Tại sao lại bị viêm bàng quang cấp

Bàng quang là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tiết niệu của con người, là nơi chứa nước tiểu từ thận chảy xuống. Bàng quang cấp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các chức năng của hệ tiết niệu, trong đó viêm ngược dòng từ bàng quang lên thận là một nguyên nhân gây nên viêm thận, suy thận.

Có nhiều nguyên nhân gây nên viêm bàng quang cấp như sỏi thận, sỏi niệu quản hoặc do sỏi bàng quang.

Viêm bàng quang cấp cũng có thể do thăm khám hoặc thực hiện các thủ thuật bằng dụng cụ không được vô khuẩn tuyệt đối của các nhà chuyên môn, hoặc cũng có trường hợp bàng quang bị tổn thương do sinh hoạt tình dục quá độ… Tuy nhiên, nguyên nhân do vi khuẩn đóng một vai trò đáng kể.

Có nhiều loại vi khuẩn gây viêm bàng quang, có loại do đi ngược dòng nước tiểu, có loại từ máu đi qua thận rồi xuống bàng quang [vãng khuẩn huyết, nhiễm khuẩn huyết].

Hầu hết các loại vi khuẩn gây viêm bàng quang là vi khuẩn họ đường ruột, với chủ yếu là E.coli, sau đó là các vi khuẩn proteus mirabilis, kelbsiela pneumoniae, enterobacter, citrobacter, serrater.

Có một số vi khuẩn có độc tính rất cao cũng rất có khả năng gây nên viêm bàng quang và rất khó khăn cho việc điều trị, bởi vì chúng có khả năng kháng nhiều thuốc kháng sinh như: trực khuẩn mủ xanh [pseudomonas aeruginosa], tụ cầu vàng [S.aureus], tụ cầu hoại sinh [S.saprophyticus], tụ cầu da [S.Epidermidis].

Ngoài ra còn phải kể đến một số vi khuẩn thường ngày cộng sinh ở đường sinh dục nhưng khi xâm nhập vào hệ tiết niệu chúng cũng có khả năng gây bệnh như: corynebacterium hoffmani, tụ cầu da [S.epidermidis], liên cầu đường ruột [enterococcus]…

Viêm bàng quang cấp

Bệnh viêm bàng quang cấp tính là một bệnh thường xảy ra đột ngột, trong đó có một số triệu chứng có thể làm cho người bệnh dễ nhận biết mình đang lâm bệnh.

Viêm bàng quang cấp tính là loại hay gặp nhất trong các loại viêm đường tiết niệu dưới [niệu quản, bàng quang, niệu đạo].

Phù nề, sung huyết

Thương tổn chủ yếu xảy ra tại niêm mạc bàng quang với các hình thái phù nề, sung huyết có khi gây xuất huyết. Các triệu chứng thường xảy ra đột ngột như tiểu buốt kèm theo đau dọc theo từ niệu đạo lên bàng quang.

Đau và buốt

Đau và buốt trong suốt thời gian đi tiểu và còn kéo dài sau khi tiểu hết nước tiểu trong nhiều phút. Do niêm mạc bàng quang bị viêm nên rất dễ bị kích thích do đó số lần đi tiểu tăng lên làm cho bệnh nhân lúc nào cũng buồn đi tiểu.

Tuy vậy, do mỗi lần đi tiểu gây buốt nên người bệnh tiểu không hết nước tiểu phải tạm dừng vì đau và buốt [gọi là đái dắt].

Đau tức ở vùng dưới rốn

Lúc bị bệnh viêm bàng quang cấp, người bệnh thường có cảm giác tức ở vùng dưới rốn [vùng tương ứng với vị trí của bàng quang].

Sốt nhẹ

Mặc dù viêm bàng quang do nhiễm trùng nhưng ít khi sốt cao mà chỉ sốt nhẹ [hoặc không sốt] nên người bệnh không cảm nhận được.

Nước tiểu đục, đái ra máu

Nước tiểu thường đục ở đầu bãi hay toàn bãi, đôi khi nước tiểu có máu, gọi là đái máu [hoặc đái máu đại thể hoặc đái máu vi thể].

Đái máu đại thể là đái ra máu cùng với nước tiểu mà ngay người bệnh cũng nhận biết được. Đái máu vi thể là đái ra máu nhưng mắt thường không thể nhìn thấy mà phải làm xét nghiệm soi kính hiển vi tìm hồng cầu trong nước tiểu mới phát hiện được. Chính triệu chứng đái máu đại thể làm cho người bệnh hốt hoảng, lo sợ không hiểu mình đang mắc bệnh gì.

Nước tiểu đục là một trong những triệu chứng của bàng quang cấp

Viêm bàng quang cấp gặp ở nữ nhiều hơn nam giới, bởi vì ở nữ giới ngoài việc cấu tạo của niệu đạo ngắn thì lỗ đái gần với bộ phận sinh dục ngoài nên vi sinh vật rất dễ theo đường niệu đạo đi lên gây viêm bàng quang [người ta gọi là viêm bàng quang ngược dòng].

