại vùng tây bắc châu Âu. Đặc biệt hạ tầng giao thông bị phá hoại nghiêm trọng, vì đường sắt, cầu cống, đường sá là các mục tiêu không kích quan trọng, trong khi phần lớn các đoàn tàu thương mại đã bị đánh chìm. Mặc dù phần lớn các thị trấn nhỏ và làng mạc ở Tây Âu không phải chịu cảnh tàn phá ghê gớm như vậy, nhưng việc hệ thống giao thông bị tiêu hủy cũng làm cho họ trở nên cô lập về mặt kinh tế. Bất kỳ vấn đề nào trên đây đều không dễ để giải quyết, vì phần lớn các quốc gia tham chiến đều đã kiệt quệ về tài chính.

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nền kinh tế châu Âu đã bị tổn thất nặng nề và cuộc khủng hoảng sau thời kỳ thế chiến, kéo dài đến tận thập niên 1920, đã dẫn đến sự bất ổn và suy thoái trên toàn cầu. Nước Mỹ, mặc dù lúc đó đang theo chủ nghĩa biệt lập, cũng cố gắng thúc đẩy tăng trưởng tại châu Âu, chủ yếu là thông qua sự tham gia của các ngân hàng Mỹ. Khi Đức không thể trả nổi các khoản bồi hoàn chiến phí, người Mỹ can thiệp bằng cách nới rộng các khoản vay cấp cho Đức, một món nợ mà người Mỹ không đòi lại được khi họ tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai vào năm 1941.

Tại Washington, người ta nhất trí là những sai lầm sau Chiến tranh thế giới thứ nhất không được phép tái diễn. Bộ ngoại giao dưới thời Tổng thống Harry S. Truman dồn tâm sức theo đuổi các hoạt động đối ngoại, nhưng Quốc hội thì phần nào tỏ ra không quan tâm. Ban đầu, người ta hy vọng là chỉ cần không nhiều tiền lắm cũng đủ để tái thiết châu Âu; và Anh, Pháp, với sự giúp sức từ các thuộc địa của họ, sẽ nhanh chóng khôi phục nền kinh tế của họ. Tuy nhiên, tới năm 1947 vẫn chỉ có rất ít tiến bộ. Và mùa đông giá lạnh liên tục trong mấy năm làm tình hình vốn đã xấu lại càng xấu hơn. Nền kinh tế châu Âu dường như không phát triển mạnh với tỷ lệ thất nghiệp cao, lương thực thiếu thốn, dẫn đến các cuộc đình công và bất ổn trong một số quốc gia. Năm 1947, nền kinh tế châu Âu vẫn còn ở dưới mức trước chiến tranh, và hầu như không có dấu hiệu tăng trưởng. Sản lượng nông nghiệp ở khoảng 83% mức năm 1938, sản xuất công nghiệp là 88%, xuất khẩu chỉ ở mức 59%.[3]

Sự thiếu hụt lương thực là một trong những vấn đề trầm trọng nhất. Trước chiến tranh, Tây Âu phụ thuộc vào nguồn lương thực thặng dư từ Đông Âu, nhưng những nguồn đó đã bị chặn lại phía sau Bức màn sắt. Tình hình trở nên đặc biệt tồi tệ tại Đức, nơi mà theo Alan S. Milward trong năm 1946–47 lượng kilocalorie trung bình trên đầu người chỉ là 1.800, không đủ đảm bảo sức khỏe về lâu về dài.[4] Các nguồn khác cho biết lượng kilocalorie trong các năm đó thay đổi, có thể thấp đến mức 1.000 và 1.500. William Clayton thông báo cho Washington là "hàng triệu người đang từ từ chết đói".[5] Một nhân tố cốt yếu khác cho nền kinh tế nói chung là sự thiếu hụt than đá, càng trở nên trầm trọng vì mùa đông lạnh lẽo 1946–47. Tại Đức, các căn hộ không được sưởi ấm, khiến hàng trăm người chết cóng. Tại Anh, tình hình không đến nỗi tồi tệ như vậy, nhưng nhu cầu dân chúng khiến cho sản xuất công nghiệp bị đình trệ hoàn toàn. Một trong những động cơ thúc đẩy kế hoạch trên là lòng nhân đạo muốn chấm dứt những thảm cảnh đó.

