Theo em vì sao nhân dân ta hưởng ứng mạnh mẽ chiếu Cần vương

Bài 3 trang 92 SBT sử 8

Quảng cáo

Đề bài

Phong trào Cần Vương nổ ra và phát triển như thế nào? Vì sao "Chiếu Cần Vương" được đông đảo các tầng lớp nhân dân hưởng ứng?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Xem lại mục 4. Phong trào Cần Vương, mục 5. Cuộc phản công quân Pháp của phái chủ chiến ở Huế tháng 7 – 1885

Lời giải chi tiết

* Phong trào Cần Vương:

- Ngày 13-7-1885, nhân danh vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết ra chiếu cần vương, kêu gọi văn thân, sĩ phu và nhân dân đứng lên giúp vua cứu nước. Từ đó một phong trào yêu nước chống Pháp đã diễn ra sôi nổi trong cả nước - phong trào Cần Vương.

- Phong trào phát triển qua 2 giai đoạn:

+ Giai đoạn 1 [1885 - 1888]: phong trào bùng nổ khắp cả nước, nhất là ở Trung Kì, Bắc Kì.

+ Giai đoạn 2 [1888 - 1896]: phong trào quy tụ trong những cuộc khởi nghĩa lớn tập trung ở các tỉnh Bắc Trung Kì và Bắc Kì.

* Chiếu Cần Vương được đông đảo các tầng lớp nhân dân hưởng ứng vì:

- Đây là lời kêu gọi tâm huyết của một vị vua trẻ có tinh thần yêu nước và khẳng khái, mong muốn giành độc lập dân tộc.

- Chiếu Cần Vương phù hợp với tâm tư, nguyện vọng và truyền thống yêu nước của quảng đại quần chúng nhân dân Việt Nam.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

  • Bài 4 trang 92 SBT sử 8

    Giải bài tập 4 trang 92 sách bài tập Lịch sử 8: Tại sao nói khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất

  • Bài 2 trang 91 SBT sử 8

    Giải bài tập 2 trang 91 sách bài tập Lịch sử 8. Hãy điền chữ Đ [đúng] hoặc chữ S [sai] vào ô ☐ trước các câu sau

  • Bài 1 trang 90 SBT sử 8

    Giải bài tập 1 trang 90 sách bài tập Lịch sử 8. Hãy khoanh tròn chữ in hoa trước ý trả lời đúng

Quảng cáo

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Lịch sử lớp 8 - Xem ngay

Báo lỗi - Góp ý

a. Lãnh đạo: Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn Thiện Tuyển, Nguyễn Thiện Thường, Đốc Tít, Tạ Hiện, Nguyễn Thiện Dương...

Là một trong các cuộc khởi nghĩa củaphong trào Cần Vươngcuối thế kỷ 19của nhân dânViệt Namchống lại ách đô hộ củathực dânPháp, diễn ra vào năm 1883-1892 tại Bãi Sậy thuộc huyệnVăn Giang,Khoái ChâuMỹ Hàothuộc tỉnhHưng Yên[1]dưới sự lãnh đạo củaNguyễn Thiện Thuật.

b. Trước chiếu Cần vương

Sau khi đánh chiếm Nam Kỳ, người Pháp tiến quân ra bắc và tiếp tục đánh chiếm đượcBắc KỳcủaViệt Nam.Nhà Nguyễnhạ lệnh các cánh quân chống Pháp hạ vũ khí, Nguyễn Thiện Thuật kháng lệnh triều đình, quyết tâm đánh Pháp. Ông về Đông Triềumộ quân, hợp lực với tướngquân Cờ ĐenLưu Vĩnh Phúcchống Pháp. Ông liên lạc vớiĐinh Gia Quếphát triển lực lượng ở vùng đồng bằng, tập hợp được nhiều tướng như Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn Thiện Dương [Lãnh Giang], Đốc Tít, Đốc Cọp, Đốc Sung, Đề Ban, Đội Văn, Đề Tính, bà Đốc Huệ và các nhà nho Ngô Quang Huy, Nguyễn Hữu Đức tham gia.

Cuối năm 1883, sau khi kýHiệp ước Harmand, nhà Nguyễn ra lệnh bãi binh đợi chỉ dụ. Nguyễn Thiện Thuật không nghe theo, mang quân lênTuyên Quangcùng vớiNguyễn Quang Bíchgiữ thành. Sau khi cácthành Hưng HóaLạng Sơnthất thủ, Nguyễn Thiện Thuật chạy sang Long Châu [Trung Quốc] chuẩn bị lực lượng tiếp tục chiến đấu.

c. Hưởng ứng chiếu Cần vương

Sau cuộctấn công ở kinh thành Huếthất bại,Tôn Thất Thuyếtmang vua Hàm Nghi chạy ra ngoài. Tháng 7 năm 1885, vuaHàm Nghihạ chiếu Cần Vương. Nguyễn Thiện Thuật trở về nước, thành lập căn cứ địa Bãi Sậy do Đồng Quế trao lại. VuaHàm Nghiphong cho ông làm Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần, gia trấn Trung tướng quân, nên nhân dân còn gọi ông là quan Hiệp thống. Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thiện Thuật, khởi nghĩa Bãi Sậy lan ra khắp tỉnhHưng Yênvà một số tỉnh lân cận.

Tháng 9 năm 1885 nghĩa quân vượtsông Hồngsang đánh phá các huyệnThanh Trì,Thường Tín,Phú Xuyên,Ứng Hòa[2]. Đêm 28 rạng ngày 29 tháng 9, quân Bãi Sậy tấn côngthành Hải Dương, quân Pháp phải điều hai pháo hạm tuần tiễu trênsông Thái Bìnhđể bảo vệ.

Tháng 10 năm 1885 Thống tướngRoussel de Courcygiao cho thiếu tướngFrançois de Négrier, trung tá Donnier cùngHoàng Cao Khảimở cuộc càn quét lớn vào căn cứ Bãi Sậy. Được tin, Nguyễn Thiện Thuật lệnh cho các tướng bí mật tấn công vào các đồn địch, chặn đường địch hành quân. Sau đó, ông nhử địch vào sâu căn cứ nơi đặt trận địa mai phục. Khi quân Pháp biết bị mắc lừa định rút lui thì quân Bãi Sậy nổ súng và dùngđoản đao,mã tấuđánh giáp lá cà. Nhiều quân Pháp bị giết, tướng Négrier chạy thoát.

Thống tướng De Coursy bị bãi chức,Charles-Auguste-Louis Warnetsang thay. Warnet thực hiện càn quét quy mô lớn bằng chiến lược phân tán quân đội, lập các đồn nhỏ để dễ tuần tiễu, đồng thời chuyển chế độ cai trị bằng quân sự sang dân sự, nhưng cũng không thành công.

Ngày 9 tháng 2 năm 1888, em Nguyễn Thiện Thuật là Nguyễn Thiện Dương bị tử trận trong cuộc đụng độ với quân Pháp do viên đội Fillipe chỉ huy. Được tin em chết, ngay đêm đó Nguyễn Thiện Thuật lệnh cho Tuần Vân, Đề Tính tấn công đồn Ghênh và đồn Bần Yên Nhân để trả thù, giết chết 21 quân địch.

Ngày 11 tháng 11 năm 1888, Hoàng Cao Khải cùng giám binh Ney chỉ huy đồn Mỹ Hào đưa lính về gặt lúa ở Liêu Trung tổng Liêu Xá, muốn buộc dân hết lương phải ra đầu thú, xa rời quân Bãi Sậy. Nguyễn Thiện Thuật được tin, lệnh cho các tướngNguyễn Thiện Kế,Nguyễn Văn Sung,Vũ Văn Đồngđem 800 quân trong đó có 400 tay súng giả dạng phu gặt để phục kích. Quân Bãi Sậy nổ súng giết chết 31 quân địch, trong đó có giám binh Ney, Bang tá Nguyễn Hữu Hào. Hoàng Cao Khải trốn thoát về Mỹ Hào rồi nhờ giáo dân Kẻ Sặt đưa đường chạy về Hải Dương.

