So sánh tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc

Đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc là một trong những tệ nạn xã hội, xâm hại đến trật tự, nếp sống văn minh của xã hội, làm cho nhiều người tan gia, bại sản, phát sinh mâu thuẫn gia đình... Người bị thua bạc dễ sa vào trạng thái mất tự chủ, bỏ bê trong việc chăm lo cuộc sống gia đình; có trường hợp quẩn bách đã dẫn đến tự sát... Đồng thời, tệ nạn cờ bạc là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác như: Giết người, cướp tài sản, lừa đảo, trộm cắp... Chính vì những tác hại nghiêm trọng trên, nên ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề bảo vệ trật tự công cộng, trong đó đã nghiêm cấm hành vi đánh bạc trái phép.

So với các tội phạm khác thì tội phạm đánh bạc là một trong những tội được quy định từ rất sớm. Tại Sắc lệnh số 168/SL ngày 14/4/1948 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quy định tội phạm về đánh bạc. Tại Điều 1 và Điều 2 Sắc lệnh quy định: “Tất cả các trò chơi cờ, bạc dù có tính cách may rủi hay có thể dùng trí khôn để tính trước mà được thua bằng tiền, đều coi là tội đánh bạc và bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm và phạt bạc từ 10đ đến 100đ”

Qua từng thời kỳ cách mạng, đường lối xử lý đối với người phạm tội đánh bạc cũng thay đổi, nhưng các dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc cơ bản vẫn giữ nguyên. Bộ luật hình sự 1985 quy định tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một điều luật (Điều 200), đến Bộ luật hình sự 1999 tội đánh bạc

được quy định thành 01 điều luật riêng (Điều 248), tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc quy định tại Điều 249 để cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.

Trong những năm qua, tình hình tội phạm về đánh bạc trên phạm vi cả nước nói chung và tỉnh ta nói riêng ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp; quy mô, mức độ ngày càng lớn, tính chất, thủ đoạn của tội phạm ngày càng tinh vi. Công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tố tụng đối với tội phạm đánh bạc nói riêng đã đạt được nhiều kết quả tích cực, qua đó đã xử lý nghiêm minh, kịp thời các đối tượng phạm tội, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho đầu tư phát triển kinh tế của địa phương.

Tuy nhiên, quá trình giải quyết các vụ án đánh bạc trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế như: Các cơ quan tố tụng chưa có quan điểm thống nhất và chính xác về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc (phổ biến nhất là đánh bạc dưới hình thức số đề) nên đã dẫn đến không ít trường hợp khởi tố không đúng sau đó phải đình chỉ; việc xét xử các bị cáo về tội đánh bạc đã bọc lộ sự bất cập trong việc xác định tội danh giữa các Tòa án. Cùng tính chất của hành vi, nhưng có Tòa xử bị cáo về tội 248, nhưng có Tòa lại xử về tội 249. Chính vì lẽ đó, trên tinh thần chỉ đạo của Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định; Phòng 1 tiến hành xây dựng Chuyên đề “ Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra về tội Đánh bạc, Tổ chức đánh bạc, Gá bạc quy định tại Điều 248, 249 Bộ luật hình sự ” nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức trong việc xác định tội danh đối với nhóm tội này trong ngành Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định.

Trên tinh thần đó, Chuyên đề sẽ nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về tội Đánh bạc, Tổ chức đánh bạc, Gá bạc; tìm hiểu đánh giá thực trạng giải quyết các vụ án về đánh bạc trong thời gian từ 01/12/2012 – 30/6/2015. Qua đó đánh giá

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI ĐÁNH BẠC, TỔ CHỨC

ĐÁNH BẠC VÀ GÁ BẠC THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM

1 Quy định của pháp luật về tội Đánh bạc, Tổ chức đánh bạc và Gá bạc

1.1 Về tội Đánh bạc Dưới góc độ pháp lý, đánh bạc là tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào.

Đánh bạc trái phép là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.