Nạn đói mùa đông năm 1947, hàng ngàn người phản đối ở Tây Đức vì thiếu hụt lương thực [ngày 31 tháng 3 năm 1947]. Tấm bảng ghi: "Chúng tôi muốn có than, chúng tôi muốn có bánh mì"

Đức nhận được nhiều đề nghị từ các quốc gia Tây Âu đổi lương thực lấy than đá và sắt thép tối cần thiết khi đó. Nhưng cả Ý lẫn Hà Lan đều không thể được bán rau quả mà trước đó họ vẫn bán ở Đức, với hệ quả là Hà Lan phải tiêu hủy một phần đáng kể vụ thu hoạch của mình. Đan Mạch muốn đổi 150 tấn mỡ lợn một tháng, Thổ Nhĩ Kỳ muốn đổi hạt dẻ; Na Uy muốn đổi cá và dầu cá, Thụy Điển muốn đổi một lượng lớn mỡ. Các quốc gia Đồng Minh, trái lại, không muốn để người Đức được mua bán.[6] Trước tình hình đó, Tướng Lucius D. Clay và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân [Joint Chiefs of Staff] ngày càng tỏ ra lo lắng trước sự gia tăng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản tại Đức, cũng như tình hình thất bại của các nền kinh tế châu Âu không thể phục hồi mà không có nền công nghiệp Đức, là nền móng mà trước kia họ phải dựa vào. Mùa hè năm 1947, Ngoại trưởng, Tướng George Marshall, dựa vào lý do "cơ sở an ninh quốc gia", cuối cùng đã thuyết phục được Tổng thống Harry S. Truman bãi bỏ chỉ thị JCS 1067 trừng phạt Đức, thay vào đó bằng chỉ thị JCS 1779.[7] Tháng 7 năm 1947 chỉ thị JCS 1067, vốn vẫn định hướng cho lực lượng chiếm đóng Mỹ tại Đức nhằm "... không thực hiện bất kỳ bước nào để tiến tới khôi phục nền kinh tế Đức", được thay thế bởi chỉ thị JCS 1779, nhấn mạnh "Một châu Âu trật tự, phồn vinh đòi hỏi phải có sự đóng góp kinh tế từ một nước Đức ổn định và hiệu quả".[8] Chỉ thị JCS 1067 đã có hiệu lực trong vòng hơn hai năm. Những hạn chế áp đặt lên nền sản xuất công nghiệp của Đức phần nào trở nên thông thoáng hơn, cho phép sản xuất thép tăng lên từ mức 25% trước chiến tranh[9][10] tới định mức 50% năng suất trước thế chiến.[11]

Nền công nghiệp Đức tiếp tục bị dỡ bỏ, và năm 1949 Thủ tướng Đức Konrad Adenauer viết thư cho phe Đồng Minh, yêu cầu chấm dứt việc đó, viện dẫn sự trái khoáy trong việc khuyến khích phát triển công nghiệp và việc phá bỏ các nhà máy, cũng như sự mất lòng dân từ chính sách đó.[12] Sự ủng hộ cho việc dỡ bỏ các nhà máy lúc này tới chủ yếu từ phía Pháp, và Thỏa thuận Petersberg tháng 11 năm 1949 cho phép giảm tốc độ phá dỡ đi rất nhiều, mặc dù việc tháo dỡ các nhà máy nhỏ tiếp tục cho tới năm 1951.[13] Kế hoạch "định mức công nghiệp" đầu tiên, được phe Đồng Minh ký ngày 9 tháng 3 năm 1946, tuyên bố nền công nghiệp nặng của Đức phải giảm xuống 50% mức năm 1938 bằng cách phá bỏ 1.500 nhà máy có tên trong danh sách.[14] Tháng 1 năm 1946, Hội đồng kiểm soát Đồng Minh áp đặt cơ sở cho nền kinh tế Đức bằng cách đặt hạn mức cho sản xuất thép của Đức vào khoảng 5,8 triệu tấn một năm, bằng với 25% mức trước chiến tranh.[9] Nước Anh, chiếm đóng những vùng sản xuất thép chính, đòi phải giới hạn sản lượng hơn nữa bằng cách đặt một tối đa là 12 triệu tấn thép một năm, nhưng cuối cùng cũng phải chịu theo ý Mỹ, Pháp và Liên Xô [vốn định đặt mức giới hạn 3 triệu tấn trước đó]. Các nhà máy thép thừa ra sẽ phải bị phá bỏ. Nước Đức bị đẩy xuống mức sống khi cuộc Đại khủng hoảng lên tới đỉnh điểm năm 1932[10] Sản xuất ô tô bị định ở 10% mức trước thời chiến....[15]