Tháng 6 năm 1889,Thống sứ Bắc Kỳra lệnh thành lập đạo quân Tuần cảnh doHoàng Cao Khảivới chứcKhâm sai Bắc Kỳlàm Tư lệnh trưởng, Muselier làm Cảnh sát sứ. Quân Bãi Sậy giao chiến quân Tuần cảnh suốt 8 tháng, gây cho địch khá nhiều thiệt hại. Trận Đông Nhu, quân Bãi Sậy giết viên quản khố xanh Leglée; ngày 24 tháng 7 giết chết viên quản khố xanh Escot ở làng Hoàng Vân. Ngày 18 tháng 10 Nguyễn Thiện Thuật bắn viên quản Montillon bị trọng thương. Ngày 11/4/1891 quân củaHai KếĐề Vinhbị vây ởMậu Duyệt, hai bên bắn nhau, viên quản Desmot bị giết, giám binh Lambeet bị thương.

Nhiều lần không thắng được, người Pháp phải tặng Nguyễn Thiện Thuật danh hiệu Vua Bãi Sậy.

d. Thoái trào

Từ sau khi vua Hàm Nghi bị bắt [1888] và lưu đày ở châu Phi, phong trào Cần vương bắt đầu suy yếu. Sức mạnh của quân Bãi Sậy cũng suy yếu dần. Quân Pháp thiết lập được nhiều đồn quanh căn cứ Bãi Sậy, các tướng Lãnh Điều, Lãnh Lộ, Lãnh Ngữ, Đề Tính cùng một số tướng lĩnh khác tử trận, số còn lại bị truy kích. Hoàng Cao Khải nhân danh vuaĐồng Khánhchiêu dụ Nguyễn Thiện Thuật ra hàng và hứa khôi phục chức tước. Ông đã viết vào tờ sớ dụ này 4 chữ “Bất khẳng thụ chỉ” [Không chịu nhận chỉ]. Sau đó, ông giao quyền cho em là Nguyễn Thiện Kế rồi sang Trung Quốc mưu tính cuộc vận động mới.

Cuộc chiến đấu của quân Bãi Sậy còn kéo dài đến năm 1892 mới chấm dứt. Những cuộc mưu tính của Nguyễn Thiện Thuật ở Trung Quốc không thành, ông không tiếp tục được việc chống Pháp tại Việt Nam. Sau đó ông lâm bệnh mất tại Trung Quốc năm 1926.

2. Khởi nghĩa Ba Đình

Lực lượng: nghĩa quân Ba Đình gồm khoảng 300 người, tuyển từ ba làng và các vùng Thanh Hóa, bao gồm cảngười Kinh, Thái, Mường. Nghĩa quân có 10 toán, mỗi toán có một hiệp quản chỉ huy. Về vũ khí, nghĩa quân tựtrang bị bằng súng hỏa mai, giáo mác, cung nỏ.

Căn cứ:

a. Mô tả :

Căn cứ này gọi là Ba Đình vì mỗi làng có một cái đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia.Để chuẩn bị chiến đấu lâu dài, Đinh Công Tráng đã cho bao bọc xung quanh căn cứ là lũy tre dày đặc và một hệ thống hào rộng, cắm đầy chông tre. Ở trong là một lớp thành đất cao 3m, chân rộng 8 đến 10m. Trên mặt thành, nghĩa quân đặt các rọ tre chứa đất nhào rơm xếp vữngchắc có những khe hở làm lỗ châu maisẵn sàng chiến đấu.Thành rộng 400 m, dài 1.200 m. Phía trong thành có hệ thống giao thông hào dùng để vận chuyển lương thực vàvận động khi chiến đấu. Ở những nơi xung yếu đều có công sự vững chắc. Các hầm chiến đấu được xây dựng theohình chữ “chi”, nhằm hạn chế thương vong.Ở mỗi làng, tại vị trí ngôi đình được xây dựng một đồn đóng quân. Ở Thượng Thọ có đồn Thượng, ở Mậu Thịnhcó đồn Trung và ở Mỹ Khê có đồn Hạ. Ba đồn này có thể hỗ trợ tác chiến cho nhau khi bị tấn công, đồng thời cũngcó thể chiến đấu độc lập. Có thể nói rằng căn cứ Ba Đình có vị trí tiêu biểu nhất, là một chiến tuyến phòng ngự quy mô nhất thời kỳ Cần Vương cuối thế kỷ 19.

Ngoài Ba Đình, còn có các căn cứ hỗ trợ: căn cứ Phi Lai củaTống DuyTânCao Điển, căn cứ Quảng Hóa củaTrần Xuân Soạn, căn cứ Mã Cao của Hà Văn Mao.Từ Ba Đình, nghĩa quân có thể tỏa đi các nơi, kiểm soát các tuyến giao thông quan trọng trong vùng, tổ chức phụckích các đoàn xe vận tải của đối phương đi lại trên con đường Bắc-Nam...Chính vì vậy, mà quân Pháp rất quyết tâm tiêu diệt cuộc khởi nghĩa.

Vào mùa mưa, căn cứ này trông như một hòn đảo nổi giữa cánh đồng nước mênh mông, tách biệt với các làng khác.

b. Điểm mạnh

Căn cứ xây dựng kiên cố, độc đáo, khó tiếp cận, có các vị trí thuận lợi cho việc kiểm soát các tuyến giao thông.-Sức sáng tạo to lớn của nghĩa quân trong lối đánh chiến tuyến [Chính Pháp phảithừa nhận: “Bên trong Ba Đình khiến chúng tôi hết sức ngạc nhiên và chứng tỏ thành đã được xây dựng với một kĩ thuật cao. Đường công sự có thể đánh xiên cạnh sườn bất cứ chỗ nào, và mỗi làng trong ba làng đều có công sựbố trí khéo để nếu hai làng bịchiếm thì làng kia vẫn là một pháo đài chiến đấu”]

b. Điểm yếu: dễ bịcô lập, dễ bịbao vây, không thể dùng chiến thuật, chỉ có thể ápdụng lối đánh chiến tuyến mà thôi

c.Nguyên nhân thất bại:

Mặc dù nghĩa quân đã chiến đấu dũng cảm, nhưng khởi nghĩa thất bại do còn thiếunhiều điều kiện: tổ chức chưa chu đáo, đường lối lãnh đạo chưa đúng đắn, tương quan lực lượng chênh lệch.

d.Bài học kinh nghiệm:

Cần biết lợi dụng địa hình địa vật, tránh thủ hiểm một nơi, thực hiện chiến tranh du kích, liên hệ với các cuộc khởi nghĩa khác, mở rộng thành một cuộc kháng chiến toàn dân.

3. Khởi nghĩa Hương Khê

Khởi nghĩa hưởng ứng chiếu Cần vương, có quy mô lớn, tổ chức chặt chẽ, do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo.

Đây là cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhất, độc đáo nhất và kéo dài nhất trong phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX. Cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo với sự trợ giúp của Cao Thắng, Ngô Quảng, Cao Đạt, Hà Văn Mỹ, Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch…

Địa bàn hoạt động của nghĩa quân bao gồm 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, trong đó địa bàn chính vẫn là Nghệ An - Hà Tĩnh.

Phan Đình Phùng đã chia địa bàn 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình thành 15 quân thứ, xây dựng những chiến tuyến cố định, mạnh kết hợp lối đánh du kích với lối đánh lớn chuyến tuyến cố định, cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã gây cho Pháp nhiều tổn thất lớn. Những chiến thắng của Phan Đình Phùng như: trận đánh úp thành Hà Tĩnh, bắt sống Tri phủ Đinh Nho Quang 1892, trận Vạn Sơn tháng 3-1893, trận tập kích Hà Tĩnh lần thứ hai năm 1894 và trận Vụ Quang tháng 10-1894 được coi là một thành tựu của nghệ thuật quân sự Việt Nam lúc đó.