  • Chủ thể của tội phạm này không phải lả chủ thể đặc biệt, chỉ đủ một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự người từ đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
  • Khách thể của tội phạm là trật tự nếp sống văn minh của xã hội, thông qua hành vi đánh bạc đã xâm hại đến trật tự nếp sống văn minh của xã hội.
  • Hành vi khách quan của tội phạm đánh bạc được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như: xóc đĩa, bài tây, số đề, cá độ bóng đá, đá gà ... Tuy nhiên, một hành vi đánh bạc chỉ bị coi là tội phạm khi tiền hoặc hiện vật dùng vào việc đánh bạc có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội Tổ chức đánh bạc, tội Gá bạc

Tại Nghị quyết 01/2010 ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

  • Khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người đánh bạc không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét; cụ thể như sau:
  • Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 2.000 đồng) và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc;
  • Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2. đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đối với lần đánh bạc đó;
  • Trường hợp đánh bạc từ hai lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g, khoản 1, Điều 48 Bộ luật hình sự;
  • Trường hợp đánh bạc từ năm lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000 đồng trở lên) và lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 248 Bộ luật hình sự;
  • Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc bao gồm:
  • Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;
  • Trường hợp có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là toàn bộ số tiền thực tế mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ và số tiền mà chủ đề, chủ cá độ phải bỏ ra để trả cho người trúng (có thể là một hoặc nhiều người)
  • Trường hợp không có người chơi số đề, cá độ trúng số đề thắng cược cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng, kết quả bóng đá, kết quả đua ngựa... thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ.

1.1 Về tội Tổ chức đánh bạc Tổ chức đánh bạc là hành vi rủ rê, lôi kéo, tụ tập nhiều người tham gia đánh bạc; thúc đẩy và tạo điều kiện cho hành vi đánh bạc. Tổ chức đánh bạc, xét về bản chất là hành vi đồng phạm đánh bạc thể hiện ở việc rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác tham gia đánh bạc nhưng có thêm dấu hiệu là nhằm mục đích trục lợi (Từ điển Luật học). Tổ chức đánh bạc còn thể hiện ở chổ phải có người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào.

Hành vi tổ chức đánh bạc và gá bạc được quy định trong cùng một điều luật (Điều 249). Vì vậy, khi định tội phải tùy trường hợp mà định tội là tổ chức đánh bạc hay tội gá bạc. Nếu chỉ có hành vi tổ chức đánh bạc thì định tội là “tổ chức đánh bạc”, nếu chỉ có hành vi gá bạc thì định tội là “gá bạc”, nếu có cả hành vi tổ chức đánh bạc và gá bạc thì định tội là “tổ chức đánh bạc và gá bạc”

Một hành vi tổ chức đánh bạc chỉ cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc” khi có quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc đã bị kết án về các tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Như vậy trong nội hàm của tội “Tổ chức đánh bạc” đã chứa đựng các yếu tố bắt buộc phải đồng thời tồn tại các yếu tố sau:

  • Yếu tố tổ chức: Phải có hành vi rủ rê, lôi kéo, tụ tập; phải có người cầm đầu.
  • Yếu tố quy mô lớn: Như quy định tại Nghị quyết 01/2010 của HĐTP Tòa án tối cao.
  • Yếu tố trục lợi: Người chủ mưu cầm đầu phải nhằm mục đích trục lợi. Theo đó, để xem xét một hành vi phạm tội: “Tổ chức đánh bạc” quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự thì phải hội đủ đồng thời các yếu tố trên.

Nếu thiếu một trong ba yếu tố nói trên thì người cầm đầu chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 248 Bộ luật hình sự.

Tại Nghị quyết 01/2010 ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

  • Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc một trong các trường hợp sau đây là “với quy mô lớn”
  • Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một lúc cho mười người đánh bạc trở lên hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000đ đến dưới 50.000đ.
  • Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; khi đánh bạc có phân công người canh gác, người phục vụ, có sắp đặt lối thoát khi vây bắt, sử dụng phương tiện như ô tô, xe máy, xe đạp, điện thoại... để trợ giúp cho việc đánh bạc;
  • Tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trong cùng một lần có giá trị từ 20.000 đồng trở lên.

Nếu người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc chưa đến mức “ quy mô lớn ” như đã liệt kê trên nhưng tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000đ đến dưới 50.000đ thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội

đánh bạc hoặc gá bạc hoặc đã bị kết án về các tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Thế nào là quy mô lớn được quy định tại Nghị quyết 01/2010 ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao và đã được viện dẫn ở phần trên.

