So sánh các loại nguồn của pháp luật

Giới thiệu chung Hệ thống pháp luật lục địa (Continetal Law), hệ thống Luật dân sự (Civil Law), hay gọi đơn giản hơn là hệ thống pháp luật Pháp – Đức: Đây là hệ thống pháp luật có nền tảng bắt nguồn từ hệ thống pháp luật của Pháp và pháp luật của một số nước lục địa Châu Âu. Trong đó pháp luật của Pháp là quan trọng nhất và có ảnh hưởng lớn tới pháp luật của các nước khác trong hệ thống pháp luật này. Hệ thống pháp luật của các nước này nhìn chung đều chịu ảnh hưởng của Luật La Mã. Ngày nay, phạm vi ảnh hưởng của hệ thống Civil Law tương đối rộng bao gồm các nước Châu Âu lục địa (Pháp, Đức, Italia...), Quebec (Canada), Louisiana (Mỹ), Nhật Bản và một số nước Châu Mỹ Latinh (Brazin, Vênêduêla...). Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Civil Law)

  1. Giai đoạn pháp luật tập quán (trước thế kỉ XIII)

Luật lục địa có nghĩa đen là “công dân của nước Ý”, của thành phố Romaào thời kì đế chế La Mã (trước Công nguyên), tức là khi thuật ngữ này ra đời, nó chỉ được áp dụng cho công dân thành phố Roma. Trong giai đoạn phát triển, đế quốc La Mã đã tiến hành xâm lược và biến hầu hết các bộ tộc trong khu vực Tây Âu lục địa trở thành thuộc địa của mình với chính sách đô hộ kéo dài trong suốt 04 thế kỉ. Quá trình đô hộ đã kéo theo sự du nhập và ảnh hưởng sâu sắc của Luật La Mã) đến khu vực này. Tuy nhiên, đến năm 476, các nhà lãnh đạo Odoacer của Đức tổ chức một cuộc nổi dậy lật đổ sự thống trị của Hoàng đế Romulus Augustulus. Từ đó trở về sau, không có hoàng đế La Mã nào cai trị ở vùng đất Italy. Năm 476 được coi là năm đế chế Tây La Mã tan rã và sụp đổ.Trong khi đó, đế chế Đông La Mã vẫn còn tồn tại.

Ở giai đoạn này, các tập quán địa phương chiếm ưu thế trên khắp châu Âu lục địa, có thể kể đến như các luật tập quán của Pháp, Đức, các dân tộc Slavian và nổi bật là bộ luật 12 bảng của người La Mã. Luật La Mã có ảnh hưởng bao trùm lên châu Âu, đặc biệt dưới thời hoàng đế Đông La Mã Justinian, đến năm 528 ông đã ra lệnh hệ thống hóa và củng cố luật La Mã, và đã tạo nên được công trình pháp luật lớn mang tên Corpus Juris Civilist (Tập hợp các chế định luật dân sự). Đây được coi là một trong những tiền đề đầu tiên ảnh hưởng đến việc hình thành hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Mặc dù giai đoạn này có xuất hiện pháp luật, nhưng pháp luật vẫn được đánh giá là còn khá giản đơn, lẫn lộn giữa quy phạm đạo đức, tôn giáo. Kể từ khi đế quốc La Mã tan rã, hệ thống pháp luật của các quốc gia ở châu Âu trở nên rời rạc, không thống nhất, sử dụng nhiều nguồn luật khác nhau để điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong đó luật tập quán đóng vai trò như một nguồn luật chủ yếu.

  1. Giai đoạn phát triển luật thành văn (thế kỉ XIII đến cuối thế kỉ XVIII)

Từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVIII, thông qua các việc nghiên cứu, giảng dạy Luật La Mã, các trường đại học ở châu Âu đã có những đóng góp lớn cho việc Xây dựng một hệ thống pháp luật chung cho châu Âu lục địa đó là Jus commune. Trong giai đoạn này xuất hiện 5 trường phái:

  • Trường phái của các giáo sư luật: xuất hiện từ thế kỷ XIII ở Bologna – nơi tập trung hàng ngàn sinh viên từ khắp châu Âu. Các giáo sư làm công việc tìm hiểu và giải thích ý nghĩa ban đầu của Corpus Juris Civilis.
  • Trường phái các nhà bình luận: xuất hiện thế kỷ XIII-XIV ở Italia. Các luật gia đã không còn tìm hiểu và giải thích ý nghĩa ban đầu của Corpus Juris mà tìm cách giải thích nó sao cho phù hợp với đòi hỏi của xã hội đương thời. Trường phái này đã biến Luật La Mã thành nền tảng của khoa học pháp lý châu Âu.
  • Trường phái nhân văn: xuất hiện ở Pháp vào thế kỉ XV. Trường phái này cố gắng phục hồi nguyên gốc luật La Mã
  • Trường phái các nhà pháp điển hiện đại: xuất hiện ở Đức thế kỷ XVI. Trường phái này quan tâm đến việc làm thế nào để áp dụng các quy phạm pháp luật trong thực tiễn, làm cho nó không mâu thuẫn với tập quán pháp ở Đức
  • Trường phái luật tự nhiên: xuất hiện ở Đức thế kỷ XVII-XVIII. Trường phái này phản đối quan niệm cho rằng trật tự xã hội do Thượng đế quyết định và khẳng định: bên cạnh pháp luật nhà nước còn có pháp luật tự nhiên. Pháp luật nhà nước có thể phản ánh đúng hoặc sai so với luật tự nhiên III. Các đặc trưng của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa
  • Hình thức của pháp luật Đặc trưng về hình thức pháp luật ở mỗi dòng họ pháp luật chịu ảnh hưởng và được quy định bởi nguồn gốc của các chính họ pháp luật đó .3 hình thức pháp luật trong hệthống pháp luật Châu Âu lục địa: tập quán pháp, án lệ và pháp luật thành văn a. Tập quán pháp Hệ thống pháp luật Civil Law thừa nhận tập quán pháp là những quy tắc xử sự hình thành một cách tự phát tồn tại từ lâu đời, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và mang tính bắt buộc chung như quy phạm pháp luật. Giai đoạn hình thành hình thức pháp luật này còn lẫn lộn giữa các các quy phạm đạo đức, tôn giáo. Luật pháp chịu ảnh hưởng sâu sắc của các tư tưởng tôn giáo, cùng với trình độ dân trí thấp, điều kiện xã hội chưa phát triển, do đó các văn bản pháp luật còn chưa được hoàn chỉnh và kỹ thuật xây dựng chưa cao. Bản chất của tập quán pháp được dựa trên hai yêu tố:
  • Yếu tố khách quan: việc các xử sự, thái độ, hành vi đã trở thành thói quen một cách tự nhiên.
  • Yếu tố chủ quan: chủ thể pháp luật cho rằng thói quen đó mang tính bắt buộc (chấp nhận nó là luật). b. Án lệ

Napoleon tại các Điều 645, 663, 671, 674 đã dẫn đến việc áp dụng các tập quán địa phương trong lĩnh vực sở hữu đất đai, sử dụng nguồn nước, hàng rào phân cách, trồng cây gần giới hạn đất láng giềng, các công trình xây dựng liền kề đất người bên cạnh. b. Án lệ Trong các hệ thống pháp luật thuộc Civil Law, án lệ không được coi là nguồn cơ bản như pháp luật thành văn bởi theo quan điểm lí luận phổ biến của các hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, án lệ đưa ra những giải pháp không chắc chắn, có thể bị hủy bỏ, sửa đổi bất cứ lúc nào và luôn bị phụ thuộc vào vụ việc mới. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của pháp luật, ý nghĩa quan trọng của án lệ được thừa nhận và chứng minh. Trong xu hướng hội tụ, các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law sẽ ngày càng coi trọng phán quyết của tòa án. Điều này thể hiện ở hai điểm:

  • Thứ nhất, từ thế kỷ XIX, cơ chế bảo hiến đã ra đời, do đó đã tồn tại các tổ chức bảo hiến (ở Đức là Tòa án bảo hiến).
  • Thứ hai, trong quá trình xét xử, để đảm bảo sự thống nhất trong việc xét xử, đảm bảo tính đúng đắn về chuyên môn nghiệp vụ cũng như thể hiện sự tôn trọng phán quyết của tòa cấp trên, tòa cấp dưới luôn có xu hướng tham khảo những bản án đã được tuyên, căn cứ vào đó để đưa ra quyết định cho vụ án cụ thể của mình. c. Pháp luật thành văn Pháp luật thành văn vẫn được coi là nguồn quan trọng nhất trong hệ thống các nguồn pháp luật. Nguồn pháp luật thành văn trong dòng họ Civil Law bao gồm các loại văn bản sau đây:
  • Hiến pháp: Đạo luật cơ bản của nhà nước là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất do nghị viện ban hành. Ở một số nước sau khi hai viện thông qua còn phải lấy trưng cầu dân ý, hiến pháp chỉ được thông qua khi được đa số cử tri bỏ phiếu thuận (ví dụ: Hiến pháp năm 1958 của Cộng hoà Pháp
  • Các công ước quốc tế: Các công ước quốc tế thông thường được kí kết khi không trái với hiến pháp quốc gia, trong trường hợp cần thiết thì phải sửa đổi hiến pháp trước khi kí kết điều ước quốc tế.
  • Bộ luật: Lúc mới ra đời bộ luật có nghĩa là tuyển tập những luật khác nhau. Hiện nay, thuật ngữ bộ luật được sử dụng rộng rãi để chỉ các văn bản luật tổng hợp và trình bày có hệ thống các quy phạm điều chỉnh một lĩnh vực các quan hệ xã hội nhất định.
  • Luật: Luật là những văn bản quy phạm pháp luật do nghị viện ban hành theo một trình tự, thủ tục nhất định và phải được đa số nghị sĩ ở cả hai viện bỏ phiếu thuận. Luật bao gồm nhiều loại: luật tổ chức, luật tài chính, luật thông quan bằng hình thức trưng cầu ý dân, luật thông thường.
  • Sắc lệnh: do tổng thống ban hành (ở Pháp từ năm 1958 Thủ tướng cũng có

thể ban hành) có hiệu lực thấp hơn luật, tuy nhiên có những sắc lệnh được ban hành thuộc lĩnh vực luật theo sự uỷ quyền của nghị viện thì có hiệu lực như luật gọi là sắc lệnh - luật.

  • Nghị định: do Chính phủ ban hành trong lĩnh vực lập quy và có hiệu lực thấp hơn luật và sắc lệnh. Tuy nhiên, cũng có những nghị định do nghị viện uỷ quyền ban hành trong lĩnh vực luật
  • Quyết định: do tổng thống ban hành. Những quyết định này không cần các bộ trưởng liên quan tiếp kí ban hành. d. Học thuyết Trong quá khứ học thuyết từng là nguồn chính của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Tuy nhiên, sự thắng lợi của các tư tưởng dân chủ tư sản và sự ra đời của bộ luật cơ bản Pháp vào đầu thế kỉ XIX, sự thống trị của học thuyết được thay thế bằng sự thống trị của luật. Ngày nay, học thuyết mặc dù không còn là nguồn luật chính nhưng nó có vai trò tạo ra ngân hàng các khái niệm và tư duy pháp lý để các nhà lập pháp sử dụng. Một số nguồn học thuyết pháp lý trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa như:
  • Học thuyết chính trị pháp lý của I ở Đức: Theo Kant có ba loại pháp luật: pháp luật tự nhiên, pháp luật thực tế, và pháp luật công lý. Pháp luật tự nhiên là những nguyên tắc tiên nhiệm tất nhiên. Pháp luật thực tế, mà nguồn là những ý chí của người lập pháp. Pháp luật công lý là những đòi hỏi khát vọng không được pháp luật quy định và nó không được bảo đảm bằng cưỡng chế. e. Các nguyên tắc chung của pháp luật Một số nguyên tắc chung của Luật La Mã cổ đại được nhiều quốc gia lục địa Châu Âu thừa nhận: Affectio tua nomen imponit operi tuo- Động cơ của anh đặt tên cho hành vi của anh. Non bis in idem- Không ai bị xét xử về một tội phạm đã được kết án bằng một bản án đã có hiệu lực. Affectus punitur licet non sequatur affectus- Ý định cần phải bị trừng phạt mặc dù không đạt được mục đích. Affirmantis est probare- Ai khẳng định, người đó chứng minh.
  • Sự phân chia pháp luật thành công pháp và tư pháp: Bắt đầu từ TK XVII- XVIII, Châu Âu phân chia rành mạch luật công và luật tư. Thậm chí còn phân chia thành nhánh tòa Tư pháp và Nhánh tòa Hành chính.
  • Công pháp bao gồm những ngành luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong đó một bên chủ thể luôn luôn là nhà nước và bên còn lại là các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Công pháp bao gồm các ngành luật như: Luật hiến pháp, luật hành chính, luật hình sự, luật ngân hàng,...
  • Tư pháp bao gồm các ngành luật điều chỉnh quan hệ xã hội giữa các cá nhân,