Kế hoạch "Định mức công nghiệp Đức" được tiếp nối bởi một số kế hoạch mới hơn, kế hoạch cuối cùng được ký vào năm 1949. Tới năm 1950, sau khi thực tế đã hoàn thành các kế hoạch "định mức công nghiệp", người ta dỡ bỏ 706 nhà máy ở Tây Đức và sản lượng thép bị giảm xuống còn 6,7 triệu tấn.[16] Vladimir Petrov nhận xét là phe Đồng Minh đã "trì hoãn trong vài năm sự phục hồi kinh tế của lục địa châu Âu bị chiến tranh tàn phá, sự phục hồi mà cuối cùng Mỹ phải tốn hàng tỷ đô la vào đó".[17] Năm 1951, Tây Đức chấp thuận gia nhập Cộng đồng Than Thép châu Âu [ECSC] vào năm sau. Điều đó có nghĩa là một số hạn chế về định lượng và sản lượng thực tế do Ủy ban quốc tế giám sát vùng Ruhr được dỡ bỏ, và vai trò của ủy ban này được tiếp quản bởi ECSC.[18]

Bối cảnh chính trị tại Hoa KỳSửa đổi

Cường quốc duy nhất mà cơ sở hạ tầng không bị thiệt hại trong thế chiến 2 là Hoa Kỳ. Họ tham chiến muộn hơn hầu hết các quốc gia châu Âu, và chỉ bị những tàn phá rất khiêm tốn trên lãnh thổ của mình. Số lượng dự trữ vàng của Hoa Kỳ vẫn còn nguyên, cũng như cơ sở hạ tầng nông nghiệp và sản xuất, với nền kinh tế lành mạnh. Những năm chiến tranh mang lại thời kỳ phát triển kinh tế mạnh mẽ nhất trong lịch sử, với các nhà máy của Mỹ sản xuất hàng hóa phục vụ cho cả nhu cầu vật tư chiến tranh của Mỹ lẫn đồng minh. Sau chiến tranh, các nhà máy này được nhanh chóng chuyển đổi sang sản xuất vật liệu tiêu dùng, và sự khan hiếm trong chiến tranh được thay thế bởi sự bùng nổ mức tiêu thụ hàng hóa. Sức khỏe về lâu dài của nền kinh tế Mỹ tuy nhiên phụ thuộc vào thương mại, vì để duy trì sự phồn thịnh nó cần xuất khẩu hàng hóa làm ra. Viện trợ từ Kế hoạch Marshall phần lớn sẽ được châu Âu sử dụng để mua vật tư cũng như hàng hóa sản xuất tại Mỹ.

Một động cơ quan trọng cho nước Mỹ, và cũng là một sự khác biệt cơ bản so với thời kỳ hậu Chiến tranh thế giới thứ nhất là sự bắt đầu Chiến tranh Lạnh. Một số quan chức trong chính phủ Mỹ ngày càng tỏ ra nghi ngờ các hoạt động của Liên Xô. George Kennan, một trong số các lãnh đạo trong việc phát triển kế hoạch, đã dự đoán về sự hình thành thế giới hai cực. Với ông, Kế hoạch Marshall là con cờ chủ đạo của học thuyết "phong tỏa" [containment].[19] Cũng đáng lưu ý là Kế hoạch Marshall được khởi xướng khi liên minh thời chiến vẫn còn phần nào đoàn kết, Chiến tranh Lạnh chưa bắt đầu và, đối với phần lớn những người hoạch định Kế hoạch Marshall, sự lo ngại Liên Xô không phải là mối lo chủ yếu như trong những năm tiếp theo.

