So sánh các loại nguồn của pháp luật
Giới thiệu chung Hệ thống pháp luật lục địa (Continetal Law), hệ thống Luật dân sự (Civil Law), hay gọi đơn giản hơn là hệ thống pháp luật Pháp – Đức: Đây là hệ thống pháp luật có nền tảng bắt nguồn từ hệ thống pháp luật của Pháp và pháp luật của một số nước lục địa Châu Âu. Trong đó pháp luật của Pháp là quan trọng nhất và có ảnh hưởng lớn tới pháp luật của các nước khác trong hệ thống pháp luật này. Hệ thống pháp luật của các nước này nhìn chung đều chịu ảnh hưởng của Luật La Mã. Ngày nay, phạm vi ảnh hưởng của hệ thống Civil Law tương đối rộng bao gồm các nước Châu Âu lục địa (Pháp, Đức, Italia...), Quebec (Canada), Louisiana (Mỹ), Nhật Bản và một số nước Châu Mỹ Latinh (Brazin, Vênêduêla...). Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Civil Law)
Luật lục địa có nghĩa đen là “công dân của nước Ý”, của thành phố Romaào thời kì đế chế La Mã (trước Công nguyên), tức là khi thuật ngữ này ra đời, nó chỉ được áp dụng cho công dân thành phố Roma. Trong giai đoạn phát triển, đế quốc La Mã đã tiến hành xâm lược và biến hầu hết các bộ tộc trong khu vực Tây Âu lục địa trở thành thuộc địa của mình với chính sách đô hộ kéo dài trong suốt 04 thế kỉ. Quá trình đô hộ đã kéo theo sự du nhập và ảnh hưởng sâu sắc của Luật La Mã) đến khu vực này. Tuy nhiên, đến năm 476, các nhà lãnh đạo Odoacer của Đức tổ chức một cuộc nổi dậy lật đổ sự thống trị của Hoàng đế Romulus Augustulus. Từ đó trở về sau, không có hoàng đế La Mã nào cai trị ở vùng đất Italy. Năm 476 được coi là năm đế chế Tây La Mã tan rã và sụp đổ.Trong khi đó, đế chế Đông La Mã vẫn còn tồn tại. Ở giai đoạn này, các tập quán địa phương chiếm ưu thế trên khắp châu Âu lục địa, có thể kể đến như các luật tập quán của Pháp, Đức, các dân tộc Slavian và nổi bật là bộ luật 12 bảng của người La Mã. Luật La Mã có ảnh hưởng bao trùm lên châu Âu, đặc biệt dưới thời hoàng đế Đông La Mã Justinian, đến năm 528 ông đã ra lệnh hệ thống hóa và củng cố luật La Mã, và đã tạo nên được công trình pháp luật lớn mang tên Corpus Juris Civilist (Tập hợp các chế định luật dân sự). Đây được coi là một trong những tiền đề đầu tiên ảnh hưởng đến việc hình thành hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Mặc dù giai đoạn này có xuất hiện pháp luật, nhưng pháp luật vẫn được đánh giá là còn khá giản đơn, lẫn lộn giữa quy phạm đạo đức, tôn giáo. Kể từ khi đế quốc La Mã tan rã, hệ thống pháp luật của các quốc gia ở châu Âu trở nên rời rạc, không thống nhất, sử dụng nhiều nguồn luật khác nhau để điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong đó luật tập quán đóng vai trò như một nguồn luật chủ yếu.
Từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVIII, thông qua các việc nghiên cứu, giảng dạy Luật La Mã, các trường đại học ở châu Âu đã có những đóng góp lớn cho việc Xây dựng một hệ thống pháp luật chung cho châu Âu lục địa đó là Jus commune. Trong giai đoạn này xuất hiện 5 trường phái:
Napoleon tại các Điều 645, 663, 671, 674 đã dẫn đến việc áp dụng các tập quán địa phương trong lĩnh vực sở hữu đất đai, sử dụng nguồn nước, hàng rào phân cách, trồng cây gần giới hạn đất láng giềng, các công trình xây dựng liền kề đất người bên cạnh. b. Án lệ Trong các hệ thống pháp luật thuộc Civil Law, án lệ không được coi là nguồn cơ bản như pháp luật thành văn bởi theo quan điểm lí luận phổ biến của các hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, án lệ đưa ra những giải pháp không chắc chắn, có thể bị hủy bỏ, sửa đổi bất cứ lúc nào và luôn bị phụ thuộc vào vụ việc mới. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của pháp luật, ý nghĩa quan trọng của án lệ được thừa nhận và chứng minh. Trong xu hướng hội tụ, các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law sẽ ngày càng coi trọng phán quyết của tòa án. Điều này thể hiện ở hai điểm:
thể ban hành) có hiệu lực thấp hơn luật, tuy nhiên có những sắc lệnh được ban hành thuộc lĩnh vực luật theo sự uỷ quyền của nghị viện thì có hiệu lực như luật gọi là sắc lệnh - luật.