vùng lãnh thổ đã tiếp nhận các chế định pháp luật thuộc dòng họ Civil Law và xây dựng theo hình mẫu của châu Âu. Các nước châu Mỹ Latin thông qua các bộ luật lớn theo mô hình của Pháp. Luật của Bồ Đào Nha và Italia cũng chịu ảnh hưởng của Pháp, Đức. Những bộ luật dân sự thế kỷ 19 thì gần hơn với Bộ luật Napoleon và những bộ luật dân sự thế kỷ 20 thì lại giống với luật dân sự của Đức. Luật ở Hà Lan hay dân luật ở Hà Lan thì rất khó để xếp vào một nhóm nào, nhưng cũng phải thừa nhận rằng Luật dân sự của Hà Lan có ảnh hưởng không nhỏ đến luật tư hiện đại của nhiều quốc gia. 3. Châu Phi Pháp luật châu Âu lục địa phổ biến là do trước khi người Tây Âu đô hộ những nước này không có hệ thống pháp luật phát triển nên họ dễ dàng tiếp nhận pháp luật của người đô hộ. Một số nước khác thuộc Liên hiệp Anh nhưng vẫn chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật này như Mavriky và quần đảo Ceishel. Ngoài ra, Bắc phi cũng chịu ảnh hưởng do tiếp nhận các đạo luật của Pháp, Ý

Về nghề luật Civil Law

  • Luật sư ít được coi trọng so với và thẩm phán trong hệ thống Civil Law.
  • Thẩm phán được giao quyền hạn rất lớn để có thể thực hiện thẩm vấn và

điều tra, tuy nhiên lại chỉ tham gia xét xử căn cứ chủ yếu vào luật thành văn mà

không tham gia lập pháp, không được sáng tạo ra các quy phạm. pháp luật và các

chế định. Thẩm phán được đào tạo theo một quy trình riêng biệt, không phải là các

luật sư. Họ đưa ra phán quyết xuất phát từ luật thành văn kết hợp với sự kiện.

Trong Civil Law, luật sư chỉ tham gia tranh tụng tại phiên tòa dựa trên cơ sở những

minh chứng, chứng cứ tự mình thu thậpđược.

Common Law

  • Common Law rất coi trọng luật sư và thẩm phán.- Thẩm phán có chức

năng cơ bản là phán xử và giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền, vừa là người

sáng tạo luật, vừa là người giải thích và áp dụng luật. Thẩm phán được chọn từ

các luật sư nổi tiếng chứ không qua chương trình đào tạo riêng. Họ đưa ra

phán quyết dựa trên bản chất sự việc.