Dù vậy, sức mạnh và sự thu hút của các đảng cộng sản bản địa tại chính các quốc gia Tây Âu sở tại khiến Hoa Kỳ cũng phải lo ngại. Tại cả Pháp và Ý, sự nghèo khổ thời hậu chiến như tiếp thêm sinh lực cho các đảng cộng sản, vốn đã đóng vai trò trung tâm cho phong trào kháng chiến trước đó. Các đảng này giành được thắng lợi quan trọng trong các cuộc bầu cử sau thế chiến, với Đảng Cộng sản Pháp trở thành chính đảng lớn nhất nước Pháp. Mặc dù ngày nay các sử gia coi mối nguy Pháp và Ý rơi vào tay đảng cộng sản là chuyện xa vời,[20] nhưng nó đã được coi là mối đe dọa thực tiễn với các nhà hoạch định chính sách Mỹ lúc đó. Chính phủ Mỹ dưới thời Harry S. Truman bắt đầu tin vào khả năng này vào năm 1946, đặc biệt với bàn diễn văn "Iron Curtain" [Bức màn sắt] của Churchill, đọc trước sự có mặt của Truman. Trong tâm trí họ, Hoa Kỳ cần phải xác định lập trường của họ trên trường quốc tế, nếu không họ sẽ mất đi sự tín nhiệm. Sự trỗi dậy của học thuyết "phong tỏa" lập luận rằng Hoa Kỳ cần phải giúp đỡ thật nhiều cho các chính phủ chống cộng sản để ngăn chặn sự mở rộng tầm ảnh hưởng của Liên Xô. Người ta cũng hy vọng là các quốc gia Đông Âu cũng sẽ gia nhập kế hoạch này, và rút khỏi khối Xô viết đang nổi lên.

Thậm chí từ trước khi có Kế hoạch Marshall, Hoa Kỳ đã gửi một lượng lớn viện trợ để giúp châu Âu hồi phục. Khoảng 9 tỷ đô la đã được sử dụng trong khoảng thời gian từ năm 1945 tới 1947. Phần lớn số viện trợ này là viện trợ gián tiếp, đến từ dạng thỏa thuận lend-lease liên tiếp, và thông qua nỗ lực của binh sĩ Mỹ sửa chữa hạ tầng cơ sở cũng như giúp người tị nạn. Một số các thỏa thuận hỗ trợ song phương cũng được ký kết, mà quan trọng nhất trong số đó có lẽ là việc hứa hẹn giúp đỡ quân sự cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ theo Học thuyết Truman. Tổ chức Liên Hợp Quốc khi đó mới ra đời cũng tiến hành một loạt các hoạt động cứu trợ nhân đạo, tài trợ hoàn toàn bởi Hoa Kỳ. Các nỗ lực đó có tác động quan trọng, nhưng thiếu tính chất tổ chức trung tâm và thiếu kế hoạch nên không thành công trong việc đáp ứng nhiều nhu cầu căn bản của châu Âu.[21] Từ năm 1943, Ủy ban Phục hồi và Cứu trợ Liên hiệp quốc [United Nations Relief and Rehabilitation Administration – UNRRA] đã được thành lập để cung cấp viện trợ cho các vùng đất được giải phóng từ phe Trục sau Chiến tranh thế giới thứ hai. UNRRA cung cấp hàng tỷ đô la trong các khoản viện trợ, và giúp được khoảng 8 triệu người tị nạn. Tổ chức này dừng hoạt động tại các trại cho người tị nạn vào năm 1947 tại châu Âu, vì dự trù Kế hoạch Marshall sẽ thay thế nó. Nhiều hoạt động của tổ chức này được chuyển giao cho các cơ sở Liên Hợp Quốc khác.

Để nhận được viện trợ của Mĩ theo kế hoạch Mác - san, các nước Tây Âu phải tuân theo những điều kiện nào do Mĩ đặt ra?


Câu 43668 Nhận biết

Để nhận được viện trợ của Mĩ theo kế hoạch Mác - san, các nước Tây Âu phải tuân theo những điều kiện nào do Mĩ đặt ra?


Đáp án đúng: b


Phương pháp giải

Dựa vào nội dung kế hoạch Mác-san để trả lời.

Các nước Tây Âu --- Xem chi tiết

...

Để nhận được viện trợ của Mĩ theo kế hoạch Mác - san, các nước Tây Âu phải tuân theo những điều kiện nào do Mĩ đặt ra?

A.Tiến hành quốc hữu hóa các xí nghiệp tư bản, hạ thuế quan đối với hàng hóa của Mĩ.