vùng lãnh thổ đã tiếp nhận các chế định pháp luật thuộc dòng họ Civil Law và xây dựng theo hình mẫu của châu Âu. Các nước châu Mỹ Latin thông qua các bộ luật lớn theo mô hình của Pháp. Luật của Bồ Đào Nha và Italia cũng chịu ảnh hưởng của Pháp, Đức. Những bộ luật dân sự thế kỷ 19 thì gần hơn với Bộ luật Napoleon và những bộ luật dân sự thế kỷ 20 thì lại giống với luật dân sự của Đức. Luật ở Hà Lan hay dân luật ở Hà Lan thì rất khó để xếp vào một nhóm nào, nhưng cũng phải thừa nhận rằng Luật dân sự của Hà Lan có ảnh hưởng không nhỏ đến luật tư hiện đại của nhiều quốc gia. 3. Châu Phi Pháp luật châu Âu lục địa phổ biến là do trước khi người Tây Âu đô hộ những nước này không có hệ thống pháp luật phát triển nên họ dễ dàng tiếp nhận pháp luật của người đô hộ. Một số nước khác thuộc Liên hiệp Anh nhưng vẫn chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật này như Mavriky và quần đảo Ceishel. Ngoài ra, Bắc phi cũng chịu ảnh hưởng do tiếp nhận các đạo luật của Pháp, Ý Về nghề luật Civil Law
điều tra, tuy nhiên lại chỉ tham gia xét xử căn cứ chủ yếu vào luật thành văn mà không tham gia lập pháp, không được sáng tạo ra các quy phạm. pháp luật và các chế định. Thẩm phán được đào tạo theo một quy trình riêng biệt, không phải là các luật sư. Họ đưa ra phán quyết xuất phát từ luật thành văn kết hợp với sự kiện. Trong Civil Law, luật sư chỉ tham gia tranh tụng tại phiên tòa dựa trên cơ sở những minh chứng, chứng cứ tự mình thu thậpđược. Common Law
năng cơ bản là phán xử và giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền, vừa là người sáng tạo luật, vừa là người giải thích và áp dụng luật. Thẩm phán được chọn từ các luật sư nổi tiếng chứ không qua chương trình đào tạo riêng. Họ đưa ra phán quyết dựa trên bản chất sự việc.
viên Về nguồn luật Civil Law
thành những người thẩm phán chuyên nghiệp. “common law” phát triển nhờ đội ngũ thẩm phán này. (4) Sự phát triển của hệ thống trát (writ system) gắn liền. Trát là văn bản hành chính dưới dạng một bức thư, được chứng thực bằng dấu đóng trên trát, được dùng vào mục đích hành chính và tư pháp. Vua cấp trát nghĩa là vua ra lệnh cho bên có liên quant hi hành công lí ngay lập tức với các bên đương sự có tên trong trát. Vua không trực tiếp cấp trát mà ủy quyền cho viên Đại pháp quan. Theo thời gian, đơn xin cấp trát được gửi trực tiếp cho viên Đại pháp quan. Hệ thống trát Hoàng gia đã được sử dụng ở nước Anh trước cuộc chinh phục của người Norman. Thời xa xưa, người dân bất bình vì đất đai của mình bị lấn chiếm thường tìm đến Nhà vua để xin được bồi thường. Nếu thuyết phục được, Nhà vua sẽ ra lệnh cho bên có liên quan trả lại đất cho bên thưa kiện → Việc phát hành trát tiến hành sau khi Nhà vua chỉ được nghe trình bày từ một phía và bên bị không có cơ hội giải thích. Sự khiếm khuyến này đã được sửa đổi → Việc cưỡng chế thi hành giải pháp pháp lí chỉ sau khi bên bị không chứng minh được mảnh đất có liên quan thuộc quyền sở hữu chính đáng của mình hoặc bên nguyên chứng minh được rằng đã bị bên bị tước đoạt mảnh đất một cách vô lí. Mỗi loại khiếu kiện sẽ có một loại trát tương ứng. Nếu không có trát thích hợp với bản chất vụ việc, tòa án có quyền bác đơn khiếu kiện của bên nguyên. Ban đầu, có 3 hình thức khởi kiện ứng với 3 loại trát được lưu hành: (i) trát khởi kiện về BĐS, (ii) trát khởi kiện cá nhân, (iii) trát hỗn hợp dùng để