  • Trong Common Law, luật sư có vai trò bình đẳng với thẩm phán và công tố

viên

Về nguồn luật Civil Law

  • Mức độ coi trọng nguồn pháp luật của dòng họ Civil Law lần lượt là: văn bản quy phạm pháp luật, tập quán pháp, án lệ, các học thuyết pháp lý, cuối cùng là các nguyên tắc pháp luật.
  • Civil Law coi trọng văn bản quy phạm pháp luật, đây là nguồn luật chính. Bên cạnh đó, dưới sự ảnh hưởng sâu sắc của luật La Mã, Civil Law cũng đề cao luật này. Đây là hai nguồn luật quan trọng nhất của hệ thống Civil Law.
  • Civil Law cho rằng tập quán pháp là những nguyên tắc xử sử đã hình thành và tồn tại từ lâu đời, mang tính bắt buộc chung.
  • Về án lệ, Civil Law nhận định đây là nguồn không chắc chắn và dễ bị thay đổi nên nó không mang tính chất bắt buộc. Tuy nhiên, với tính linh hoạt, ngày nay trong xu hướng hội tụ, án lệ với tính linh hoạt cao ngày càng được thừa nhận và áp dụng nhiều hơn nhằm khắc phục những nhược điểm cứng nhắc của nguồn luật chính - văn bản quy phạm pháp luật. Common Law
  • Mức độ coi trọng nguồn pháp luật của dòng họ Common Law lần lượt là: án lệ, luật thành văn, tập quán pháp, các nguồn khác.
  • Common Law thừa nhận án lệ là nguồn luật chính thức, mang tính bắt buộc. Điều này chi phối hệ thống luật pháp theo hướng các phán quyết đã tuyên bố của tòa án cấp trên có giá trị ràng buộc tòa án cấp dưới trong xét xử. - Common Law không coi trọng nguồn luật thành văn. Khi nhắc tới pháp luật thành văn là nguồn pháp luật, người ta sẽ nghĩ tới Hiến pháp hoặc các đạo luật, luật, văn bản dưới luật hoặc các điều ước quốc tế... Tuy nhiên, nguồn luật thành viên ngày nay ngày càng được coi trọng nhiều hơn, đặc biệt là đối với những lĩnh vực, vụ việc chưa có án lệ. Đây cũng là điều dĩ nhiên bởi trong thời kỳ hội nhập quốc tế, các quốc gia thuộc dòng họ Common Law đều phải thực hiện các cam kết quốc tế mà hộ đã tham gia và ký kết. Điều này phần nào góp phần bổ sung, hoàn thiện hơn hệ thống luật thành văn của dòng họ Common Law

thành những người thẩm phán chuyên nghiệp. “common law” phát triển nhờ đội ngũ thẩm phán này.

(4) Sự phát triển của hệ thống trát (writ system) gắn liền. Trát là văn bản hành chính dưới dạng một bức thư, được chứng thực bằng dấu đóng trên trát, được dùng vào mục đích hành chính và tư pháp. Vua cấp trát nghĩa là vua ra lệnh cho bên có liên quant hi hành công lí ngay lập tức với các bên đương sự có tên trong trát. Vua không trực tiếp cấp trát mà ủy quyền cho viên Đại pháp quan. Theo thời gian, đơn xin cấp trát được gửi trực tiếp cho viên Đại pháp quan.

Hệ thống trát Hoàng gia đã được sử dụng ở nước Anh trước cuộc chinh phục của người Norman. Thời xa xưa, người dân bất bình vì đất đai của mình bị lấn chiếm thường tìm đến Nhà vua để xin được bồi thường. Nếu thuyết phục được, Nhà vua sẽ ra lệnh cho bên có liên quan trả lại đất cho bên thưa kiện → Việc phát hành trát tiến hành sau khi Nhà vua chỉ được nghe trình bày từ một phía và bên bị không có cơ hội giải thích. Sự khiếm khuyến này đã được sửa đổi → Việc cưỡng chế thi hành giải pháp pháp lí chỉ sau khi bên bị không chứng minh được mảnh đất có liên quan thuộc quyền sở hữu chính đáng của mình hoặc bên nguyên chứng minh được rằng đã bị bên bị tước đoạt mảnh đất một cách vô lí. Mỗi loại khiếu kiện sẽ có một loại trát tương ứng. Nếu không có trát thích hợp với bản chất vụ việc, tòa án có quyền bác đơn khiếu kiện của bên nguyên.

Ban đầu, có 3 hình thức khởi kiện ứng với 3 loại trát được lưu hành: (i) trát khởi kiện về BĐS, (ii) trát khởi kiện cá nhân, (iii) trát hỗn hợp dùng để khởi kiện vụ việc thuộc cả 2 loại (i) và (ii).

Đến thế kỉ XIII, số lượng trát lưu hành đã tăng đáng kể. Mỗi khi có đơn khiếu kiện về hành vi sai trái nào đó mà không có sẵn loại trát thích hợp, Đại pháp quan phải tạo ra trát mới.

(5) Common law không được tìm thấy trong các bộ luật, đạo luật, trong các bản chuyên luận về luật của các học giả pháp lí mà tìm thấy trong phán quyết của các thẩm phán, nghĩa là được tìm thấy trong tập hợp tiền lệ pháp được tích lũy qua nhiều năm. Người Anh cho rằng luật do các thẩm phán làm ra là nguồn duy nhất và quan trọng nhất.