Phó tướng Cao Thắng, là người có tài chế súng theo kiểu năm 1874 của Pháp [Quân khởi nghĩa tự chế được trên 500 súng hoả mai và súng trường] . Thực dân Pháp phải huy động một lực lượng quân đội lớn, với nhiều vũ khí hiện đại chúng tấn công thành Ba Đình. Cao Thắng hy sinh lúc mới 30 tuổi. Phan Đình Phùng tạ thế ở núi Quạt [Hà Tĩnh] ngày 28-12-1895. 23 bộ tướng của ông cũng bị giặc Pháp bắt và sử tử tại Huế.

Đầu năm 1896, những tiếng súng cuối cùng của phong trào Cần Vương cũng kết thúc.

IV. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI, Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP CUỐI THẾ KỶ XIX

1. Nguyên nhân thất bại

Tính chất địa phương: sự thất bại của phong trào Cần Vương có nguyên nhân từ sự kháng cự chỉ có tính chất địa phương. Các phong trào chưa quy tụ, tập hợp thành một khối thống nhất đủ mạnh để chống Pháp. Các lãnh tụ Cần Vương chỉ có uy tín tại nơi họ xuất thân, tinh thần địa phương mạnh mẽ làm họ chống lại mọi sự thống nhất phong trào trên quy mô lớn hơn. Khi các lãnh tụ bị bắt hay chết thì quân của họ hoặc giải tán hay đầu hàng.

Quan hệ với dân chúng: các đạo quân này không được lòng dân quê nhiều lắm bởi để có phương tiện sống và duy trì chiến đấu, họ phải đi cướp phá dân chúng.

Mâu thuẫn với tôn giáo: sự tàn sát vô cớ những người Công giáo của quân Cần Vương khiến giáo dân phải tự vệ bằng cách thông báo tin tức cho phía Pháp. Những thống kê của người Pháp cho biết có hơn 20.000 giáo dân đã bị quân Cần Vương giết hại.

Mâu thuẫn sắc tộc: Chính sách sa thải các quan chức Việt và cho các dân tộc thiểu số được quyền tự trị rộng rãi cũng làm cho các sắc dân này đứng về phía Pháp. Chính người Thượng đã bắt Hàm Nghi, các bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đều đã cắt đường liên lạc của quân Cần Vương với Trung Hoa làm cạn nguồn khí giới của họ. Quen thuộc rừng núi, họ cũng giúp quân Pháp chiến tranh phản du kích đầy hiệu quả.

Theo Đào Duy Anh, ngoài việc thiếu liên kết và thống nhất về tổ chức [tương tự như "tính chất địa phương" mà Nguyễn Thế Anh phản ánh], phong trào Cần Vương còn có những nguyên nhân thất bại khác:

Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển làm nền tảng, vì vậy vũ khí thô sơ không thể chống lại vũ khí hiện đại của Pháp.

Lực lượng và chiến thuật: các cuộc khởi nghĩa không đủ mạnh, chỉ có thể tấn công vào những chỗ yếu, sơ hở của địch; không đủ khả năng thực hiện chiến tranh trực diện với lực lượng chính quy của địch

Tinh thần chiến đấu: Ngoại trừ một số thủ lĩnh có tinh thần chiến đấu đến cùng và chết vì nước, không ít thủ lĩnh quân khởi nghĩa nhanh chóng buông vũ khí đầu hàng khi tương quan lực lượng bắt đầu bất lợi cho quân khởi nghĩa, khiến phong trào nhanh chóng suy yếu và tan rã.

2. Đánh giá phong trào Cần vương [đặc điểm].

- Tính chất: Căn cứ vào thành phần lãnh đạo, lực lượng tham gia, mục tiêu và hỡnh thức đấu tranh:

+ Lãnh đạo chủ yếu là văn thân sĩ phu yêu nước, ngoài ra có một số là thổ hào, nông dân;

+ Lực lượng tham gia gồm đông đảo nông dân;

+ Mục tiêu : chống thực dân Pháp xâm lược, chống giai cấp phong kiến đầu hàng, lập lại chế độ phong kiến độc lập;

+ Hình thức là khởi nghĩa vũ trang.

=> Đây là phong trào yêu nước trên lập trường phong kiến.

3. Ý nghĩa lịch sử

Tiếp nối truyền thống yêu nước của dân tộc. Chứng tỏ sự phá sản của con đường cứu nước theo ngọn cờ phong kiến. Tạo tiền đề cho phong trào kháng Pháp ở giai đoạn sau.

B. MỘT SỐ CÂU HỎI LUYỆN TẬP

Câu 1: Hoàn cảnh dẫn đến sự bùng nổ của phong trào Cần Vương? Theo em, chiếu Cần Vương đã ảnh hưởng như thế nào đến bộ phận văn thân, sỹ phu yêu nước và nhân dân ta?

Trả lời:

a.Hoàn cảnh dẫn đến sự bùng nổ của phong trào Cần Vương:

- Sau Hiệp ước Pa tơ nốt[ 1884], nhân dân đấu tranh rất mạnh mẽ chống cả pháp lẫn triều đình phong kiến đầu hàng. Thực dân Pháp tăng cường lực lượng, siết chặt bộ máy kìm kẹp để ổn định tình hình, triệt hạ các trung tâm kháng Pháp của nhân dân ta.

- Phái chủ chiến trong triều đứng đầu là Tôn Thất Thuyết ra sức chuẩn bị lực lượng kháng chiến: phế bỏ những ông vua có khuynh hướng thân Pháp, đưa Ưng Lịch lên làm vua hiệu là Hàm nghi; chuẩn bị lực lượng [bí mật liên kết với sĩ phu, văn thân, hào kiệt các nơi, chuyển vũ khí, lương thực, vàng bạc lên các sơn phòng dọc Trường Sơn.

- Thực dân Pháp rất lo lắng, chúng khiêu khích và tìm cách trừ khử phe chủ chiến.Tình thế cấp bách buộc Tôn Thất Thuyết phải hành động bằng cách tổ chức cuộc phản công kinh thành Huế [đêm mùng 4 rạng ngày 5/7/1885], cuộc phản công thất bại, Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi lên Tân Sở [Quảng Trị].

- Ngày 13 tháng 7 1885, Tôn Thất Thuyết thay mặt vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương kêu gọi văn thân, sỹ phu và nhân dân cả nước đứng lên giúp vua cứu nước…

b.Chiếu Cần Vương đã ảnh hưởng đến giới văn thân và sỹ phu yêu nước là:

- Đây là bộ phận trí thức phong kiến, nặng tư tưởng “trung quân ái quốc”, trước khi có chiếu Cần Vương, họ bị giằng xé trong mối mẫu thuẫn giữa “trung quân” và “ ái quốc”…

Khi chiếu cần Vương ra đời, mâu thuẫn trong lòng họ được giải tỏa, lúc này yêu nước đồng nghĩa với giúp vua cứu nước nên họ rất hăng hái tham gia phong trào…

-Với nhân dân:

Nhân dân không bị ràng buộc nhiều với tư tưởng quan điểm phong kiến nhưng lòng yêu nước rất nồng nàn, họ sẵn sàng đứng lên đấu tranh chống Pháp ngay cả khi triều đình không tổ chức, kêu gọi. Thậm chí, họ còn “ chống cả Triều lẫn Tây” khi triều đình đầu hàng, nhưng khi có chiếu Cần Vương, họ có điều kiện được tập hợp đông đảo hơn, nên tham gia nhiệt tình hơn, sáng tạo hơn, sôi nổi hơn…

Câu 2: Nguyên nhân bùng nổ, nguyên nhân thất bại, tính chất, ý nghĩa lịch sử của phong trào Cần vương.

Trả lời:

a. Nguyên nhân bùng nổ.

