Việt Nam hòa bình Nam bao nhiêu

Kỷ niệm 47 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước [30/4/1975-30/4/2022]

Bức ảnh: "Mẹ con ngày gặp lại" của tác giả Lâm Hồng Long, chụp ngày 6/5/1975 tại Rạch Dừa, Vũng Tàu, ghi lại khoảnh khắc người mẹ gặp lại con trai sau ngày miền Nam giải phóng. Bức ảnh trở thành biểu tượng của ngày thống nhất đất nước.

Chỉ tính từ khi giành được độc lập từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam, một dân tộc yêu chuộng hòa bình nhưng vẫn buộc phải cầm súng bảo vệ nền độc lập, tự do, để giành lấy hòa bình.

Trong những năm tháng chiến tranh, nhân dân cả hai miền Nam, Bắc đã phải chịu bao đau thương, mất mát, chia lìa. Đến nay, những vết thương chiến tranh vẫn chưa lành hẳn…

Chính vì vậy, nhân dân ta hiểu rất rõ "cái giá của hòa bình"!

47 năm về trước, ngay buổi trưa hòa bình đầu tiên [30/4/1975], chúng ta đã thấy "Thành phố tên Người lộng lẫy cờ hoa". Ngay buổi tối hòa bình thứ 3 [tối 2/5/1975], người đứng đầu chế độ Sài Gòn khi đó cùng toàn bộ nội các của ông ta được hoàn toàn tự do.

Từ đó, hòa bình mở ra trên toàn bộ đất nước Việt Nam thống nhất, Bắc-Nam sum họp, non sông nối liền một dải. Người không ở lại đất nước sau đó vẫn là "một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam"; cùng người ở lại "lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh" làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước".

Từ đó, hòa bình đưa một đất nước từ đổ nát, chia cắt, kiệt quệ sau chiến tranh, nghèo nàn, lạc hậu, trì trệ trong phát triển kinh tế-xã hội, bắt tay vào vừa chế ngự thiên nhiên, vừa giữ đất biên cương, vừa chuyển sang con đường đổi mới, tiến tới phát triển và hội nhập quốc tế.

Từ đó, hòa bình mở ra quá trình chuyển biến từ cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, đến tự chủ lương thực và xuất khẩu lúa gạo, để Việt Nam trở thành nước xuất khẩu lúa gạo lớn nhất, nhì thế giới, kinh tế ổn định và phát triển, các ngành: Dầu khí, may mặc, giày da, thủy sản, nông sản... có sự bứt phá.

Từ đó, hòa bình đưa một quốc gia bị bao vây bị cấm vận từng bước thực hiện khép lại quá khứ, hướng tới tương lai; bình thường hóa quan hệ với tất cả các nước, trong đó có cả những nước từng đưa quân tham chiến, rồi gia nhập WTO, tham gia ngày càng sâu rộng vào các "sân chơi", các diễn đàn khu vực và quốc tế, trở thành thành viên tích cực của ASEAN và Liên Hợp Quốc.

Thời hiện đại, hiếm có sự kiện hậu chiến hòa bình, hòa hợp dân tộc nào như ở Việt Nam sau năm 1975. Hòa bình là vô giá bởi giá trị của nó không phải chỉ là khó lượng hóa mà còn là điển hình của cả dân tộc Việt Nam anh hùng trong chiến tranh, nay chuyển sang thời kỳ xây dựng phát triển để đất nước "có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế".

Hòa bình là một trạng thái lý tưởng của hạnh phúc, tự do, yên bình giữa các quốc gia và tất cả mọi người trên thế giới. Khát vọng hòa bình là khát vọng chung của mỗi con người và của tất cả các quốc gia, dân tộc; bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết trong "Nhật ký hành trình" [1946]: "Tuy phong tục mỗi dân mỗi khác, nhưng có một điều thì dân nào cũng giống nhau. Ấy là dân nào cũng ưa sự lành và ghét sự dữ". Và Người cũng căn dặn: "Qua cuộc đấu tranh vô cùng gian khổ nhưng rất anh dũng mới có độc lập, hòa bình, nên phải xây dựng và bảo vệ cho tốt".

Hòa bình ở Việt Nam sau bao năm chiến tranh là vô giá, bởi nền hòa bình ấy gắn liền với độc lập, tự do, thống nhất và ngày nay đang đưa đất nước đi tới hạnh phúc, thịnh vượng.