B.Không được tiến hành quốc hữu hóa các xí nghiệp, hạ thuế quan đối với hàng hóa Mĩ, gạt bỏ những người cộng sản ra khỏi chính phủ.

Đáp án chính xác

C. Để hàng hóa Mĩ tràn ngập thị trường Tây Âu, giữ nguyên những người cộng sản trong chính phủ.

D.Đảm bảo các quyền tự do cho người lao động, giữ thuế quan đối với hàng hóa của Mĩ.

Xem lời giải

Đề kiểm tra 15 phút chương 3 phần 1 lịch sử 9 - Đề số 7 có lời giải chi tiết

Đề bài

Câu 1. Năm 1948, 16 nước Tây Âu đã nhận được viện trợ của Mĩ theo kế hoạch nào?

A. Kế hoạch phục hưng châu Âu.

B. Kế hoạch liên minh tiến bộ.

C. Kế hoạch hòa bình tích cực.

D. Kế hoạch Postdam.

Câu 2. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính sách đối ngoại của nhiều nước Tây Âu là đều tìm cách

A. Tham gia tổ chức NATO.

B. Tham gia liên kết quốc tế

C. Trở thành trung tâm kinh tế - tài chính.

D. Trở lại xâm lược các thuộc địa cũ.

Câu 3. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nước Tây Âu đã tham gia khối quân sự nào do Mĩ cầm đầu nhằm chống lại Liên Xô và các nước Đông Âu?

A. Vacsava. B. NATO.

C. APEC D. AU.

Câu 4. Nhà nước nào được thành lập ở Đức dựa trên cơ sở hợp nhất các khu vực chiếm đóng của Mĩ, Anh, Pháp?

A. Cộng hòa Dân chủ Đức.

B. Cộng hòa Liên bang Đức.

C. Cộng hòa Nhân dân Đức.

D. Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Đức.

Câu 5. Việc nhận viện trợ của Mĩ theo “kế hoạch Macsan” đã đưa đến mặt trái nào cho nền kinh tế các nước Tây Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai?

A. Ngày càng lệ thuộc vào Mĩ.

B. Mĩ không viện trợ theo đúng kế hoạch.

C. Hoàn thành “Chiến lược toàn cầu” của Mĩ.

D. Chưa có sự chuyển biến tích cực.

Câu 6. Nguyên nhân khách quan nào đưa đến sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế Tây Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai?

A. Tài nguyên thiên nhiên phong phú.

B. Sự điều tiết có hiệu quả của nhà nước.

C. Sự hợp tác có hiệu quả giữa các quốc gia trong khu vực.

D. Giá nguyên liệu rẻ và nguồn viện trợ của Mĩ.

Câu 7. Đâu không phải nguyên nhân khiến yêu cầu liên kết khu vực ở các nước Tây Âu diễn ra mạnh mẽ từ những năm 50 của thế kỉ XX?

A. Muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào Mĩ

B. Hình thành chính sách thống nhất trong nhiều lĩnh vực.

C. Dần xóa bỏ hàng rào thuế quan.

D. Tạo sức mạnh áp chế với các nước thuộc địa.

Câu 8. Nội dung nào sau đây không thuộc chính sách đối nội của các nước Tâu Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai?

A. Xỏa bỏ các quyền tự do, dân chủ.

B. Xóa bỏ các cải cách tiến bộ.

C. Tham gia NATO.

D. Ngăn cản phon trào công nhân.

Câu 9. “Kế hoạch Macsan” là biện pháp gắn với mục tiêu nào trong “Chiến lược toàn cầu” của Mĩ?

A. Đán áp phong trào dân chủ, tiến bộ trên thế giới.

B. Lôi kéo các nước đồng minh phụ thuộc vào Mĩ.

C. Xóa bỏ hệ thống Tư bản chủ nghĩa trên thế giới.

D. Tiếp tục chiến lược “Cam kết và mở rộng”.

Câu 10. Tâm điểm đối đầu giữa hai cực Xô - Mĩ ở châu Âu là

A. khối quân sự NATO.

B. kế hoạch Mácsan.

C. sự tồn tại hai nhà nước trên lãnh thổ Đức.

D. tổ chức Hiệp ước Vácsava.

Lời giải chi tiết

ĐÁP ÁN VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

A

D

B

B

A

D

D

C

B

C

Câu 1.