- Tình hình thực dân Pháp: Hoàn thành cơ bản cuộc xâm lược Việt Nam. Khó khăn: sự kháng cự của một số quan lại, văn thân sĩ phu, nhân dân... Hoạt động của phe chủ chiến…Âm mưu của thực dân Pháp tỡm cỏch loại phe chủ chiến ra khỏi triều đỡnh.

- Đêm 4 rạng ngày 5-7 -1885, phe chủ chiến tấn công...sáng 5 -7, quân Pháp phản công...Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra sơn phũng Tõn Sở, tại đây, ngày 13 - 7 - 1885, Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần vương kêu gọi văn thân sĩ phu và nhân dân cả nước đứng lên vì vua mà kháng chiến.

Chiếu Cần vương đã giúp các văn thân sĩ phu không còn mâu thuẫn trong tư tưởng giữa “ trung quân” và “ ái quốc” nên họ hưởng ứng đông đảo,tập hợp nhân dân tạo thành phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp mạnh mẽ, kéo dài hơn 10 năm cuối thế kỉ XIX.

b. Nguyên nhân thất bại : Bộ phận lãnh đạo do hạn chế về giai cấp và thời đại nên đã không quan tâm bồi dưỡng lực lượng nông dân tạo sức mạnh chiến đấu lâu dài; chiến thuật nặng về thủ hiểm, không có sự liên kết giữa các cuộc khởi nghĩa. Thực dân Pháp đã củng cố được nền thống trị của chúng ở Việt Nam, tương quan lực lượng chênh lệch.

c. Tính chất:

Căn cứ vào thành phần lãnh đạo, lực lượng tham gia, mục tiêu và hình thức đấu tranh: Lãnh đạo chủ yếu là văn thân sĩ phu yêu nước, lực lưng tham gia gồm đông đảo nông dân; mục tiêu : chống thực dân Pháp xâm lược, chống giai cấp phong kiến đầu hàng, lập lại chế độ phong kiến độc lập; hình thức là khởi nghĩa vũ trang. Đây là phong trào yêu nước trên lập trường phong kiến.

d. ý nghĩa: Tiếp nối truyền thống yêu nước của dân tộc. Chứng tỏ sự phá sản của con đường cứu nước theo ngọn cờ phong kiến. Tạo tiền đề cho phong trào kháng Pháp ở giai đoạn sau.

Câu 3: Lập bảng so sánh 2 giai đoạn của phong trào Cần vương

Trả lời:

Nội dung

Giai đoạn I - Cần vương có vua [1885 - 1888].

Giai đoạn II - Cần vương

không vua [1888 - 1896].

Lãnh đo

- Phong trào đặt dưới sự chỉ huy thống nhất đến một trình độ nhất định của triều đình kháng chiến.

- Văn thân, sĩ phu lãnh đạo; có một số người tài giỏi xuất thân từ nông dân tham gia lãnh đạo.

- Không còn sự lãnh đạo của triều đình kháng chiến.

- Văn thân, sĩ phu lãnh đạo; có một số người tài giỏi xuất thân từ nông dân tham gia lãnh đạo.

Lực lượng

Nông dân miền xuôi và đồng bào các dân tộc miền núi .

Nông dân miền xuôi và đồng bào các dân tộc miền núi .

Địa bàn hoạt động

Rộng lớn: chủ yếu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ

Phát triển theo chiều sâu: thu hẹp ở miền đồng bằng, các trung tâm chuyển dần lên miền núi và trung du, dựa vào địa thế hiểm trở để kháng cự lâu dài.

KN tiêu biểu

Mai Xuân Thưởng [Bình Định], Hoàng Đình Kinh [Bắc Giang]; Nguyễn Thiệt Thuật [Hưng Yên].

Tống Duy Tân. Cao Điển, Phan Đình Phùng, Cao Thắng [Hà Tĩnh]

Diễn biến chính

- Giặc Pháp truy lùng, o ép, Tôn Thất Thuyết phải đưa vua Hàm Nghi ra sơn phòng Phú Gia [ Hà Tĩnh].

- 11 - 1888, vua Hàm Nghi bị

thực dân Pháp bắt và lưu đày sang Angieri.

- Khởi nghĩa Hùng Lĩnh, Hương Khê giành một số thắng lợi vang dội.

- Đầu 1896, phong trào bị dập tắt. PT coi như chấm dứt

Câu 4: Lập bảng các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần vương theo tiêu chí: Lãnh đạo, địa bàn, Diễn biến chính, Kết quả, nhận xét.

Trả lời:

Tên KN

Lãnh đạo

Địa bàn

Diễn biến chính

Kết quả

Nhận xét

KN Bãi Sậy [1883 - 1892]

Nguyễn Thiện Thuật

- Bãi Sậy [Hưng Yên]

- Hai Sông

- 1885 – 1887, XD căn cứ, bẻ gẫy nhiều đợt tấn công.

- 1888, cuộc chiến đấu quyết liệt, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch; vận động binh lính về với gia đình.

- căn cứ Hai Sông bị bao vây. 1892, PT thất bại

- Điểm mạnh: thể hiện lòng yêu nước, có tính nhân dân sâu sắc, lòng dũng cảm.

KN Ba Đình [1886 - 1887]

Phạm Bành, Đinh Công Tráng

Thanh Hoá

- XD căn cứ chính [Ba Đình]

- Chặn đánh các đoàn xe tải Pháp trên đường hành quân, gây nhiều tiệt hại.

- Pháp tổ chức nhiều đợt tấn công nhưng thất bại.

1/1887, toàn bộ căn cứ Ba Đình bị Pháp chiếm.

- Điểm mạnh: thể hiện tính nhân dân sâu sắc, lòng yêu nước.

- Điểm yếu” thiên về thế bị động, không có sự liên kết.

KN Hương Khê [1885 - 1896]

Phan Đình Phùng

- Hương Khê [Hà Tĩnh] – 1 nơi hiểm

Sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu. Phía Bắc ra được Thanh Hoá, HB.

Phía Nam ra Quảng Bình, Quảng Trị, TT Huế.

Phía Tây sang Lào và CPC.

Đại bản doanh ở Ngàn Trươi

- 1885 – 1888: XD LL cơ sở, chế tạo sung trường [1874].

- 1888 – 1896: chiến đấu quyết liệt. 1889, mở nhiều cuộc tập kích, tiêu diệt nhiều sinh lực địch.

- 1892, Cao Thắng hi sinh.

- 1895, PĐP trúng đạn và thương nặng, hi sinh.

- 1896, thủ lĩnh cuối cùng bị Pháp bắt. KN thất bại.

- Điểm mạnh: địa bàn HĐ rộng lớn, chế tạo được sung trường, chủ động tấn công quân Pháp, giành nhiều thắng lợi.

- Điểm yếu: chưa có sự liên kết LL với các cuộc KN khác chống Pháp; hạn chế về đường lối, PP tổ chức và lãnh đạo.

Câu 5: Trình bày một cuộc khởi nghĩa mà em cho là tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương? Ý nghĩa của phong trào đó?

Trả lời:

a. Cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất phong trào Cần Vương: KN Hương Khê [1885 - 1896].

* Căn cứ: Huyện Hương Khê - miền núi phía Tây tỉnh Hà Tĩnh; giáp 4 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.

* Lãnh đạo: Phan Đình Phùng xây dựng căn cứ ở vùng núi thuộc 2 huyện Hương Sơn, Hương Khê [Hà Tĩnh], sau đó ra Bắc, giao cho Cao Thắng tổ chức và xây dựng phong trào ở Nghệ - Tĩnh.

* Hoạt động:

- Giai đoạn 1885 -> 1888: Chuẩn bị, xây dựng lực lượng và cơ sở chiến đấu của nghĩa quân.

+ Đầu năm 1887, Phan Đình Phùng giao quyền chỉ huy cho Cao Thắng để ra Bắc liên kết lực lượng...