Do được hình thành sớm hơn so với nhiều hệ thống pháp luật ở Châu Âu lục địa, hệ thống pháp luật Anh đã phát triển một cách tập trung và hiện đại hóa trong khi các nước Châu Âu lục địa khác còn đang dò tìm trong luật La Mã những quy phạm thích hợp để áp dụng cho nước mình. Luật La Mã ít có ảnh hưởng đối với hệ thống pháp luật Anh. Một số ảnh hưởng dễ nhận thấy là: sự phân chia thành luật công và luật tư ở Anh trước đây; sự tồn tại của các pháp quan La Mã và hình thức khởi kiện ở Anh được cho có xuất xứ từ hệ thống pháp luật La Mã: tòa án La Mã chỉ giải quyết vụ việc khi bên nguyên được viên pháp quan cấp cho đơn khiếu kiện tương

tự như ở Anh bên nguyên phải giành được trát. Ngoài ra số lượng đơn khiếu kiện (La Mã) hay trát (Anh) đều bị hạn chế.

Toà án tối cao Ở Mỹ, Toà án tối cao liên bang là cấp xét xử cao nhất, và thực sự có quyền lực tối cao trong hệ thống tư pháp liên bang. Cấp toà án này ngoài tư cách là cơ quan xét xử cuối cùng, còn được biết đến với tư cách là nhà lập sách (lập các chính sách), và xem xét tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, các hành vi của chính phủ. Như vậy tính tối cao của Toà án tối cao ở Anh nghiêng về hình thức nhiều hơn. Khi cơ cấu của Toà án được tổ chức lại, có thể phạm vi quyền lực và thẩm quyền xét xử của Toà tối cao của Anh sẽ tương đương với Toà án tối cao liên bang của Mỹ. Khối lượng công việc của Toà án tối cao tại Mỹ có thể không nhiều bằng tại Anh, bởi trước khi vụ việc được đưa lên cấp tối cao, phải qua nhiều cấp phúc thẩm tại từng bang riêng biệt, phúc thẩm tại cấp liên bang, rồi mới tới cấp tối cao. Chính sự phân chia này làm tăng hiệu quả trong hoạt động xét xử của ngành tư pháp Hoa Kì.

Toà án tối cao Toà tối cao ở Anh là sự hợp nhất của Toà phúc thẩm, Toà cấp cao và Toà hình sự trung ương. Trước đây, khác với ở Mỹ, toà án tối cao ở Anh không phải là cấp cao nhất trong hệ thống tư pháp. Tuy nhiên khi những điều khoản trong Luật cải tổ Hiến Pháp có hiệu lực vào tháng 10 năm 2009 thì Toà án tối cao sẽ được cơ cấu lại, và phạm vi thẩm quyền của nó sẽ mang đúng nghĩa là cấp xét xử cao nhất, các phán quyết sẽ mang tính chất quyết định cuối cùng trong hệ thống pháp luật An

Câu 17: So sánh các đặc điểm của pháp luật Anh và pháp luật Hoa Kỳ.

Trả lời: - Giống: + Cùng họ pháp luật common law. + Coi trọng vai trò của thẩm phán, án lệ. + Thủ tục tố tụng tranh tụng.

  • Khác: + Mỹ là nhà nước liên bang nên tồn tại hai hệ thống pháp luật của Liên bang và tiểu bang, Anh chỉ có một vì là nhà nước đơn nhất. + Hệ thống toà án Mỹ cùng gồm 2 cấp liên bang và tiểu bang, tổ chức toà án Anh rất phức tạp. + Mỹ có sự tách bạch quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Anh thì không vì Thượng viện kiêm luôn chức năng xét xử phúc thẩm. + Tuy thuộc họ common law nhưng Mỹ coi trọng luật thành văn, có hiến pháp thành văn, Anh thì không.

Phân tích các loại nguồn và giá trị của từng loại nguồn của pháp luật Anh. Trả lời: Các loại nguồn pháp luật của Anh: a. Án lệ: - Những nguyên tắc pháp lý rút ra từ những phán quyết của toà do thẩm phán sáng tạo ra, cung cấp tiền lệ hay cơ sở pháp lý để các thẩm phán giải quyết vụ việc có tình tiết tương tự trong hiện tại và tương lai. - Sản phẩm của cơ quan tư pháp. - Nguyên tắc stare decisis: Toà án cấp