Tuy nhiên đối với nữ giới, trong những ngày hành kinh và sau hành kinh vài ba ngày trong nước tiểu có thể còn lẫn một ít hồng cầu, do vậy khi xét nghiệm nước tiểu cho phụ nữ nên hỏi kỹ vấn đề này.

Viêm bàng quang cấp, ngoài các triệu chứng lâm sàng thì siêu âm, chụp X-quang, xét nghiệm nước tiểu, nội soi bàng quang là hết sức cần thiết.

Nếu viêm bàng quang cấp tính mà không chẩn đoán sớm và điều trị đúng phác đồ thì rất dễ trở thành viêm bàng quang mạn tính.

Thông thường do người bệnh ngại đi khám hoặc ngại không nói cho người thân, người nhà biết nhất là những trường hợp vừa mới thành hôn [do sinh hoạt tình dục nhiều và lại không đảm bảo vệ sinh] hoặc người cao tuổi, vì vậy bệnh dễ trở thành mạn tính.

Viêm bàng quang mạn tính thường xảy ra nhiều lần trong một năm với những triệu chứng tương tự như viêm bàng quang cấp tính nhưng âm ỉ hơn.

Do viêm nhiễm bàng quang lâu ngày nên thành của bàng quang bị dày lên, xơ hóa làm cho tính đàn hồi của bàng quang bị suy giảm mỗi lần co bóp để tống nước tiểu ra ngoài, đặc biệt ở người cao tuổi nên sẽ có hiện tượng đái són.

Tỷ lệ nữ giới bị viêm bàng quang cấp cao hơn nam giới

Khi nghi bị viêm bàng quang cấp cần bình tĩnh và nên đi khám ở cơ sở y tế càng sớm càng tốt. Khi người bệnh đi khám bệnh, thầy thuốc sẽ xác định căn nguyên gây nên viêm bàng quang cấp, để điều trị và hướng dẫn cho người bệnh các biện pháp phòng ngừa cần thiết.

Viêm bàng quang cấp hầu hết do vi khuẩn, vì vậy cần vệ sinh sạch sẽ hàng ngày đối với bộ phận sinh dục ngoài, nhất là nữ giới.

Cần vệ sinh bộ phận sinh dục ngoài sạch sẽ trước và sau khi quan hệ tình dục. Đối với nữ giới cần lưu ý mỗi lần vệ sinh bộ phận sinh dục ngoài cần dội nước từ trước ra sau để tránh nước bẩn chảy vào bộ phận sinh dục và lỗ đái.

Khi có bệnh viêm đường sinh dục – tiết niệu cần điều trị dứt điểm không để mầm bệnh lây lan đến bàng quang và hệ thống tiết niệu nói chung.

Những bệnh như viêm niệu đạo, âm đạo, bàng quang do lậu cầu khuẩn hoặc E.coli hoặc chlamydia hoặc mycoplasma… là những vi khuẩn cần chọn kháng sinh thích hợp để điều trị, nếu không, kết quả sẽ không được như ý muốn.

Vì vậy người bệnh phải được điều trị theo đơn của bác sĩ khám bệnh và thực hiện một cách nghiêm túc, không tự tiện thay đổi thuốc, không tự động thay đổi liều lượng thuốc kháng sinh hoặc không được ngưng điều trị khi thấy hết triệu chứng viêm bàng quang cấp.

Nếu người bệnh nào tự ý ngưng dùng thuốc thì mầm bệnh chưa tiêu diệt hết hẳn rất dễ lan ngược dòng gây viêm bàng quang, hoặc tạo điều kiện cho vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh.

Những thông tin cung cấp trong bài viết của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.

Theo dõi fanpage của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc để biết thêm thông tin bổ ích khác: //www.facebook.com/BenhvienHongNgoc/

Viêm bàng quang cấp là bệnh lý thường gặp do vi khuẩn đi ngược dòng từ niệu đạo vào bàng quang gây bệnh.

Phụ nữ khi đi tiểu, dòng nước tiểu xoáy dọc theo thành niệu đạo có thể làm những vi khuẩn ẩn náu quanh lỗ ngoài niệu đạo, sau đó đi ngược vào niệu đạo.
Sau khi đi tiểu, niệu đạo khép từ trước ra sau, đẩy những giọt nước tiểu quanh lỗ ngoài niệu đạo đi vào trong bàng quang.Uống nhiều nước trong ngày sẽ ngừa viêm bàng quang cấp.

Ở phụ nữ trong giai đoạn sinh đẻ, dưới sự hỗ trợ nội tiết tố nữ, niêm mạc âm đạo, niêm mạc niệu đạo và niêm mạc bàng quang cùng với các hệ thống tuyến như tuyến skene, tuyến bartholine tiết ra những chất nhờn làm bôi trơn các thành ống.