II. THỰC TRẠNG VÀ KẾT QUẢ GIẢI QUYẾT ÁN ĐÁNH BẠC, TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC, GÁ BẠC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH

2 Về số liệu (Từ 01/12/2012 – 30/6/2015) 2.1 Trên lĩnh vực tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố Trong thời gian qua, Viện kiểm sát 02 cấp đã tiến hành kiểm sát việc thụ lý giải quyết 71 tin báo, tố giác tội phạm trên lĩnh vực này (nhiều nhất là Phù Cát 21 tin ; ít nhất là An Lão không có tin báo nào). Đến nay đã giải quyết xong 71 tin, trong đó: Khởi tố hình sự 50 tin; không khởi tố 21 tin.

2.1 Về án khởi tố điều tra và kết thúc điều tra Viện kiểm sát 02 cấp đã tiến hành thụ lý thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 57 vụ - 360 bị can, gồm:

Tội đánh bạc: 42 vụ 335 bị can (trong đó phổ biến nhất là hình thức đánh bạc dưới hình thức số đề). Đã kết thúc điều tra đề nghị truy tố 42 vụ 335 bị can. Đạt 100%.

Tội tổ chức đánh bạc: 12 vụ - 22 bị can. Đã kết thúc điều tra đề nghị truy tố 12 vụ 22 bị can. Đạt 100%.

Tội gá bạc: 03 vụ - 03 bị can. Đã kết thúc điều tra đề nghị truy tố 03 vụ 03 bị can. Đạt 100%

Không có trường hợp đình chỉ, tạm đình chỉ.

2.1 Về án Viện kiểm sát giải quyết Viện kiểm sát thụ lý giải quyết 57 vụ 360 bị can, gồm:

  • Tội Đánh bạc 42 vụ 335 bị can. Đã truy tố 42 vụ 331 bị can; đình chỉ 04 bị can, trong đó:
  • 02 bị can đình chỉ vì hành vi của bị can chỉ cấu thành một tội đánh bạc chứ không cấu thành tội đánh bạc và cả tội tổ chức đánh bạc như khi khởi tố.
  • 02 bị can đình chỉ vì miễn trách nhiệm hình sự
  • Tội Tổ chức đánh bạc 12 vụ 22 bị can. Đã truy tố 12 vụ 22 bị can.
  • Tội Gá bạc 03 vụ 03 bị can. Đã truy tố 03 vụ 03 bị can 2.1 Về án đã xét xử và kết quả xét xử Viện kiểm sát thụ lý kiểm sát xét xử 57 vụ 356 bị can, gồm: Tội Đánh bạc 42 vụ 331 bị can. Đã xét xử 40 vụ 312 bị cáo, trong đó:
  • Phạt tù 151 bị cáo.
  • Phạt tù nhưng cho hưởng án treo 73 bị cáo
  • Cải tạo không giam giữ 74 bị cáo
  • Phạt tiền 14 bị cáo Tội Tổ chức đánh bạc 12 vụ 22 bị can. Đã xét xử 11 vụ 19 bị can, trong đó:
  • Phạt tù 15 bị cáo
  • Phạt tiền 04 bị cáo. Tội Gá bạc 03 vụ 03 bị can. Đã xét xử 03 vụ 03 bị can, trong đó:
  • Cải tạo không giam giữ 03 bị cáo

động điều tra vụ án của Cơ quan điều tra; phân công Kiểm sát viên thực hành quyền công tố ngay từ khi có tố giác, tin báo tội xảy ra. Sau khi khởi tố vụ án, Kiểm sát viên kịp thời đề ra Yêu cầu điều tra sát hợp và mang tính khả thi cao; bám sát hoạt động điều tra của Điều tra viên và CQĐT; tiến hành độc lập các hoạt động điều tra như: Hỏi cung bị can, lấy lời khai, xác minh,...; nghiên cứu kỹ hồ sơ, đánh giá toàn diện chứng cứ vụ án trước khi đề xuất Lãnh đạo ký ban hành các quyết định tố tụng; phối hợp với CSĐT, Tòa án họp 02 ngành, 03 ngành để giải quyết những vướng mắc trong quá trình điều tra vụ án. Thận trọng, khách quan, toàn diện khi nghiên cứu, đánh giá chứng cứ để đề xuất quan điểm xử lý. Do đó, không để xảy ra oan, sai, lọt tội; không có vụ án nào điều tra để quá hạn luật định, tỷ lệ án kết thúc điều tra đề nghị truy tố đạt 100%; tỷ lệ án Viện kiểm sát ra quyết định truy tố đạt 100% về số vụ án và 98,8% về số bị can; án trả hồ sơ điều tra bổ sung xảy ra thấp hơn chỉ tiêu mà kế hoạch đề ra.

