Tiếng thanh ngang là gì

Trong ngôn ngữ nói chung, sự lên xuống giọng nói luôn truyền tải ý nghĩa nhất định. Chẳng hạn, ta thường lên giọng khi hỏi và hạ giọng khi ra lệnh hay có một âm điệu đặc biệt khi cảm thán. Sự biến đổi giọng khi ấy tác động lên toàn bộ câu nói và hiện tượng này gọi là ngữ điệu [intonation]. Ngữ điệu là khái niệm phổ biến ở mọi ngôn ngữ.

 Trong tiếng Việt cũng như các ngôn ngữ có thanh điệu khác, ngoài ngữ điệu nói ở trên, ta còn thấy sự biến đổi giọng nói trong phạm vi một tiếng hay một từ đơn, với tác dụng phân biệt các tiếng với nhau. Hiện tượng này chính là thanh điệu [tone]. Ví dụ  trong loạt các từ thuần Việt me, mè, mé, mẻ, mẽ, mẹ mỗi từ có ý nghĩa khác nhau do có thanh điệu khác nhau.

  Liên quan đến thanh điệu, các ngôn ngữ trên thế giới chia ra làm hai loại không có thanh điệu và có thanh điệu. Các ngôn ngữ lớn của phương Tây như tiếng Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Đức, Ý hay ở châu Á như Ấn Độ, Khmer, Malay, Indonesia không có thanh điệu. Một số ngôn ngữ ở châu Phi, Bắc Mỹ và các thứ tiếng châu Á như tiếng Myanmar, tiếng Tây Tạng, tiếng Trung Quốc có thanh điệu. Riêng khu vực Đông Nam Á là nơi có thanh điệu phức tạp như thấy ở tiếng Thái, tiếng Lào và nhất là tiếng Việt Nam [Wikipedia].

  Bộ máy phát âm của con người có khả năng rất kỳ diệu để tạo ra nhiều âm thanh khác nhau, nhờ áp dụng các biện pháp ngữ âm phong phú. Ví dụ tiếng Anh có trọng âm từ [word stress], tiếng Pháp có hệ thống âm mũi, tiếng Nhật có sự đối lập nguyên âm dài-ngắn [ka-kaa, mu-muu] hay âm tắc họng ở giữa [kissaten, mittsu], tiếng Khmer có số lượng nguyên âm rất lớn v.v. Trong mối tương quan đó, thanh điệu là sức mạnh, là đặc trưng quan trọng của tiếng Việt. Nắm được đặc trưng ngữ âm sẽ giúp cho chúng ta học nhanh, nói giỏi ngôn ngữ.

  Tiếng Việt văn hóa với cơ sở là tiếng Hà Nội có sáu thanh điệu là ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng. Về mặt chính tả, trừ thanh ngang không dấu, chúng ta sử dụng dấu thanh[diacritics hay tone marks] cho năm thanh điệu sau. Dấu thanh là một sáng tạo của những nhà truyền giáo phương Tây hồi thế kỷ 17. Họ lấy các yếu tố có trong tiếng Hy Lạp cổ như grave [dấu huyền], acute [dấu sắc], hook above [dấu hỏi], tilda [dấu ngã] và dot under [dấu nặng] để biểu thị dấu thanh, bên cạnh những sáng tạo như circumflex để biểu thị “dấu mũ” trên các nguyên âm â/ê/ô hay breve để biểu thị “dấu trăng” trên nguyên âm ă.

  Các nhà khoa học như Nguyễn Văn Lợi and Jerold A. Edmondson [1997] hay Dũng Vũ [2006] đã tiến hành dùng thiết bị ghi nhận sóng âm thanh để mô tả các thanh điệu của tiếng Việt. Hình dưới đây là các đường nét thanh điệu của một người Hà Nội theo ghi nhận của Nguyễn Văn Lợi và Edmondson. Trục tung là mức tần số cơ bản [fundamental frequency] tính bằng semitones và trục hoàng là thời gian tính bằng milli giây.