khởi kiện vụ việc thuộc cả 2 loại (i) và (ii). Đến thế kỉ XIII, số lượng trát lưu hành đã tăng đáng kể. Mỗi khi có đơn khiếu kiện về hành vi sai trái nào đó mà không có sẵn loại trát thích hợp, Đại pháp quan phải tạo ra trát mới. (5) Common law không được tìm thấy trong các bộ luật, đạo luật, trong các bản chuyên luận về luật của các học giả pháp lí mà tìm thấy trong phán quyết của các thẩm phán, nghĩa là được tìm thấy trong tập hợp tiền lệ pháp được tích lũy qua nhiều năm. Người Anh cho rằng luật do các thẩm phán làm ra là nguồn duy nhất và quan trọng nhất. Do được hình thành sớm hơn so với nhiều hệ thống pháp luật ở Châu Âu lục địa, hệ thống pháp luật Anh đã phát triển một cách tập trung và hiện đại hóa trong khi các nước Châu Âu lục địa khác còn đang dò tìm trong luật La Mã những quy phạm thích hợp để áp dụng cho nước mình. Luật La Mã ít có ảnh hưởng đối với hệ thống pháp luật Anh. Một số ảnh hưởng dễ nhận thấy là: sự phân chia thành luật công và luật tư ở Anh trước đây; sự tồn tại của các pháp quan La Mã và hình thức khởi kiện ở Anh được cho có xuất xứ từ hệ thống pháp luật La Mã: tòa án La Mã chỉ giải quyết vụ việc khi bên nguyên được viên pháp quan cấp cho đơn khiếu kiện tương tự như ở Anh bên nguyên phải giành được trát. Ngoài ra số lượng đơn khiếu kiện (La Mã) hay trát (Anh) đều bị hạn chế. Toà án tối cao Ở Mỹ, Toà án tối cao liên bang là cấp xét xử cao nhất, và thực sự có quyền lực tối cao trong hệ thống tư pháp liên bang. Cấp toà án này ngoài tư cách là cơ quan xét xử cuối cùng, còn được biết đến với tư cách là nhà lập sách (lập các chính sách), và xem xét tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, các hành vi của chính phủ. Như vậy tính tối cao của Toà án tối cao ở Anh nghiêng về hình thức nhiều hơn. Khi cơ cấu của Toà án được tổ chức lại, có thể phạm vi quyền lực và thẩm quyền xét xử của Toà tối cao của Anh sẽ tương đương với Toà án tối cao liên bang của Mỹ. Khối lượng công việc của Toà án tối cao tại Mỹ có thể không nhiều bằng tại Anh, bởi trước khi vụ việc được đưa lên cấp tối cao, phải qua nhiều cấp phúc thẩm tại từng bang riêng biệt, phúc thẩm tại cấp liên bang, rồi mới tới cấp tối cao. Chính sự phân chia này làm tăng hiệu quả trong hoạt động xét xử của ngành tư pháp Hoa Kì. Toà án tối cao Toà tối cao ở Anh là sự hợp nhất của Toà phúc thẩm, Toà cấp cao và Toà hình sự trung ương. Trước đây, khác với ở Mỹ, toà án tối cao ở Anh không phải là cấp cao nhất trong hệ thống tư pháp. Tuy nhiên khi những điều khoản trong Luật cải tổ Hiến Pháp có hiệu lực vào tháng 10 năm 2009 thì Toà án tối cao sẽ được cơ cấu lại, và phạm vi thẩm quyền của nó sẽ mang đúng nghĩa là cấp xét xử cao nhất, các phán quyết sẽ mang tính chất quyết định cuối cùng trong hệ thống pháp luật An Câu 17: So sánh các đặc điểm của pháp luật Anh và pháp luật Hoa Kỳ. Trả lời: - Giống: + Cùng họ pháp luật common law. + Coi trọng vai trò của thẩm phán, án lệ. + Thủ tục tố tụng tranh tụng.
Phân tích các loại nguồn và giá trị của từng loại nguồn của pháp luật Anh. Trả lời: Các loại nguồn pháp luật của Anh: a. Án lệ: - Những nguyên tắc pháp lý rút ra từ những phán quyết của toà do thẩm phán sáng tạo ra, cung cấp tiền lệ hay cơ sở pháp lý để các thẩm phán giải quyết vụ việc có tình tiết tương tự trong hiện tại và tương lai. - Sản phẩm của cơ quan tư pháp. - Nguyên tắc stare decisis: Toà án cấp |