2 Nguyên nhân của những kết quả đạt được Để đạt được những kết quả nêu trên, trong thời gian qua, Viện kiểm sát hai cấp của tỉnh Bình Định đã triển khai và thực hiện đồng bộ các biện pháp có hiệu quả như sau:

Một là , hưởng ứng và phát động cuộc vận động xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên “ Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm” gắn với việc “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ”. Tăng cường quản lý, giáo dục cán bộ, đề cao trách nhiệm cá nhân đối với công việc được giao. Theo đó, từng đồng chí cán bộ, Kiểm sát viên đề cao trách nhiệm cá nhân, có ý thức tự giác đối với nhiệm vụ được phân công, nhiệt tình, tận tụy với công việc, chịu khó tìm hiểu, nghiên cứu các quy định của pháp luật nói chung và quy định của pháp luật hình sự về tội đánh bạc nói riêng, nhất là Nghị quyết

số 01/2010 ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao để phục vụ cho thực tiễn công tác.

Hai là , triển khai, quán triệt nghiêm túc Chỉ thị 06/CT-VKSTC ngày 06/12/ của Viện KSND tối cao về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đến toàn thể cán bộ, Kiểm sát viên 02 cấp. Qua đó, yêu cầu từng đơn vị, cá nhân bám sát vào các nhiệm vụ cụ thể được nêu trong Chỉ thị để thực hiện một cách nghiêm túc, đặc biệt chú trọng đến việc tăng cường sự hiện diện của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra; Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Điều tra viên ngay từ khi phát hiện tội phạm và trong suốt quá trình điều tra; giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình điều tra; đề ra yêu cầu điều tra kịp thời, sát hợp với nội dung vụ án, đảm bảo cho quá trình điều tra được khách quan, toàn diện và đầy đủ theo quy định của pháp luật.

Ba là , tổ chức triển khai và thực hiện đúng quy định của Thông tư liên tịch số 06/2103 của Liên ngành Trung ương hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội ngay từ đầu.

Bốn là , để giúp cho việc đánh giá chứng cứ được thuận lợi, khoa học và hiệu quả, tránh để xảy ra oan, sai. Lãnh đạo Viện đã chỉ đạo từng Kiểm sát viên khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phải lập Bảng hệ thống chứng cứ, trong đó trích ghi lời khai của bị can, bị hại, nhân chứng, trích ghi các chứng cứ, tài liệu có liên quan; đánh giá chứng cứ buộc tội, gỡ tội. Qua đó, giúp Kiểm sát viên nắm chắt nội dung vụ án và đề xuất quan điểm giải quyết vụ án đúng pháp luật.

Năm là , duy trì thường xuyên mối quan hệ phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ với các cơ quan hữu quan nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả trong công tác phối hợp, đấu tranh phòng chống tội phạm.

tượng tên Tý (không xác định được). Trong ngày 12/10/2014, Mai nhận tịch đề của các đối tượng nêu trên. Cụ thể như sau:

  1. Nguyễn Trọng Sang 01 tịch với số tiền: 12.635đ ;
  2. Nguyễn Phúc Hậu 05 tịch với số tiền: 14.656đ. Trong số tiền này có 03 tịch đề số tiền 4.449đ của Trần Thị Thu Trang giao cho Hậu để Hậu giao cho Mai.
  3. 08 đối tượng không rõ lai lịch 08 tịch với tổng số tiền: 41.762đ. ( Số lượng con đề trong từng tịch đề mà Sang, Hậu, Trang giao cho Mai đều trên 10 người )

Nhưng thực tế Mai nhận tiền của các đối tượng là 47.992đ. Như vậy số tiền Mai tham gia đánh bạc với các con bạc với số tiền là 47.992đ.

Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan CSĐT ra quyết định khởi tố vụ án về tội “ Đánh bạc ” và tội “ Tổ chức đánh bạc ”; khởi tố bị can Nguyễn Thị Mai (chủ đề) về tội “ Tổ chức đánh bạc ” và tội “ Đánh bạc ”; khởi tố các bị can Nguyễn Trọng Sanh, Nguyễn Phúc Hậu, Trần Thị Thu Trang (là những người ghi đề giao lại cho Mai để hưởng hoa hồng) về tội Đánh bạc. Sau khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra đề nghị Viện kiểm sát truy tố các bị can theo các tội danh đã được khởi tố.