Phương pháp: sgk trang 41.

Cách giải:

Để khôi phục nền kinh tế đất nước, năm 1948, 16 nước Tây Âu như Anh, Pháp, Tây Đức, Italia… đã nhận viện trợ kinh tế của Mĩ theo “kế hoạch Phục hưng châu Âu” [còn gọi là kết hoạch Macsan] do Mĩ vạch ra.

Chọn: A

Câu 2.

Phương pháp: sgk trang 41.

Cách giải:

Về đối ngoại, các nước Tây Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước Tây Âu tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược nhằm khôi phục ách thống trị đối với các thuộc địa trước đây.

Cụ thể:

- Anh quay trở lại xâm lược Mã Lai.

- Pháp quay trở lại xâm lược Đông Dương.

- Hà Lan quay trở lại xâm lược Hà Lan.

Chọn: D

Câu 3.

Phương pháp: sgk trang 41.

Cách giải:

Trong bối cảnh chiến tranh lạnh diễn ra gay gắt giữa hai phe, các nước Tây Âu đã tham gia khối quân sự Bắc Đại Tây Dương [gọi tắt theo tiếng Anh là NATO] do Mĩ lập ra [4-1949] nhằm chống lại Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu.

Chọn: B

Câu 4.

Phương pháp: sgk trang 41.

Cách giải:

Sau khi phát xít Đức đầu hàng, bốn cường quốc Đồng minh là Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp đã phân chia lãnh thổ Đức thành bốn khu vực chiếm đóng và kiểm soát. Trong sự đối đầu gay gắt giữa Liên Xô và Mĩ, các khu vực chiếm đóng của Mĩ, Anh, Pháp đã hợp nhất lại và thành lập nhà nước Cộng hòa Liên bang Đức [9-1949].

Chọn: B

Câu 5.

Phương pháp: sgk trang 41, suy luận.

Cách giải:

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhờ nhận được viện trợ của Mĩ, nền kinh tế Tây Âu đã có sự phục hồi và phát triển nhất định. Tuy nhiên, các nước Tây Âu lại phải tuân theo những điều kiện do Mĩ đặt ra như:

- Không được tiến hành quốc hữu hóa các xí nghiệp.

- Hạ thuế quan đối với hàng hóa Mĩ nhập vào.

- Phải gạt bỏ những người cộng sản ra khỏi chính phủ.

=> Như vậy, tuy kinh tế các nước Tây Âu được phục hồi những ngày càng phụ thuộc vào Mĩ. Chính vì thế, từ những năm 50, 60 của thế kỉ XX các nước Tây Âu đã thực hiện liên kết khu vực nhằm hạn chế sự ảnh hưởng của Mĩ đối với các nước này.

Chọn: A

Câu 6.

Phương pháp: sgk trang 41, suy luận.

Cách giải:

Những nguyên nhân đưa đến sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế Tây Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai bao gồm:

- Nguyên nhân chủ quan:

+ Sự điều tiết có hiệu quả của nhà nước.

+ Áp dụng thành tựu khoa học – kĩ thuật vào sản xuất.

+ Tài nguyên thiên nhiên phong phú.

+ Sự hợp tác có hiêu quả của các quốc gia trong khu vực.

- Nguyên nhân khách quan:

+ Tận dụng nguồn viện trợ của Mĩ thông qua “kế hoạch Macsan”.

+ Tận dụng nguồn nguyên liệu rẻ từ các nước thuộc thể giới thứ ba.

Chọn: D

Câu 7.

Phương pháp: sgk trang 42, suy luận.

Cách giải:

Nguyên nhân đưa đến yêu cầu liên kết khu vực ở các nước Tây Âu diễn ra mạnh mẽ từ những năm 50 của thế kỉ XX là do những nguyên nhân sau:

- Nhằm hình thành một thị trường chung Châu Âu, dần xoá bỏ hàng rào thuế quan.

- Có chính sách thống nhất trong nhiều lĩnh vực, mở rộng thị trường.

- Muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào Mĩ.

=> Loại trừ đáp án: D

Chọn: D

Câu 8.

Phương pháp: sgk trang 41, loại trừ.

