So sánh ib và a level
Mã lớpTên lớpMônĐịa điểmSố buổi / tuầnHọc phíGiáo viên đã nhận lớpC_21IGCSE MathIGCSE MathQuận 23 sessions / week - 1.5 h / session - 17:00 - 18:30XemC_20ACT Test PrepACT Test PrepQuận 22 buổi/tuần - 1.5 h/buổi - 10:30 - 12:00XemC_19SAT Subject – LiteratureSAT Subject - LiteratureDist 22 sessions/week - 1.5 h/session- 08:00 - 09:30XemC_18A-level PhysicsA - level PhysicsDist 23 sessions/week - 1.5h/session- Tue, Thu (10h30 - 12h00), Sat (13h30 - 15h00)XemC_17IB Physics SLIB Physics SLDistrict 22 buổi/tuần - 1.5h/buổi - 15h30 - 17h00Xem Show error: Content is protected !! Về định nghĩa, A-level là chương trình trung học quốc gia trong khi IB là bằng trung học quốc tế, IB được áp dụng phổ biến thậm chí còn được thay thế cho chương trình trung học của nước khác, ví dụ như Hy lạp. Tại Anh, chương trình học THPT phổ biến nhất là A level, tuy nhiên vẫn có một số trường trung học tại Anh cũng cấp chương trình IB cho học sinh. Điểm khác biệt Chương trình IB Chương trình Alevels Số môn học 6 môn 6 nhóm bao gồm: ngôn ngữ và văn học, ngôn ngữ, cá nhân và xã hội, khoa học, toán và nghệ thuật. Phải học 3 - 4 môn bậc cao và còn lại là các môn bậc cơ bản. Được đánh giá là không linh hoạt nhưng giúp sinh viên phát triển toàn diện 3 môn A level thì cho hcoj sinh học 3 môn học và học sinh được thoải mái lựa chọn bất cứ môn học nào mà họ thích. Được đánh giá là có tính linh hoạt hơn. Cách tính điểm Đánh giá điểm bằng số: 1- 7 Trong đó 7 là cao nhất. Tổng điểm cao nhất là 45 (trong đó có 3 điểm của bài thi TOK) Đánh giá điểm bằng chữ: A*, A – E. A* là cao nhất Điểm cao nhất là A* trên tất cả các môn học. Học sinh phải chọn học tối thiểu là 3 môn, còn có thể chọn tối đa là 5 môn. Số năm học 2 năm 2 năm Áp dụng Áp dụng được rộng rãi ở quốc tế Độ phổ biến ngày càng cao. Rất phổ biến ở Anh Hình thức học Học sinh sẽ lên lớp nhiều hơn, tham gia nhiều giờ học hơn Được đánh giá là có workload nặng hơn Học sinh sẽ tự học nhiều, dưới sự hướng dẫn của giáo viên Chứng chỉ nào được sử dụng rộng rãi hơn ở UK?Chứng chỉ A-level được sử dụng rộng rãi hơn vì là chương trình giáo dục của quốc gia. Năm 2014, tỷ lệ sinh viên học IB chỉ chiếm ít hơn 1% (4800 học sinh trên tổng số 700,000 học sinh trung học IB hay Alevel là học khó hơn?Chương trình IB được cho là khó hơn chương trình Alevel. Ngoài 6 môn học, các học sinh IB còn cần tham gia các hoạt động ngoại khoá để lấy bằng, bài kiểm tra TOK (Theory of Knowledge), và bài luận. Trong chương trình Alevel, học sinh có thể biết điểm dự đoán sau khi kết thúc 1 năm, và có thể cải thiện điểm số ở năm thứ 2. Nếu so sánh ở cùng một học sinh A level đạt điểm số ABB/A*A*A* ngang với học sinh IB đạt điểm số khoảng 30/45 thì khả năng được nhận vào đại học của bạn học Alevel là cao hơn bạn IB. Ví dụ, 2A* và 1 A thường là điểm số để có thể được nhận vào Cambridge hay Oxford thì học sinh phải đạt được 40 điểm của IB, có nghĩa là phải đạt điểm 7 trên 6 môn học IB. Như vậy, khi nào một học sinh nên chọn IB thay vì Alevel:
Khi nào nên chọn Alevel thay vì IB:
Dù là chương trình IB hay Alevel, Nam Phong cũng đều có hệ thống trường có cung cấp học bổng cho học sinh. Cùng tham khảo các trường dưới đây. IB và AA-levels là chứng chỉ được công bố từ hệ thống THPT quốc gia tại Vương Quốc Anh, trong khi đó, IB là chứng chỉ quốc tế áp dụng cho mọi quốc gia, và được công nhận phổ biến hơn so với A-Levels. Chương trình IB và áp là gì?Các học sinh trung học có kết quả học tập tốt có thể tham gia hai chương trình học nâng cao với những cái tên viết tắt: AP (Advanced Placement test) tức là học và thi các môn của trình độ đại học, còn IB là Chương trình học bằng Tú tài Quốc tế. Chương trình học AA-Level, Advanced Level, hay cụ thể hơn GCEA level là viết tắt của General Certificate of Education Advanced Level (Chứng chỉ Giáo dục Phổ thông Bậc Cao). Đây là một chứng chỉ được cấp bởi các trường tại Anh, Xứ Wales, và Bắc Ireland cho học sinh khoảng 16 – 19 tuổi trước khi thi vào đại học. Học hè IB là gì?IB – International Baccalaureate (Tú tài quốc tế) là chương trình giáo dục phi lợi nhuận của Tổ chức Tú tài Quốc tế thành lập tại Thụy Sĩ năm 1968, chú trọng phát triển 4 khía cạnh: trí tuệ, cá nhân, cảm xúc, các kỹ năng mềm nhằm phát triển khả năng học tập cũng như làm việc trong môi trường toàn cầu hóa. |