Những ai được vào học ở Quốc Tử Giám

VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM VỚI TRUYỀN THỐNG KHUYẾN HỌC

         Dân tộc Việt Nam từ xa xưa đã rất coi trọng giáo dục. Nền giáo dục ấy đã sản sinh cho đất nước nhiều nhân tài trong các lĩnh vực văn hóa, chính trị, ngoại giao, quân sự… làm rạng danh lịch sử nước nhà. Trong đó, hoạt động khuyến học được cả nhà nước và nhân dân quan tâm, thực hiện.

         Thời Lý chính sách khuyến học được thể hiện rõ nét nhất là sự kiện xây dựng Văn Miếu ở kinh thành Thăng Long vào năm 1070 làm nơi thờ các vị Tiên thánh, Tiên hiền Nho học và cho Hoàng Thái tử đến học. Năm 1075 vua Lý Nhân Tông cho mở khoa thi tuyển “Minh kinh bác học” đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam. Một năm sau ông lại cho mở Quốc Tử Giám dạy học cho con em quý tộc. Sau này dưới triều Trần, Quốc Tử Giám mở rộng dần quy mô, thu nạp cả những học trò ưu tú bình dân vào học tập.

         Triều Lê, khoa cử quy củ, phát triển thịnh trị. Quốc Tử Giám trở thành trung tâm đào tạo nhân tài lớn nhất đất nước. Vì thế, hoạt động khuyến học thời Lê càng phát triển. Đặc biệt thời Lê sơ, hoạt động khuyến học diễn ra rất phong phú, đa dạng, như: lập bia đề danh Tiến sĩ để vinh danh người đỗ đại khoa tại Văn Miếu, tổ chức lễ xướng danh ghi tên bảng vàng, tổ chức trọng thể lễ Vinh quy bái tổ, ban yến tiệc, tước phẩm… cho người đỗ đạt.

Khu vườn bia Tiến sĩ, nơi vinh danh tên tuổi các vị đỗ Đại khoa triều Lê – Mạc – Lê trung hưng tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám

         Sang đến triều Nguyễn mặc dù kinh đô dời vào Huế, nhưng các hình thức khuyến học vẫn Dân tộc Việt Nam từ xa xưa đã rất coi trọng giáo dục. Nền giáo dục ấy đã sản sinh cho đất nước nhiều nhân tài trong các lĩnh vực văn hóa, chính trị, ngoại giao, quân sự… làm rạng danh lịch sử nước nhà. Trong đó, hoạt động khuyến học được cả nhà nước và nhân dân quan tâm, thực hiện.được thực hiện quy củ. Triều đình duy trì mở các khoa thi chọn nhân tài, tiếp nối truyền thống dựng bia đề danh Tiến sĩ tại kinh đô Huế, các hình thức thi cử, đỗ đạt, ban thưởng… cho người đỗ đạt luôn được trú trọng thực hiện.

         Bên cạnh những chính sách khuyến học của triều đình, ở các làng xã, dòng họ khoa bảng cũng có những hoạt động khuyến học đối với con em bản quán. Ở các tỉnh lị, làng xã trên cả nước cũng xây dựng Văn miếu hàng tỉnh, Văn từ, Văn chỉ để tôn thờ các vị tiên triết của Nho giáo, tỏ sự tri ân “Uống nước nhớ nguồn” theo phong tục của người Việt Nam. Nhiều làng, nhiều dòng họ có truyền thống khoa bảng còn khắc tên người đỗ khoa trường của làng đặt trong Văn từ, Văn chỉ của làng, hoặc trong Từ đường các dòng họ đỗ đạt. Những hình thức đó chính là động lực để thúc đẩy con cháu học tập, giúp con cháu biết đến gương học tập của tiền nhân để dấn thân vào con đường học tập tốt hơn nữa.

         Ngày nay, tại di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám công tác khuyến học vẫn được tiếp tục thực hiện. Hàng năm, nhiều trường học các cấp, các tổ chức giáo dục, dòng họ cùng hàng nghìn học sinh, sinh viên trên cả nước đều về đây tổ chức Lễ dâng hương, vinh danh, khen thưởng nhằm khuyến học, động viên thế hệ trẻ. Những hoạt động này chính là sự tiếp nối, phát huy truyền thống khuyến học tốt đẹp của cha ông ta trong điều kiện mới.

Lê tuyên dương các Thủ khoa xuất sắc tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng ở Hà Nội năm 2003 đầu tiên được tổ chức tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

Từ năm 2003 đến nay, thành phố Hà Nội luôn chọn Văn Miếu – Quốc Tử Giám để tổ chức “Lễ tuyên dương các thủ khoa xuất sắc tốt nghiệp các trường đại học, học viện trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Đây là niệm tự hào và vinh dự đặc biệt đối với các bạn sinh viên các trường đại học và học viện của thành phố.

Lễ trao học bổng Vallet cho các bạn sinh viên sau đại học xuất sắc được tổ chức định kỳ hàng năm tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Lễ trai giải thưởng “Loa thành” dành cho đồ án tốt nghiệp đại học xuất sắc ngành Kiến trúc – Xây dựng cho các em sinh viên trong ngành được tổ chức hàng năm tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

Lễ trao học bổng Hessen cho các bạn sinh viên xuất sắc của các trường đại học được tổ chức tại nhà Thái Học, Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

Tổ chức lễ dâng hương nhân ngày tốt nghiệp cấp THPT tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một sự động viên, khích lệ rất lớn đối với các em học sinh khi chuẩn bị bước vào các kì thi đánh dấu cột mốc quan trọng trong sự nghiệp 12 năm đèn sách.