+ Cao Thắng: Tuyển lựa, huấn luyện nghĩa quân, sắm sửa khí giới, xây dựng công sự trong vùng rừng núi; chú trọng phối hợp với các toán nghĩa quân khác, vận động nhân dân tham gia khởi nghĩa; chế tạo súng trường theo mẫu của Pháp.

- Giai đoạn 1888 - >1895: Thời kì chiến đấu quyết liệt của nghĩa quân.

+ Cuối tháng 9/1889, Phan Đình Phùng trở về Hà Tĩnh, cùng Cao Thắng trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa; mở rộng địa bàn hoạt động ra 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.

+ Nghĩa quân chia thành 15 quân thứ [100 -> 500 nghĩa binh trên một quân thứ]. Đại bản doanh ở núi Vụ Quang [từ đây có thể theo đường núi vào Quảng Bình, Quảng Trị, ra Nghệ An, Thanh Hóa hay có thể theo đường sông đi xuống đồng bằng, có thể lánh sang Lào và các căn cứ khác].

+ Từ 1889 –> 1892, nghĩa quân đánh thắng nhiều trận càn của địch, tấn công đồn trại Pháp.

+ Đầu năm 1892, Pháp mở cuộc tấn công càn quét lớn vào Ngàn Trươi. Nghĩa quân một mặt bố trí lực lượng chống trả tại chỗ; một bộ phận luồn về hoạt động ở vùng sau lưng địch, buộc chúng phải rút quân về, nghĩa quân tập kích thẳng vào Hà Tĩnh. Trước tình hình đó Pháp đã tăng cường càn quét, tìm cách thu hẹp địa bàn, phạm vi hoạt động của nghĩa quân, cắt đứt liên lạc giữa các quân thứ, giữa nghĩa quân với nhân dân.

+ Tháng 11/1893, Cao Thắng đem 1000 quân đánh đồn Nu [Thanh Chương, Nghệ An], trên đường hành quân về giải phóng thành Vinh ông bị trúng đạn và hy sinh.

+ Trước những cuộc vây ráp của địch nghĩa quân đã cố gắng chống trả. Cuối tháng 3/1894, sau trận tập kích vào Hà Tĩnh nghĩa quân đã rút lui rồi cố thủ ở núi Quạt, núi Vụ Quang.

+ Ngày 17/10/1894, Phan Đình Phùng chỉ huy đánh thắng trận Vụ Quang. Pháp cử Nguyễn Thân đem 3000 quân bao vây căn cứ Vụ Quang, Phan Đình Phùng hy sinh 28/12/1895. Đầu năm 1896, những thủ lĩnh cuối cùng của cuộc khởi nghĩa Hương Khê bị Pháp bắt . Khởi nghĩa Hương Khê tan rã.

b. Ý nghĩa.

- Khởi nghĩa Hương Khê là đỉnh cao nhất của phong trào Cần Vương cuối thế kỉ XIX, kéo dài 10 năm, có quy mô rộng lớn, tổ chức tương đối chặt chẽ, lập nhiều chiến công, gây cho địch nhiều tổn thất...

- Huy động được sự ủng hộ và tiềm năng to lớn của nhân dân.

- Biết sử dụng những phương thức tác chiến linh hoạt, chủ động sáng tạo trong quá trình chuẩn bị và giao chiến với quân địch....

Câu 6: Việc Hàm Nghi xuất bôn, hạ chiếu Cần Vương kêu gọi chống Pháp đã có tác động như thế nào đối với các văn thân, sĩ phu yêu nước? Căn cứ vào đâu để khẳng định phong trào Cần Vương [1885 – 1896] đã đánh dấu bước phát triển mới của cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp trong nửa sau thế kỉ XIX.

Trả lời:

a. Tác động của chiếu Cần vương:

Văn thân , sĩ phu là những quan lại tri thức, những người có học vấn trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, họ bị chi phối nặng nề bởi tư tưởng nho giáo – tư tưởng “trung quân, ái quốc”. Tháng 7-1885, chiếu Cần Vương ban ra, lập tức các sĩ phu, văn thân hưởng ứng sôi nổi, nhiệt tình. Biểu hiện là họ đứng ra tập hợp nghĩa binh, xây dựng căn cứ lãnh đạo nhân dân chống thực dân Pháp...

b. Căn cứ:

Từ 1858 - 1884, phong trào đấu tranh chống Pháp diễn ra trong hoàn cảnh: Pháp đang từng bước xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn chưa hoàn toàn đầu hàng... Phong trào diễn ra theo tiến trình xâm lược của thực dân Pháp, mang tính chất tự phát, cục bộ, thiếu sự lãnh đạo thống nhất...

Phong trào Cần Vương [1885 - 1896], đánh dấu bước phát triển của phong trào yêu nước chống thực dân Pháp nửa sau thế kỉ XIX. Phong trào nổ ra trong hoàn cảnh: thực dân Pháp cơ bản hoàn thành quá trình xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn đầu hàng và trở thành tay sai cho Pháp. Mục đích phong trào cao hơn giai đoạn trước... Phong trào được chuẩn bị và khởi xướng bởi vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết. Do đó, trong một chừng mực nhất định phong trào được đặt dưới sự chỉ huy thống nhất [1885 - 1888]...

Phong trào do các văn thân, sĩ phu yêu nước lãnh đạo diễn ra với qui mô rộng lớn hơn trước, phong trào nổ ra cùng một lúc ở Bắc và Trung Kì, tồn tại lâu dài [1885 - 1896]...

Phong trào Cần vương có nhiều cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn, trình độ tổ chức, phương thức đấu tranh linh hoạt, có tính sáng tạo như: Khởi nghĩa Bãi Sậy, Hùng Lĩnh, Hương Khê ... gây cho thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn trong việc bình định nước ta...

Câu 7: Tại sao khởi nghĩa Hương Khê được coi là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương?

Trả lời:

a. Trước hết, khởi nghĩa Hương Khê mang đầy đủ những đặc điểm chung của phong trào Cần Vương :

- Lãnh đạo là văn thân sĩ phu [Phan Đình Phùng], chống Pháp dưới ngọn cờ phong kiến

- Lực lượng tham gia là đông đảo nông dân.

- Hình thức: khởi nghĩa vũ trang. Sử dụng chiến thuật du kích.

- Chưa thể triển khai thành phong trào toàn quốc, kết cục thất bại

b. Khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa lớn nhất, có những ưu điểm nổi bật nhất trong phong trào Cần Vương:

- Thời gian dài nhất: 11 năm, lại được phân chia thành 2 giai đoạn chuẩn bị và chiến đấu quyết liệt.

- Quy mô lớn nhất: 4 tỉnh

- Huy động đến mức cao nhất sự ủng hộ và tiềm năng lớn của nhân dân

- Nhân vật lãnh đạo xuất sắc

- Tổ chức tương đối chặt chẽ: 15 quân thứ...

- Tự chế tạo được súng trường lợi hại

- Chủ động, linh hoạt trong triển khai tác chiến [HS lấy ví dụ]

- Lập nhiều chiến công và gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề [HS lấy ví dụ]

Câu 8: Trình bày những điểm giống và khác nhau giữa phong trào Cần vương và phong trào nông dân Yên Thế.Giải thích vì sao có sự khác nhau đó.

Trả lời:

a.Giống nhau, khác nhau.

- Về lãnh đạo: phong trào Cần vương là các sĩ phu văn thân yêu nước [ Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật], một số là thổ hào [Đinh Công Tráng]và nông dân [ Cao Thắng, Cao Điền]; phong trào Yên Thế lãnh đạo là nông dân [ Đề Nắm, Đề Thám, Cả Trọng, Cả Dinh, Cả Huỳnh]

- Về mục đích: phong trào Cần vương nhằm chống thực dân Pháp, khôi phục quốc gia phong kiến có chủ quyền,phong trào nông dân Yên Thế nhằm mục đích bảo vệ cuộc sống của mình, chống chính sách cướp bóc và bình định quân sự của thực dân Pháp.