Sau khi thụ lý, nghiên cứu hồ sơ, Viện kiểm sát đã truy tố các bị can: Nguyễn Trọng Sang, Nguyễn Phúc Hậu, Trần Thị Thu Trang, Nguyễn Thị Mai về tội “ Đánh bạc”; đình chỉ Nguyễn Thị Mai về tội “Tổ chức đánh bạc”

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2015/HSST ngày 09/02/2015 tuyên xử các bị cáo Mai, Hậu, Sang, Trang về tội “Đánh bạc” như Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố.

Qua xem xét tính chất hành vi của từng bị can trong vụ án nêu trên nhận thấy:

  • Nguyễn Thị Mai thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức cầm cái số đề. Đề có số lượng con đề tham gia đánh bạc nhiều, ngoài việc Mai trực tiếp ghi đề với các con bạc, Mai còn thu gom các tịch đề thông qua các đối tượng Nguyễn Trọng Sang, Nguyễn Phúc Hậu, Trần Thị Thu Trang ghi của các con bạc khác mang về giao lại cho Mai để hưởng hoa hồng. Như vậy, Nguyễn Thị Mai là người cầm cái số đề; trực tiếp thu giữ và chi trả tiền thắng thua cho những người đánh đề thông qua người ghi tịch đề; đồng thời chi trả hoa hồng cho những người thu gom tịch đề của các con bạc mang về giao lại chi Mai. Mục đích của việc chuẩn bị các ông cụ phương tiện như: 01 máy fax, 01 Laptop, 04 điện thoại di động, 03 máy tính điện tử là để phục vụ cho việc đánh bạc dưới hình thức số đề, nhằm thắng thua, sát phạt nhau của chính Nguyễn Thị Mai (chủ đề) và của các con bạc đã ghi đề với Mai. Và trong trò chơi đỏ đen này, nếu con bạc thắng nhiều thì bản thân Mai sẽ bị thua và ngược lại, ngoài ra Mai không có động cơ mục đích nào khác. Đánh bạc trái phép là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật. Như vậy, Nguyễn Thị Mai đã thể hiện ý thức chủ quan và thực hiện đầy đủ hành vi khách quan của tội Đánh bạc được quy định tại Điều 248 Bộ luật hình sự. Theo đó, Viện kiểm sát truy tố và Tòa án xét xử Mai cùng đồng phạm theo Điều 248 là có căn cứ, đúng pháp luật. Do vậy, chúng tôi đồng tình với quan điểm truy tố, xét xử Nguyễn Thị Mai cùng đồng bọn về tội “ Đánh bạc”, trong đó Mai là giữ vai trò là người chủ mưu, cầm đầu.

Vụ án thứ hai Khoảng 17 giờ 00 ngày 13/12/2013, Cơ quan điều tra phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Thị Phụng đang giao tịch đề cho Trương Ngọc Anh với tổng số tiền thể hiện trên tịch đề là 9.239đ.

Như vậy, Nguyễn Thị Phụng đã tổ chức ghi đề 34 lần với tổng số tiền là 156.328đ, trong đó thực chuyển cho nhà cái Nguyễn Thị Cao Nguyên với tổng số tiền 102.961đ , hưởng hoa hồng 13.926đ. Riêng số tiền ghi ngày 13/12/2013 Phụng chưa kịp giao cho nhà cái thì bị bắt quả tang.

Với hành vi trên, Cơ quan điều tra đã khởi tố và Viện kiểm sát đã truy tố: Nguyễn Thị Phụng (người ghi đề) về tội “Tổ chức đánh bạc ” quy định tại Điều 249 BLHS; khởi tố và truy tố Trương Ngọc Anh (người chuyển tịch đề từ Phụng cho Nguyên) và Nguyễn Thị Cao Nguyên (nhà cái) về tội “ Đánh bạc ”

Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2014/HS-ST ngày 22.5 của Tòa án nhân dân huyên A đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Phụng phạm tội “ Tổ chức Đánh bạc ”; các bị cáo Trương Ngọc Anh, Nguyễn Thị Cao Nguyên phạm tội “ Đánh bạc ”.