Cách giải:

Chính sách đối nội của các nước Tây Âu sau năm 1945 là: Giai cấp tư sản cầm quyền luôn tìm cách thu hẹp các quyền tự do, dân chủ, xoá bỏ các cải cách tiến bộ, ngăn cản phong trào công nhân và phong trào dân chủ.

=> Đáp án C: thuộc chính sách đối ngoại.

Chọn: C

Câu 9.

Phương pháp: Phân tích, đánh giá.

Cách giải:

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ thực hiện chiến lược toàn cầu với ba mục tiêu chủ yếu:

- Ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.

- Đàn áp phong trào GPDT, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào chống chiến tranh, vì hòa bình, dân chủ trên thế giới.

- Lôi kéo các nước tư bản Đồng minh phụ thuộc vào Mĩ.

“Kế hoạch Macsan” Mĩ thực hiện nhằm đạt được mục tiêu thứ ba, thông qua viện trợ cho các nước Tây Âu để lôi kéo các nước này trở thành Đồng minh của Mĩ, cùng chống Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa. Và xét trên thực tế, mục tiêu này của Mĩ đã thành công.

Chọn: B

Câu 10.

Phương pháp: Phân tích, đánh giá.

Cách giải:

Năm 1949, trên lãnh thổ nước Đức đã hình thành hai nhà nước đi theo 2 con đường đối lập nhau, có sự chi phối của Mĩ và Liên Xô. Sự tồn tại hai nhà nước Đức và sự phân đôi Béclin làm cho nước Đức trở thành một tâm điểm đối đầu ở châu Âu giữa hai cực Xô - Mĩ.

Chọn: C

Loigiaihay.com

  • Đề kiểm tra 15 phút chương 3 phần 1 lịch sử 9 - Đề số 8 có lời giải chi tiết

    Đề kiểm tra 15 phút chương 3 phần 1 lịch sử 9 - Đề số 8 được biên soạn theo hình thức tự luận có lời giải chi tiết giúp các em ôn tập hiệu quả chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp

  • Đề kiểm tra 15 phút chương 3 phần 1 lịch sử 9 - Đề số 9 có lời giải chi tiết

    Đề kiểm tra 15 phút chương 3 phần 1 lịch sử 9 - Đề số 9 được biên soạn theo hình thức tự luận có lời giải chi tiết giúp các em ôn tập hiệu quả chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp

  • Đề kiểm tra 15 phút chương 3 phần 1 lịch sử 9 - Đề số 6 có lời giải chi tiết

    Đề kiểm tra 15 phút chương 3 phần 1 lịch sử 9 - Đề số 6 được biên soạn theo hình thức tự luận có lời giải chi tiết giúp các em ôn tập hiệu quả chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp

  • Đề kiểm tra 15 phút chương 3 phần 1 lịch sử 9 - Đề số 5 có lời giải chi tiết

    Đề kiểm tra 15 phút chương 3 phần 1 lịch sử 9 - Đề số 5 được biên soạn theo hình thức tự luận có lời giải chi tiết giúp các em ôn tập hiệu quả chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp

  • Đề kiểm tra 15 phút chương 3 phần 1 lịch sử 9 - Đề số 4 có lời giải chi tiết

    Đề kiểm tra 15 phút chương 3 phần 1 lịch sử 9 - Đề số 4 được biên soạn theo hình thức tự luận có lời giải chi tiết giúp các em ôn tập hiệu quả chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp

  • Để khôi phục kinh tế, năm 1948, 16 nước Tây Âu như Anh, Pháp, Tây Đức, I-ta-li-a... đã nhận viện trợ kinh tế của Mĩ theo “Kế hoạch phục hưng châu Âu” [còn gọi là Kế hoạch Mác-san].

    * Nội dung kế hoạch Macsan

    - Thực hiện từ năm 1948 đến năm 1951 với tổng số tiền khoảng 17 tỉ USD.

    - Mĩ viện trợ cho các nước Tây Âu phục hồi nền kinh tế.

    - Các nước Tây Âu phải tuân theo những điều kiện do Mĩ đặt ra như:

    + Không được tiến hành quốc hữu hoá các xí nghiệp;

    + Hạ thuế quan đối với hàng hoá Mĩ nhập vào;

    + Phải gạt bỏ những người cộng sản ra khỏi chính phủ [như ở Pháp, I-ta-li-a...].