Hà Minh Hồng


Ngày 2/10/2018, 32 bác sĩ đầu tiên trong tổng số 63 cán bộ, bác sĩ Bệnh viện Dã chiến cấp 2 số 1 của Việt Nam đã được đưa tới thủ đô Juba [Nam Sudan] cùng nhiều thiết bị và nhu yếu phẩm y tế, bắt đầu thực hiện nhiệm vụ tại Phái bộ Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc ở quốc gia Đông Phi này. [Ảnh: TTXVN]

[Stxdd.thanhuytphcm.vn] - Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết những câu thơ sau trong bài Việt Nam quê hương ta: “Đất nghèo nuôi những anh hùng/ Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên/ Đạp quân thù xuống đất đen/ Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”. Đó có thể xem là một khái quát đầy đủ về tinh thần yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.

Truyền thống yêu chuộng hòa bình của dân tộc ta

Ngày 18/4/1955, Hội nghị Á - Phi được khai mạc tại Bandung [Indonesia], có sự tham dự của đại biểu đến từ 29 quốc gia, đại diện cho 1,44 tỷ dân châu Á và châu Phi [trong đó có đoàn đại biểu Việt Nam]. Trong bài viết chúc mừng Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhân dân nước nào cũng yêu chuộng hòa bình, cũng chán ghét chiến tranh, cũng muốn sống tự do độc lập”. 26 năm sau lời tuyên bố này, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã quyết định lấy ngày 21/9 hằng năm là “Ngày Quốc tế Hòa bình” hay còn gọi là “Ngày Hòa bình Thế giới” nhằm tôn vinh nền hòa bình thế giới, kêu gọi chấm dứt chiến tranh, bạo lực và là dịp để tổ chức các lệnh ngừng bắn tạm thời trong vùng chiến sự để các lực lượng cứu trợ nhân đạo thi hành sứ mệnh của mình...

Trong lịch sử hàng ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã phải tiến hành nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Vì vậy mà cầm súng đối với dân tộc Việt Nam chỉ là cuộc “vạn bất đắc dĩ”. Có lẽ vì chịu quá nhiều những khổ đau, mất mát do chiến tranh, nên dân tộc Việt Nam luôn yêu chuộng hòa bình, phản đối chiến tranh, bạo lực.

Nhìn lại lịch sử, mỗi khi chiến thắng quân xâm lược, cha ông ta bao giờ cũng thể hiện tinh thần hòa hiếu. Đánh thắng quân xâm lược, chúng ta cấp ngựa xe, thuyền bè, lương thảo cho họ về nước. Những kẻ xâm lược bỏ xác trên đất nước ta, triều đình đều ra lệnh thu nhặt xương cốt chôn cất, kể cả lập đàn tế lễ. Sau khi đánh tan quân Minh, vì căm tức trước những tội ác dã man của chúng, nhiều người khuyên Bình Định vương Lê Lợi giết hết số quân Minh đã đầu hàng, vương dụ rằng: “Việc phục thù trả oán là thường tình của mọi người, nhưng không ưa giết người là bản tính của người nhân. Huống chi người ta đã hàng, mà mình lại giết chết thì còn gì bất tường hơn nữa. Ví bằng giết đi cho hả giận một lúc để gánh lấy tiếng xấu giết kẻ hàng mãi tới muôn đời, chi bằng hãy cho sống ức vạn mạng người để dứt mối chiến tranh đến muôn thuở”.

Và, biểu tượng yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam vẫn còn đó mãi mãi với thời gian và không gian là hồ Hoàn Kiếm với câu chuyện trả gươm, cũng có nghĩa là chấm dứt binh đao.

Nhất quán đường lối đối ngoại hòa bình

Kế thừa truyền thống yêu chuộng hòa bình của ông cha, kể từ khi ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên của mình, Đảng ta luôn chủ trương đường lối làm bạn với các quốc gia khác vì hòa bình, độc lập và phát triển.

Trước năm 1945, sau khi cấu kết với phát xít Nhật bóc lột và đàn áp dân ta, thực dân Pháp nhẫn tâm giết hại số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng. Thế nhưng, trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tuy vậy, đối với nước Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày mồng 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”...