Từ ghi nhận thanh điệu bằng thiết bị khoa học và tiến hành phân tích, các nhà ngôn ngữ học đã có thể chỉ ra ba thuộc tính chủ yếu của thanh điệu:

– Sự biến điệu hay đường nét [contour]

– Âm vực [pitch]

– Kiểu phát âm [phonation].

Về mặt đường nét, thanh điệu tiếng Việt có thể chia ra làm hai loại lớn là thanh điệu đi ngang, bằng phẳng và thanh điệu không bằng phẳng. Điều này trùng khớp với khái niệm THANH BẰNG và THANH TRẮC phổ biến trong giới thơ văn Việt Nam.

 Cụ thể, thuộc về nhóm THANH BẰNG có Thanh ngang và Thanh huyền, là những thanh mà khi phát âm âm thanh đi ngang thoai thoải. Trong nhóm thanh bằng này thì Thanh ngang có âm vực hay tần số âm thanh cao hơn Thanh huyền. Cả hai đều phát âm thoải mái không căng thẳng.

THANH TRẮC bao gồm 4 thanh còn lại là Sắc, Hỏi, Ngã, Nặng, có đường nét và kiểu phát âm phức tạp.

Về cao độ hay âm vực, hai thanh Sắc và Ngã thuộc âm vực cao, Hỏi và Nặng thuộc âm vực thấp. Về đường nét, Ngã và Sắc đều hướng lên, Hỏi thì xuống rồi lên, còn Nặng thì theo chiều hướng xuống. Về cách phát âm, cả bốn đều phát âm căng, tuy nhiên Hỏi không có động tác nghẽn thanh hầu, còn Ngã, Sắc và Nặng đều có động tác nghẽn thanh hầu.

 Như vậy Sắc và Ngã khá giống nhau, chỉ còn khác duy nhất là Sắc có điểm khởi đầu thấp và liên tục đi lên, còn Ngã có điểm khởi đầu cao hơn chút, cũng hướng lên, nhưng bị đứt quãng ở giữa chừng do tác động của ngẽn hầu họng [glottal stop]. Điều này khiến cho Ngã là thanh điệu khó phát âm nhất trong tiếng Việt và chỉ được người miền Bắc phát âm tốt.

Hình sau đây tóm tắt cho phân loại thanh điệu trong tiếng Việt.

 Trong nhóm THANH TRẮC, quan hệ giữa âm vực cao và âm vực thấp khá đa dạng và phức tạp. Đầu tiên, các từ tiếng Việt có vần khép, tức kết thúc bằng một trong các phụ âm p, t, c, ch thì chỉ có thể mang thanh điệu SẮC hay NẶNG. Ví dụ: đáp, đạp, biết, biệt, các, cạc, cách, cạch.

[Trích nguồn từ Facebook Andy Tran]

Tiếng Việt có lẽ là môn học được nhiều người nước ngoài đánh giá là khó tiếp thu nhất, bởi vì hệ thống môn tiếng việt của ta rất đa dạng, không chỉ nằm ở các từ ngữ, ngữ pháp mà ngay cả việc sử dụng dấu cũng như vậy. Trong bài viết ngày hôm nay, hãy cùng chúng tôi phân tích sâu hơn và phân biệt thanh bằng, thanh trắc là như thế nào nhé.

Thanh bằng
Thanh bằng là thanh điệu bằng phẳng, không có sự cao giọng hay thấp giọng khi đọc. Và là những thanh điệu mà khi thể hiện, đường nét âm điệu diễn biến bằng phẳng, đồng đều từ đầu đến cuối, không có sự lên xuống bất thường nào.