    Mục 2

    2. Chính sách đối nội

    - Giai cấp tư sản cầm quyền ở các nước Tây Âu tìm cách thu hẹp các quyền tự do dân chủ;

    - Xoá bỏ các cải cách tiến bộ đã thực hiện trước đây như: ngừng quốc hữu hoá các xí nghiệp tư bản và trả lại những xí nghiệp đã quốc hữu hoá cho các chủ cũ, giảm trợ cấp phúc lợi xã hội,...

    - Ngăn cản các phong trào công nhân và dân chủ.

    Mục 3

    3. Chính sách đối ngoại

    - Ngay sau khi chiến tranh kết thúc, nhiều nước Tây Âu đã tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược nhằm khôi phục ách thống trị đối với các thuộc địa trước đây.

    +Hà Lan xâm lược trở lại In-đô-nê-xi-a [11 - 1945];

    + Pháp trở lại Đông Dương [9 - 1945];

    + Anh trở lại Mã Lai [9 - 1945].

    => Nhưng cuối cùng, các nước thực dân Tây Âu đều thất bại, phải công nhận quyền độc lập của các dân tộc ở những nước này.

    -Trong thời kì Chiến tranh lạnh, các nước Tây Âu đã tham gia khối quân sự Bắc Đại Tây Dương [NATO] do Mĩ lập ra [4 - 1949] nhằm chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Tình hình châu Âu trở nên căng thẳng, các nước đều chạy đua vũ trang và thiết lập nhiều căn cứ quân sự.

    Mục 4

    4. Tình hình nước Đức sau Chiến tranh

    + Sau khi nước Đức phát xít đầu hàng, bốn cường quốc Đồng minh là Liên Xô, Mĩ, Anh. Pháp đã phân chia lãnh thổ nước Đức thành bốn khu vực chiếm đóng và kiểm soát.

    + Trong sự đối đầu gay gắt giữa hai nước Liên Xô và Mĩ, các khu vực chiếm đóng của Mĩ, Anh, Pháp đã hợp nhất lại và thành lập Nhà nước Cộng hòa Liên bang Đức [9 - 1949].

    + Ở phía đông Đức, nhà nước Cộng hoà Dân chủ Đức được thành lập [10 -1949].

    Sự phân chia phạm vi chiếm đóng của các nước lớn ở Đức

    + Mĩ, Anh, Pháp đã tích cực giúp đỡ Cộng hoà Liên bang Đức khôi phục nền kinh tế và đưa Cộng hoà Liên bang Đức vào khối quân sự Bắc Đại Tây Dương. Nền kinh tế Cộng hoà Liên bang Đức được phục hồi và phát triển nhanh chóng. Từ những năm 60 và 70 của thế kỉ XX, sản xuất công nghiệp của Cộng hoà Liên bang Đức đã vươn lên đứng thứ ba trong thế giới tư bản chủ nghĩa, sau Mĩ và Nhật Bản.

    + Ngày 3- 10- 1990, Cộng hoà Dân chủ Đức đã sáp nhập vào Cộng hoà Liên bang Đức thành một nước Đức thống nhất. Ngày nay, nước Đức là một quốc gia có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh nhất Tây Âu.

    ND chính

    Tóm tắt về tình hình chung của các nước Tây Âu: nội dung kế hoạch Macsan; chính sách đối nội và đối ngoại; tình hình nước Đức sau chiến tranh.


    Sơ đồ tư duy các nước Tây Âu

    Loigiaihay.com

    • Sự liên kết khu vực

      Tóm tắt mục II. Sự liên kết khu vực. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhất là từ năm 1950 khi nền kinh tế các nước Tây Âu

    • Lý thuyết các nước Tây Âu

      Lý thuyết các nước Tây Âu

    • Những nét nổi bật nhất của tình hình các nước Tây Âu từ sau năm 1945 là gì?

      Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 42 SGK Lịch sử 9

    • Hãy xác định trên bản đồ châu Âu sáu nước đầu tiên của EU

      Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 43 SGK Lịch sử 9

    • Hãy cho biết những mốc thời gian thành lập các tổ chức liên kết kinh tế ở khu vực Tây Âu

      Giải bài tập Bài 1 trang 43 SGK Lịch sử 9

Chủ Đề