Ngày 22/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Ngoại trưởng Hoa Kỳ đề nghị công nhận nền độc lập của Việt Nam. Ngày 28/2/1946, Người đã gửi điện tới Tổng thống Mỹ Harry Truman đề nghị giúp bảo vệ nền độc lập của Việt Nam trước sự xâm lược của Pháp. Để cứu vãn hòa bình, tránh việc phải cầm vũ khí, Hồ Chí Minh đã liên tục ký với những đại diện của Chính phủ Pháp các Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, Tạm ước Việt - Pháp ngày 14/9…

Đúng một tuần trước khi qua đời, ngày 25/8/1969, trong thư trả lời Tổng thống Mỹ Richard Nixon, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất yêu chuộng hòa bình, một nền hòa bình chân chính trong độc lập và tự do thật sự. Nhân dân Việt Nam quyết chiến đấu đến cùng, không sợ hy sinh gian khổ, để bảo vệ Tổ quốc và các quyền dân tộc thiêng liêng của mình”…

Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên trì với nguyên tắc vì hòa bình. Chính sách nhất quán của Việt Nam là không liên minh quân sự với nước này để chống lại nước khác. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng một lần nữa khẳng định: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến. […] Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”.

Mít tinh kỷ niệm 20 năm thành phố Hà Nội được UNESCO trao tặng danh hiệu “Thành phố vì hòa bình”, ngày 13/7/2019. [Ảnh: Hanoicreativecity.com]

Kiên quyết bảo vệ chủ quyền Tổ quốc

Hiện nay, để chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam, các thế lực thù địch đã xuyên tạc lịch sử, trong đó có việc cho rằng vì Đảng ta hiếu chiến nên là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh ở Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 [!?].

Thực tế lịch sử cho thấy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nỗ lực hết mình để ngăn chặn chiến tranh nhưng thực dân Pháp đã không từ bỏ dã tâm quay trở lại chiếm Việt Nam một lần nữa. Trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Trước khi trận Điện Biên Phủ bắt đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tỏ thiện chí hòa bình với người Pháp bằng tuyên bố tháng 11/1953: “Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó... Cơ sở của đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”.

Sau năm 1954, theo Hiệp định Genève, nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm 2 miền và sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước vào năm 1956. Mặc dù Hiệp định đã quy định rõ không được đưa vào Việt Nam các thứ vũ khí nước ngoài, không được xây dựng cǎn cứ quân sự mới trên lãnh thổ Việt Nam, thế nhưng sau đó, Mỹ đã can thiệp vào Việt Nam với âm mưu thay thế thực dân Pháp và chia cắt đất nước ta. Tháng 7/1956, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi yêu cầu đàm phán để thống nhất đất nước nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm đã khước từ…

Châm ngôn có câu: “Nếu bạn muốn hòa bình, hãy chuẩn bị cho chiến tranh”. Là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, hẳn nhiên nhân dân Việt Nam lên án bạo lực, phản đối và chán ghét chiến tranh, thế nhưng lịch sử đã nhiều phen đặt đất nước và dân tộc ta trước những thử thách mất còn. Giả sử cha ông chúng ta vì yêu hòa bình mà ngồi im để kẻ thù muốn làm gì thì làm thì liệu chúng ta có còn một đất nước hôm nay? Vì vậy, yêu chuộng hòa bình song nhân dân Việt Nam cương quyết bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc nếu bị đe dọa. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Năm 2019, thủ đô Hà Nội của Việt Nam đã được chọn làm nơi tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Triều Tiên - Hoa Kỳ. Trong phát biểu của mình, Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Robert Palladino đã nói: “Cảm ơn Chính phủ Việt Nam khi đăng cai cuộc gặp thượng đỉnh lần 2 này. Lịch sử hai nước chúng ta phản ánh các khả năng cho hòa bình và thịnh vượng. Chúng tôi đã vượt qua xung đột và bất đồng để đi đến quan hệ phát triển mạnh như hiện nay”. Không phải ngẫu nhiên mà ngày 16/7/1999, thủ đô Hà Nội của Việt Nam là thành phố đầu tiên của khu vực châu Á vinh dự được UNESCO trao tặng danh hiệu “Thành phố vì hòa bình”. Đây là sự ghi nhận và đánh giá của cộng đồng quốc tế về khát vọng hòa bình của nhân dân ta.

Vũ Trung Kiên

Tin liên quan

Video liên quan

Chủ Đề