  • Áp dụng Khoản 1, Điều 249 , Điểm b, g, p Khoản 1 Điều 46, Điểm g, Khoản 1, Điều 48, Điều 47 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Phụng 06 tháng tù.
  • Áp dụng Khoản 1, Điều 248 , Điểm b, g, p Khoản 1 Điều 46, Điểm g, Khoản 1, Điều 48 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Cao Nguyên 03 tháng tù.
  • Áp dụng Khoản 1, Điều 248, Điểm b, g, p Khoản 1 Điều 46, Điểm g, Khoản 1, Điều 48, Điều 60 BLHS xử phạt bị cáo Trương Ngọc Anh 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Ngoài ra bản án còn tuyên các nội dung về xử lý vật chứng, tịch thu tài sản do phạm tội mà có, án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Cao Nguyên kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số: 159/2014/HSPH ngày 17.7 của TAND tỉnh Bình Định đã nhận định: Bị cáo Nguyễn Thị Phụng là người trực tiếp bán số đề, bị cáo Nguyễn Thị Cao Nguyên là người cầm cái, bị cáo Trương Ngọc

Anh là người giao nhận tịch đề và chi trả tiền thắng – thua giữa Nguyên và Phụng để Phụng chung cho các con bạc. Các bị cáo đã tổ chức đánh bạc và đánh bạc bằng hình thức số đề. Đồng thời bản án phúc thẩm khẳng định việc cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Thị Cao Nguyên về tội “Đánh bạc” là có căn cứ , nhưng do bị cáo có nhân thân tốt nên cấp phúc thẩm đã sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận kháng cáo của bị cáo cho bị cáo hưởng án treo.

Qua xem xét nội dung vụ án, hành vi của từng đối tượng và kết quả giải quyết của các cơ quan tiến hành tố tụng, Chuyên đề nhận thấy:

Bản chất của vụ án trên là hành vi đánh bạc bằng hình thức số đề giữa một bên là Nguyễn Thị Cao Nguyên và một bên là các con đề , Nguyễn Thị Phụng và Trương Ngọc Anh chỉ là trung gian với vai trò người giúp sức cho hành vi đánh bạc giữa các con đề với chủ đề (Nguyễn Thị Cao Nguyên). Phụng và Anh chỉ thực hiện việc ghi tịch, chuyển tiền giữa các con bạc để hưởng hoa hồng và tiền công. Trong “cuộc chơi” này, việc khởi xướng, quyết định rủ rê (nếu có) thì phải xuất phát từ Nguyễn Thị Cao Nguyên chứ không phải từ Trương Ngọc Anh hay Nguyễn Thị Phụng. Theo đó, hành vi của Anh và Phụng không tồn tại dấu hiệu tổ chức.

Từ sự phân tích trên cho thấy: Mặc dù Nguyễn Thị Cao Nguyên có hành vi rủ rê Nguyễn Thị Phụng, Trương Ngọc Anh ghi đề để phục vụ nhu cầu đánh bạc của Nguyên. Như vậy, Nguyên mới là người tổ chức đánh bạc ( nếu có – tức nếu thõa mãn các dấu hiệu đặc trưng của tội Tổ chức đánh bạc ). Tuy nhiên việc rủ rê này là nhằm thõa mãn nhu cầu đánh bạc của bản thân Nguyên với các con đề Do vậy, hành vi của Nguyên đã phạm tội đánh bạc. Theo đó, Nguyễn Thị Phụng và Trương Ngọc Anh cùng đồng phạm về tội đánh bạc với vai trò giúp sức trong vụ án.

Tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc khác nhau như thế nào?

So sách điểm khác nhau giữa tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc. Đánh bạc là tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào. Tội đánh bạc là tội xâm phạm đến trật tự nếp sống văn minh của xã hội, vì tội đánh bạc cũng là một tệ nạn của xã hội.

Như thế nào là tội tổ chức đánh bạc?

Tội tổ chức đánh bạc là hành vi tham gia đánh bạc với tư cách là chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi, có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào.

Tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc bao nhiêu năm tù?

4. Khung hình phạt đối với tội tổ chức đánh bạc. - Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự 2015 thì người phạm tội tổ chức đánh bạc có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Tổ chức đánh bạc qua mạng bị phạt như thế nào?

Phạt tù từ 3 - 7 năm với các trường hợp đánh bạc: có tính chất chuyên nghiệp; tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50 triệu đồng trở lên; sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; tái phạm nguy hiểm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 - 50 triệu đồng.