- Về thời gian: phong trào Cần vương kéo dài hơn 10 năm[ từ 1885 đến 1896], phong trào nông dân Yên Thế duy trì cuộc chiến đấu ngót 30 năm[ từ 1884 đến 1913].

- Về quy mô: phong trào Cần vương bao gồm hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ trên một phạm vi rộng nhất là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, phong trào nông dân Yên Thế diễn ra trên một địa phương nhỏ hẹp phía tây bắc tỉnh Bắc Giang.

- Về lực lượng: Cả hai phong trào lực lượng chủ yếu đều là nông dân, nhưng phong trào nông dân Yên Thế đầu thế kỷ XX có nét mới : trở thành nơi tụ hội của những nghĩa sĩ yêu nước từ khắp nơi kéo về, trong đó có những sĩ phu yêu nước tiến bộ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm; tham gia tích cực vào vụ “Hà thành đầu độc” của binh lính người Việt .

- Về hình thức đấu tranh: Cả hai phong trào đều tiến hành khởi nghĩa vũ trang.

* Cả phong trào Cần vương và phong trào nông dân Yên Thế đều nằm trong phạm trù phong kiến, đều thể hiện truyền thống đấu tranh bất khuất, khả năng quật khởi của nông dân Việt Nam, nhưng đầu thế kỷ XX phong trào nông dân Yên Thế đã có mối liên hệ nhất định với phong trào theo khuyng hướng tư sản.

b.Vì sao có sự khác nhau .

Do thành phần lãnh đạo khác nhau. Có một thời gian tồn tại song song với nhau nhưng phong trào nông dân Yên Thế không quy tụ vào phong trào Cần vương, điều đó chứng tỏ chế độ phong kiến nước ta đã quá khủng hoảng, lỗi thời, không còn sức hấp dẫn như xưa nữa.

KẾT LUẬN

Chuyên đề “Phong trào Cần vương [1885- 1896]” là một chuyên đề quan trọng, là một trong những nội dung trọng tâm của các kì thi Trại hè Hùng vương cũng như thi HSG Quốc gia môn Lịch sử. Phương pháp chủ yếu khi dạy chuyên đề này là sử dụng sơ đồ tư duy hệ thống hóa kiến thức, luyện viết để rèn kĩ năng trình bày; đặc biệt, học sinh phải nâng cao ý thức tự học.

Học tập nói chung và học tập lịch sử nói riêng là quá trình tiếp thu kiến thức. Kiến thức lịch sử lại hết sức phong phú và tăng lên với mức độ nhanh chóng mà trường chuyên cũng không sao truyền thụ hết được. Trong khi đó khả năng hiểu biết và học tập trong cả cuộc đời là có hạn. Cho nên, trong quá trình dạy học, càn thiết phải làm cho quá trình học tập của học sinh trở thành quá trình chủ động học tập, tiến dần lên quá trình tự nghiên cứu độc lập.

Do vậy, muốn nâng cao chất lượng của tư duy, người giáo viên cần phải chú ý đến số bài tập rèn luyện tư duy và phải để học sinh chuyên tiếp xúc với các loại, các dạng bài tập tư duy khác nhau.

Việc sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử ở trường THPT nói chung và trường chuyên nói riêng trong quá trình dạy học là rất cần thiết và nó có tác dụng về nhiều mặt, đặc biệt là gây hứng thú học tập, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo và rèn kĩ năng thực hành bộ môn cho học sinh.

Trên đây kinh nghiệm giảng dạy chủ quan của bản thân khi giảng dạy chuyên đề “Phong trào Cần vương [1885- 1896]”. Trong quá trình trình bày không tránh khỏi những sai sót, kính mong các thầy cô đồng nghiệp rút kinh nghiệm và chia sẻ ý kiến!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sách giáo khoa Lịch sử [nâng cao] lớp 11

2. Giáo trình Lịch sử Việt Nam tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2019.

3. Hướng dẫn ôn thi bồi dưỡng HSG THPT Chuyên đề Lịch sử, Nxb Quốc gia Hà Nội, 2015.

1. Nội dung cơ bản của chiếu Cần Vương là gì?

- Tố cáo tội ác xâm lược của thực dân Pháp

-Lên án tính bất hợp pháp của triều đình do Pháp dựng lên, tố cáo sự phản bội của một số quan lại

-Khẳng định quyết tâm kháng chiến của triều đình mà đứng đầu là vua Hàm Nghi

-Thôi thúc, kêu gọi và khích lệ sĩ phu, văn thân cũng như nhân dân cả nước cùng tham gia cuộc chiến giúp vua khôi phục quốc gia phong kiến độc lập

2. Ý nghĩa của chiếu Cần Vương là gì?

-Chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân cùng tham gia chống Pháp, khôi phục nền độc lập, khôi phục chế độ phong kiến có vua là người tài giỏi.

-Khẩu hiệu này đã nhanh chóng thổi lên ngọn lửa tình yêu quê hương và lòng căm thù quân xâm lược của toàn thể nhân dân = > Một phong trào vũ trang chống thực dân Pháp diễn ra sôi nổi và kéo dài hơn 12 năm.

3. Nguyên nhân bùng nổ phong trào Cần Vương

Sau khi nắm được khái niệm phong trào Cần Vương là gì, chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về phong trào này. Vậy nguyên nhân dẫn đến phong trào Cần Vương là gì?

Thực dân Pháp xác lập ách thống trị đô hộ trên toàn Việt Nam vào năm 1884Dưới sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân, phe chủ chiến đã sẵn sàng hành động. Cuộc phản công dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thất Thuyết vào rạng sáng ngày mồng 05 tháng 07 năm 1885. Cuộc phản công của phái chủ chiến thất bại, khiến vua Hàm Nghi buộc phải chạy đến Quảng Trị sơ tán => Chiếu Cần Vương lần 1 được ban ra. Chiếu Cần Vương lần 2 được ban ra tại Ấu Sơn của Hà Tĩnh vào ngày 20 tháng 9 năm 1885 => Từ đó bùng nổ mạnh mẽ cuộc kháng chiến Cần Vương.

Như vậy, chúng ta đã tìm hiểu được các nguyên nhân gây bùng nổ phong trào Cần Vương là gì. Để nắm rõ hơn kiến thức về chủ đề này, cùng nghiên cứu về nội dung của chiếu Cần Vương.

Mục lục

  • 1 Nguồn gốc ra đời chiếu Cần Vương
    • 1.1 Tôn Thất Thuyết chủ trương chống Pháp
    • 1.2 Pháp chiếm kinh thành Huế
    • 1.3 Vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương
  • 2 Ý nghĩa
  • 3 Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương
  • 4 Nguyên nhân thất bại
  • 5 Xem thêm
  • 6 Tham khảo
  • 7 Chú thích

Nguồn gốc ra đời chiếu Cần VươngSửa đổi

Tôn Thất Thuyết chủ trương chống PhápSửa đổi

Tại triều đình Huế, sau khi vua Tự Đức mất [tháng 7 năm 1883] thì sự phân hóa trong nội bộ đình thần, quan lại nhà Nguyễn càng sâu sắc, triều đình phân hóa thành 2 phe rõ rệt – phe chủ chiến và phe chủ hòa. Phe chủ chiến kiên quyết không khuất phục thực dân Pháp, muốn cứu lấy sự tồn tại của đất nước, của triều đình. Còn phe chủ hòa sẵn sàng quy thuận và hợp tác với Pháp để bảo vệ quyền lợi giai cấp. Đứng đầu phe chủ chiến là Tôn Thất Thuyết. Tôn Thất Thuyết là Thượng thư Bộ binh, nắm giữ quân đội trong tay và là nhân vật quan trọng nhất trong Hội đồng phụ chính. Ngoài ra, Tôn Thất Thuyết còn có liên hệ mật thiết với nhiều thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp. Tôn Thất Thuyết quyết tâm xây dựng, củng cố lực lượng để quyết chiến với thực dân Pháp. Ông cho thành lập một hệ thống sơn phòng từ Quảng Trị đến Ninh Bình và từ Quảng Nam đến Bình Thuận; chiêu mộ thêm nghĩa binh, tăng cường xây dựng đồn lũy. Tại Huế, ông cho củng cố quân đội và lập thêm 2 đạo quân đặc biệt – Phấn Nghĩa quân và Đoàn Kiệt quân. Đây là đội quân cơ động, tinh nhuệ trong các cuộc đối đầu với Pháp và bảo vệ vua cùng Hội đồng phụ chính.