Có tác dụng kháng khuẩn giúp cho bộ phận sinh dục ngoài luôn luôn được cân bằng nên vi khuẩn không có khả năng gây bệnh; đồng thời đi tiểu hết bãi không còn tồn dư nước tiểu và nước tiểu.

Phụ nữ trong giai đoạn mãn kinh do nội tiết tố nữ giảm thấp nên vai trò của chất này không còn bao nhiêu kiến cho thành ống của đường tiết niệu cũng như đường sinh dục trở nên khô và teo.

Đồng thời, các tế bào tuyến của biểu mô thành ống cũng không còn tiết nhiều chất nhờn nữa. Đây chính là yếu tố mà vi khuẩn có cơ hội phát triển gây bệnh.

Bệnh viêm bàng quang cấp còn có thể do các nguyên nhân khác như vi khuẩn được đưa vào bàng quang qua các thủ thuật như đặt sonde tiểu, soi bàng quang, vi khuẩn theo đường máu từ thận xuống bàng quang.

Viêm bàng quang cấp

Người bệnh đái buốt như cảm giác bị bỏng mỗi khi đi tiểu, kèm theo đau sau xương mu. Đái rắt, nhiều khi mỗi lần đi tiểu, chỉ ra vài giọt nước tiểu hoặc rất ít nước tiểu.

Đái nhiều lần, đái đêm nhiều lần và có thể đái ra máu cuối bãi. Nước tiểu thường đục, mùi khó ngủi và đôi khi có máu. Các dấu hiệu toàn thân ít xảy ra, chỉ khi có dấu hiệu nặng, cảm giác ớn lạnh, sốt và đau nhiều vùng sau xương mu khi ấn vào.

Làm xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu, có thể xuất hiện nhiều hồng cầu, bạch cầu, vi khuẩn. Khi cấy nước tiểu có thể xác định vi khuẩn gây bệnh.

Siêu âm ở những bệnh nhân viêm bàng quang cấp: thấy thành bàng quang dày, bờ thành không đều, có thể có cặn lắng trong bàng quang.

– Viêm bàng quang do lao: bệnh lý thường hay tái phát, triệu chứng hay gặp đái ra mủ, cấy nước tiểu không tìm ra vi khuẩn, ngược lại có thể thấy trực khuẩn lao. Điều trị thuốc kháng sinh thông thường, không đáp ứng.

– Viêm bàng quang kẽ: đây là thể bệnh bàng quang còn chưa rõ ràng về nguyên nhân và cơ chế. Triệu chứng cơn đau bàng quang ngắt quãng, rối loạn đi tiểu. Soi bàng quang có thể thấy niêm mạc thành bàng quang loét và xơ hóa. Điều trị chống viêm nhiễm, giảm đau, kháng viêm. Nhưng kết quả tạm thời.

– Ung thư bàng quang: bệnh lý này ít gặp chỉ gặp trong trường hợp ung thư cổ tử cung di căn bàng quang. Người bệnh đau vùng tiểu khung, đái ra máu toàn bãi và các triệu chứng của bệnh ung thư cổ tử cung.

Sử dụng thuốc kháng sinh qua đường tiết niệu chủ yếu là thuốc dùng đường uống như: amoxicillin, augmentin, ciprofloxacin… Dùng thuốc kháng sinh trung bình 7 – 10 ngày. Kết hợp với thuốc chống co thắt như Spasmaverin, Spasless, Spasfon.

Cần ăn nhiều rau, trái cây, tránh dùng các chất khích thích như trà, cà phê, rượu. Uống nhiều nước trong ngày.

Vệ sinh vùng âm hộ sạch sẽ, bằng nước vệ sinh phụ khoa như dung dịch lactacyd FH, dung dịch gynofar. Mỗi lần đi tiểu cần lau bằng khăn giấy vệ sinh, tránh dùng vòi hoa sen rửa trực tiếp vào âm hộ, điều này giúp cho vi khuẩn ẩn náu ở lỗ ngoài niệu đạo có cơ hội vào trong niệu đạo rồi lên bàng quang theo dòng nước rửa.

Trường hợp nếu điều trị thuốc kháng sinh 10 ngày không kết quả, có thể cấy nước tiểu và làm kháng sinh đồ và điều trị thuốc theo kháng sinh đồ.

Viêm bàng quang cấp là bệnh lý thường gặp do vi khuẩn đi ngược dòng từ niệu đạo vào bàng quang gây bệnh.

Những thông tin cung cấp trong bài viết của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.

Theo dõi fanpage của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc để biết thêm thông tin bổ ích khác: //www.facebook.com/BenhvienHongNgoc/

Video liên quan

Chủ Đề