Thanh bằng gồm những tiếng hay chữ không có dấu [ gọi là thanh ngang] và những tiếng hay chữ có dấu huyền. - Thanh ngang: thanh ngang hay còn gọi là thanh không dấu hoặc gọi là thanh không được thể hiện dấu trên chữ. Thanh này xuất hiện trong tất cả các âm tiết, trừ âm tiết khép. Ví dụ: cam, xuân, đông, công ty, mưa xuân,…. Nhưng thanh bằng không được thể hiện trên các âm tiết như: lach, bach, bat,lac, nhac, hat, het, bêt,…. - Dấu huyền: dấu huyền là một dấu thanh nằm trên các nguyên âm trong tiếng Việt. khi thể hiện trên các nguyên âm thì phát ra âm với giọng đi xuống. Dấu huyền được viết bằng một gạch ngang chéo từ trái sang phải. Dấu huyền thấp hơn thanh ngang một bậc, dấu này có thể xuất hiện trong các âm tiết không phải là âm tiết khép và đọc với giọng nặng hơn thanh ngang. Ví dụ về dấu huyền: cà, sàn, đầm, bằng, bà, bàn, ….

Thanh trắc
Thanh trắc là thanh điệu không bằng phẳng. Thanh này có âm diệu diễn biến phức tạp trong thanh điệu. thanh này khi lên khi xuống, thể hiện ra bằng một đường nét không bằng phẳng và không đồng đều.

Thanh trắc được thể hiện bằng các tiếng hay chữ có các dấu gồm: dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã, gấu nặng. - Dấu hỏi: dấu này có thanh điệu thuộc âm vực thấp. Khi phát âm, dấu hỏi có điểm bắt đầu và kết thúc thanh điệu đều ở âm vực thấp. Dấu hỏi thường xuất hiện trong tất cả các âm tiết không phải là âm tiết khép. Ví dụ: vả lại, hỏi han, cảm cúm, cảng biển, cảnh đẹp, hổn hểnh, cảm ơn, thể hiện,…. - Dấu ngã: dấu ngã là dấu có thanh điệu thuộc âm vực cao. Dấu này bắt đầu thấp hơn và kết thúc cao hơn, có thêm động tác nghẽn thanh hầu khi phát âm. Dấu này có thể xuất hiện trong các âm tiết không phải là âm tiết khép và đọc với giọng nặng hơn thanh ngang. Ví dụ: ngã, vẽ, xã, mãn nhãn, sững sờ,…. Dấu ngã không được thể hiện trên các âm tiết như: lach, bach, bat,lac, nhac, hat, het, bêt,…. - Dấu sắc: dấu sắc là dấu có thanh điệu thuộc âm vực cao. Khi phát âm, dấu này có điểm xuất phát thấp hơn thanh ngang một chút và điểm kết thúc ở âm vực cao. Đồng thời khi kết thúc còn phải có thêm động tác nghẽn thanh hầu khi đọc. Dấu sắc có thể xuất hiện trong tất cả các kiểu âm tiết. Ví dụ: khá lớn, bí quyết, chính thức, sáng sớm,…. - Dấu nặng: dấu nặng là dấu có thanh điệu thuộc âm vực thấp. Khi phát âm, dấu này có điểm xuất phát gần với độ cao xuất phát của thanh huyền nhưng kết thúc đột ngột ở độ cao thấp hơn. Dấu nặng xuất hiện ở tất cả các kiểu âm tiết. Ví dụ: lạ đời, chợ xuân, lợi ích, lạm dụng, trục trặc, bẹp ruột Trên đây là bài viết Thanh bằng, thanh chắc gồm những dấu nào, hi vọng các bạn đã bổ sung thêm kiến thức môn tiếng Việt vững chắc hơn. Chúng tôi sẽ gửi đến nhiều bài viết bổ ích khác trong lần sau. Hẹn gặp lại các bạn!

Xem thêm: Những chất kết tủa trắng thường gặp trong hóa học

  • Chủ đề thanh bang thanh trac tiếng việt
  • Video liên quan

    Chủ Đề