Ngày 31 tháng 7 năm 1884, Tôn Thất Thuyết cho phế truất vua Kiến Phúc – một ông vua có tư tưởng thân Pháp – và đưa Ưng Lịch mới 14 tuổi lên ngôi, lấy hiệu là Hàm Nghi.

Pháp chiếm kinh thành HuếSửa đổi

Cuối năm 1884, giữa lúc quân Pháp đang khốn đốn ở Bắc Kỳ, phe chủ chiến ở Huế, đứng đầu là Tôn Thất Thuyết, lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi phản đối việc 300 quân Pháp kéo vào Huế lập căn cứ Mang Cá ngay trong Hoàng thành. Đáp lại Pháp cho tăng thêm số quân đóng ở Mang Cá lên hàng ngàn tên.

Tôn Thất Thuyết huy động số quân còn lại ở các địa phương tập trung về Huế, bí mật tổ chức một cuộc phản công. Dò biết tình hình, ngày 27 tháng 6 năm 1885, De Courcy [tổng chỉ huy vừa được cử sang] đem 4 đại đội và 2 tàu chiến từ Hải Phòng vào thẳng Huế nhằm loại trừ phe chủ chiến, dự định bắt cóc Tôn Thất Thuyết.

Ngày 2 tháng 7 năm 1885, De Courcy đến Thuận An rồi lên Huế, yêu cầu Hội đồng phụ chính đến hội thương. Tôn Thất Thuyết cáo bệnh không đến, gấp rút chấn chỉnh quân sĩ, đào hào đắp lũy trong thành, bố trí hai đạo quân đặc biệt phòng thủ hoàng thành, nhằm giành thế chủ động trước khi De Courcy bày đặt việc triều yết vua Hàm Nghi để đột nhập hoàng thành.

Đêm ngày 4 tháng 7 năm 1885, giữa lúc De Courcy đang dự tiệc ở sứ quán bên kia sông Hương và bàn kế đột nhập kinh thành Huế thì Tôn Thất Thuyết bí mật chia quân làm hai cánh. Cánh thứ nhất [do Tôn Thất Lệ chỉ huy] có nhiệm vụ tấn công sứ quán Pháp. Cánh thứ hai [do Tôn Thất Thuyết đích thân chỉ huy] sẽ đánh úp tiêu diệt toàn bộ lính Pháp ở đồn Mang Cá.

Biết trước âm mưu của giặc nên mặc dù việc chuẩn bị chưa thật đầy đủ, Tôn Thất Thuyết vẫn nổ súng trước nhằm giành thế chủ động cho cuộc tấn công. Đúng 1 giờ sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885, trong cảnh khuya vắng lặng của kinh thành Huế, bỗng có tiếng súng thần công nổ rầm trời. Lệnh phát hỏa vừa dứt, đồn Mang Cá bốc cháy, quân ta đột nhập đồn, lính Pháp rối loạn, vài sĩ quan bị thương, bị chết. Đồng thời sứ quán Pháp bên kia sông Hương cũng bị tấn công, các trại lính địch bốc cháy dữ dội. De Courcy đối phó cầm chừng, chờ sáng. Trại Mang Cá, lợi dụng quân Nguyễn chuyển hướng tấn công sang sứ quán, quân Pháp kéo 3 đội quân vào chiếm thành Huế, đốt phá dinh thự, tàn sát dân chúng, vượt qua các ổ phục kích lọt được vào hoàng thành.

Quân Pháp đã trắng trợn cướp bóc của cải và tàn sát vô cùng dã man nhiều người dân vô tội trên đường tiến quân. Trong ngày hôm đó, hầu như nhà nào cũng có người bị giết. Do vậy từ đó về sau, hằng năm Nhân dân Huế đã lấy ngày 23 tháng 5 Âm lịch làm ngày giỗ chung.

Không chỉ hàng vạn người bị giết hại mà kinh thành Huế còn bị cướp đi phần lớn những tài sản quý báu nhất. Quân Pháp chiếm được một số lớn của cải mà triều đình chưa kịp chuyển đi, gồm 2,6 tấn vàng và 30 tấn bạc, trong số này chỉ có một phần rất nhỏ sau này được hoàn lại cho triều đình Huế. Còn lại, số 700.000 lạng bạc phải được 5 lính Pháp đóng hòm trong 5 ngày mới xong và chở về Pháp.[1]

Linh mục Père Siefert Khanhngu, nhân chứng sự kiện này đã ghi lại: “Kho tàng trong hoàng cung đã mất đi gần 24 triệu quan vàng và bạc… Cuộc cướp cạn ấy kéo dài trong 2 tháng còn gây tai tiếng hơn cuộc cướp phá Cung điện Mùa Hè của Thanh Đế ở Bắc Kinh”. Cũng theo Père Siefert, khi đối chiếu với bảng kiểm kê tài sản của hoàng gia, thì quân Pháp đã cướp “228 viên kim cương, 266 món nữ trang có nạm kim cương, hạt trai, hạt ngọc, 271 đồ bằng vàng trong cung của bà Từ Dụ. Tại các tôn miếu thờ các vua… thì hầu hết các thứ có thể mang đi… đều bị cướp”[2]

Quốc sử quán triều Nguyễn ghi: riêng tại Phủ Nội vụ ở tầng dưới cất giữ 91.424 thỏi bạc đỉnh 10 lạng, 78.960 thỏi bạc đỉnh 1 lạng; tầng trên cất giữ khoảng 500 lạng vàng, khoảng 700.000 lạng bạc; kho gần cửa Thọ Chỉ cất giữ 898 lạng vàng, 3.400 lạng bạc. Toàn bộ số vàng bạc này đã bị Pháp chiếm. Tướng De Courcy, chỉ huy cuộc tấn công vào kinh đô Huế, ngày 24/7/1885 đã gửi cho chính phủ Pháp một bức điện với nội dung sau: “Trị giá phỏng chừng các quý vật bằng vàng hay bằng bạc dấu kỹ trong các hầm kín là 9 triệu quan. Đã khám phá thêm nhiều ấn tín và kim sách đáng giá bạc triệu. Xúc tiến rất khó khăn việc tập trung những kho tàng mỹ thuật. Cần cử sang đây một chiếc tàu cùng nhiều nhân viên thành thạo để mang về mọi thứ cùng với kho tàng”. Ngoài ra, trong quá trình quân Pháp truy đuổi Tôn Thất Thuyết từ tháng 7/1885, đã thu giữ ở tỉnh Quảng Trị 34 hòm bạc chứa 36.557 tiền bạc và 6 hòm bạc chứa 196 thỏi bạc, mỗi thỏi 10 lạng và 18.696 tiền bạc[2].

Vua Hàm Nghi ra chiếu Cần VươngSửa đổi

Sáng mùng 5 tháng 7, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi cùng đoàn tùy tùng đời kinh đô Huế chạy ra sơn phòng Tân Sở [Quảng Trị]. Tại đây, ngày 13 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, đã hạ chiếu Cần Vương lần thứ nhất. Ở Quảng Trị một thời gian, để tránh sự truy lùng gắt gao của quân Pháp, Tôn Thất Thuyết lại đưa Hàm Nghi vượt qua đất Lào đến sơn phòng Ấu Sơn [Hương Khê, Hà Tĩnh]. Tại đây, Hàm Nghi lại xuống chiếu Cần Vương lần hai ngày 20 tháng 9 năm 1885.

Hai tờ chiếu này tập trung tố cáo âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, đồng thời kêu gọi sĩ phu, văn thân và nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến giúp vua bảo vệ quê hương đất nước.

Mặc dù diễn ra dưới danh nghĩa Cần Vương, thực tế đây là một phong trào đấu tranh yêu nước chống Pháp xâm lược của Nhân dân Việt Nam. Trong thời kì này, hoàn toàn vắng mặt sự tham gia của quân đội triều đình. Lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa Cần Vương không phải là các võ quan triều Nguyễn như trong thời kỳ đầu chống Pháp, mà là các sĩ phu văn thân yêu nước có chung một nỗi đau mất nước với quần chúng lao động, nên đã tự nguyện đứng về phía nhân dân chống Pháp xâm lược. Phong trào Cần Vương bùng nổ từ sau sự biến kinh thành Huế vào đầu tháng 7 năm 1885 và phát triển qua hai giai đoạn:

  • Giai đoạn thứ nhất từ lúc có chiếu Cần Vương đến khi vua Hàm Nghi bị bắt [11/1888]
  • Giai đoạn thứ hai kéo dài tới khi khởi nghĩa Hương Khê thất bại [1896].

Ý nghĩaSửa đổi

Cần vương mang nghĩa "giúp vua". Trong lịch sử Việt Nam, trước thời nhà Nguyễn từng có những lực lượng nhân danh giúp nhà vua phát sinh như thời Lê sơ, các cánh quân hưởng ứng lời kêu gọi của vua Lê Chiêu Tông chống lại quyền thần Mạc Đăng Dung. Tuy nhiên, phong trào này không để lại nhiều dấu ấn và khi nhắc tới Cần Vương thường được hiểu là phong trào chống Pháp xâm lược.

Phong trào thu hút được một số các quan lại trong triều đình và văn thân. Ngoài ra, phong trào còn thu hút đông đảo các tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Phong trào Cần Vương thực chất đã trở thành một hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên khắp cả nước, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, kéo dài từ năm 1885 cho đến năm 1896.

Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần VươngSửa đổi

Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhân dân ta ở khắp nơi, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu văn thân yêu nước, đã sôi nổi đứng lên chống Pháp:

  • Khởi nghĩa của Nguyễn Văn Giáp ở Sơn Tây và Tây Bắc [1883-1887]
  • Nghĩa hội Quảng Nam của Nguyễn Duy Hiệu.
  • Khởi nghĩa Hương Khê [1885–1896] của Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở Hương Khê, Hà Tĩnh.
  • Khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn ở Nghệ An.
  • Khởi nghĩa Ba Đình [1886–1887] của Đinh Công Tráng, Phạm Bành ở Nga Sơn, Thanh Hóa.
  • Khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định.
  • Khởi nghĩa của Lê Thành Phương ở Phú Yên [1885–1887].
  • Khởi nghĩa Hùng Lĩnh [1886–1892] của Tống Duy Tân ở Bá Thước và Quảng Xương, Thanh Hóa.
  • Khởi nghĩa Bãi Sậy [1883–1892] của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên.
  • Phong trào kháng chiến ở Thái Bình – Nam Định của Tạ Hiện và Phạm Huy Quang.
  • Khởi nghĩa Hưng Hóa của Nguyễn Quang Bích ở Phú Thọ và Yên Bái.
  • Khởi nghĩa Thanh Sơn [1885–1892] của Đốc Ngữ [Nguyễn Đức Ngữ] ở Hòa Bình.
  • Khởi nghĩa của Trịnh Phong ở Khánh Hòa [1885–1886].
  • Khởi nghĩa của Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân ở Quảng Bình.
  • Khởi nghĩa của Hoàng Đình Kinh ở vùng Lạng Sơn, Bắc Giang.
  • Khởi nghĩa của Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân ở Quảng Ngãi.
  • Khởi nghĩa của Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như ở Quảng Trị.
  • khởi Nghĩa của Cù Hoàng Địch ở Nghệ Tĩnh

Đêm ngày 30 tháng 10 năm 1888, vua Hàm Nghi bị người Pháp bắt trong lúc mọi người đang ngủ say. Bắt được vua Hàm Nghi thực dân Pháp ra sức dụ dỗ thuyết phục, mua chuộc nhà vua trẻ cộng tác với chúng nhưng vua Hàm Nghi đã từ chối quyết liệt. Không mua chuộc được vua Hàm nghi thực dân Pháp quyết định đưa vua Hàm Nghi đi đày tại Algeria, một thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi [châu Phi], các cuộc khởi nghĩa chống Pháp vẫn tiếp tục. Tuy nhiên, phong trào Cần Vương suy yếu dần; từng cuộc khởi nghĩa lần lượt bị tiêu diệt. Từ cuối năm 1895 đầu 1896, khi tiếng súng cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng thất bại, phong trào Cần Vương coi như chấm dứt.

Nguyên nhân thất bạiSửa đổi

Tác giả Nguyễn Thế Anh trong sách Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn nêu các nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương:

  1. Tính chất địa phương: sự thất bại của phong trào Cần Vương có nguyên nhân từ sự kháng cự chỉ có tính chất địa phương. Các phong trào chưa quy tụ, tập hợp thành một khối thống nhất đủ mạnh để chống Pháp. Các lãnh tụ Cần Vương chỉ có uy tín tại nơi họ xuất thân, tinh thần địa phương mạnh mẽ làm họ chống lại mọi sự thống nhất phong trào trên quy mô lớn hơn. Khi các lãnh tụ bị bắt hay chết thì quân của họ hoặc giải tán hay đầu hàng.[3]
  2. Quan hệ với dân chúng: các đạo quân này không được lòng dân quê nhiều lắm bởi để có phương tiện sống và duy trì chiến đấu, họ phải đi cướp phá dân chúng.[3]
  3. Mâu thuẫn với tôn giáo: sự tàn sát vô cớ những người Công giáo của quân Cần Vương khiến giáo dân phải tự vệ bằng cách thông báo tin tức cho phía Pháp. Những thống kê của người Pháp cho biết có hơn 20.000 giáo dân đã bị quân Cần Vương giết hại.[4]
  4. Mâu thuẫn sắc tộc: Chính sách sa thải các quan chức Việt và cho các dân tộc thiểu số được quyền tự trị rộng rãi cũng làm cho các sắc dân này đứng về phía Pháp. Chính người Thượng đã bắt Hàm Nghi, các bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đều đã cắt đường liên lạc của quân Cần Vương với Trung Hoa làm cạn nguồn khí giới của họ. Quen thuộc rừng núi, họ cũng giúp quân Pháp chiến tranh phản du kích đầy hiệu quả.[5]

Theo Đào Duy Anh, ngoài việc thiếu liên kết và thống nhất về tổ chức [tương tự như "tính chất địa phương" mà Nguyễn Thế Anh phản ánh], phong trào Cần Vương còn có những nguyên nhân thất bại khác[6]:

  1. Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển làm nền tảng, vì vậy vũ khí thô sơ không thể chống lại vũ khí hiện đại của Pháp.
  2. Lực lượng và chiến thuật: các cuộc khởi nghĩa không đủ mạnh, chỉ có thể tấn công vào những chỗ yếu, sơ hở của địch; không đủ khả năng thực hiện chiến tranh trực diện với lực lượng chính quy của địch.
  3. Tinh thần chiến đấu: Ngoại trừ một số thủ lĩnh có tinh thần chiến đấu đến cùng và chết vì nước, không ít thủ lĩnh quân khởi nghĩa nhanh chóng buông vũ khí đầu hàng khi tương quan lực lượng bắt đầu bất lợi cho quân khởi nghĩa, khiến phong trào nhanh chóng suy yếu và tan rã.

Video liên quan

Chủ Đề