Dù ở bất cứ đâu trên quê hương Việt Nam, được tham gia lễ khuyến học, dâng hương tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám – cái nôi hun đúc nhân tài của đất nước - luôn là niềm tự hào của mỗi người học sinh.

Các em học sinh của Hệ thống giáo dục Alpha school tham dự lễ khuyến học, dâng hương tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

Các em học sinh Hệ thống giáo dục Chu Văn An – Quảng Bình tham dự lễ khuyến học, Dâng hương trước tượng thờ thầy giáo Chu Văn An, khu Thái Học, Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

Học sinh trường Tiểu học Vinschool Green Bay Mễ Trì, Hà Nội tham dự lễ khuyến học tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

Niềm vui của các em học sinh lớp 3A2 trường Tiểu học Sông Đà, Hòa Bình, Hà Nội khi tham dự lễ khuyến học tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

AV

QUỐC TỬ GIÁM THĂNG LONG

NƠI IN ẤN, PHÁT HÀNH SÁCH HỌC THỜI QUÂN CHỦ

         Ngoài nhiệm vụ giáo dục, đào tạo nhân tài tại kinh sư, Trường Quốc Tử Giám còn thực hiện một nhiệm vụ quan trọng khác là in ấn tài liệu, kinh điển Nho giáo để cung cấp cho thầy, trò tại các học phủ, trường, lớp trong cả nước.

         Thời kỳ đầu độc lập, sách học ở nước ta phải nhập từ Trung Quốc về; đường xá xa xôi, lệ thuộc, kinh phí đắt đỏ, số lượng sách hạn chế gây nhiều khó khăn cho việc học tập, giảng dạy. Đến thế kỷ XV, nghề in mộc bản trong nước phát triển, người Việt đã tự in ấn, phát hành sách. Quốc Tử Giám trở thành nơi cung cấp sách học cho Thầy – Trò trong cả nước.

         Cho đến nay vẫn chưa rõ Quốc Tử Giám bắt đầu in sách học cho Nho sinh từ bao giờ, nhưng các chứng cứ lịch sử đã cho thấy trường Giám có chức năng này. Năm 1483, vua Lê Thánh Tông khi cho mở rộng nhà Thái Học, dựng Minh Luân đường, Giảng đường, ông cũng cho xây dựng kho Bí thư để in sách học cho học trò. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục đã mô tả kho Bí thư của Quốc Tử Giám có 4 gian dùng để cất ván in sách.

[Ảnh: Sách học của Nho sinh

 P. trưng bày Lịch sử Văn Miếu-Quốc Tử Giám và chế độ khoa cử Việt Nam, nhà Thái Học]

         Sách do Quốc Tử Giám in chủ yếu là các sách trong bộ Tứ thư [Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử] và Ngũ kinh [Kinh thư, Kinh thi, Kinh lễ, Kinh dịch, Kinh xuân thu]. Đây là hệ thống sách được coi là  “sách giáo khoa mẫu mực”, “bộ sách giáo khoa chính thống” để làm tài liệu học tập và thi cử cho đến khi chế độ khoa cử Nho học bị bãi bỏ của người Việt.

         Tương truyền, nghề in ấn của nước Việt có từ thời Lý [in kinh kệ, tranh vẽ…] nhưng chưa thực sự phát triển. Sau này, Thám hoa Lương Như Hộc [1420-1501] triều Lê, sau hai lần đi sứ [năm 1443 và 1459] đã mang nghề in mộc bản của Trung Quốc về truyền cho dân làng Hồng Lục và Liễu Tràng, xã Hồng Liễu. Từ đó, nghề in sách nước ta dần dần phát triển. Vua Lê Thánh Tông đã nhiều lần ban chiếu cho thợ Hồng Liễu lên Kinh thành để khắc mộc bản và in sách cho triều đình. Thời Hồng Đức, sách được in ra hàng loạt. Bởi thế văn thơ thời Hồng Đức rất phát triển, phổ biến rộng trong đời sống.

[Ảnh: Ván in sách cổ

 P. trưng bày Lịch sử Văn Miếu-Quốc Tử Giám và chế độ khoa cử Việt Nam, nhà Thái Học]

         Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép: năm 1467 vua Lê Thánh Tông “ban cấp bản in sách Ngũ kinh của nhà nước cho Quốc Tử Giám, theo lời tâu của Bí thư giám học sĩ Vũ Vĩnh Trinh”. Như vậy, với việc vua ban in sách Ngũ kinh của nhà nước cho thấy triều đình đã kiểm soát việc in ấn sách giáo khoa để giao cho Quốc Tử Giám. Năm 1734, triều đình kiểm soát kĩ hơn cả nội dung của sách học, giao cho các quan Quốc Tử Giám “hiệu đính kiểm duyệt năm kinh theo bản khắc văn của Trung Quốc, rồi khắc thành sách; nay sách đã in xong ban bố cho trong nước, để theo đấy mà dạy học trò, cấm mua sách của Trung Quốc”[1].

         Sang triều Nguyễn, việc in ấn lại được tập trung ở kinh đô Huế, các ván in ở ngoài Bắc được chuyển về Quốc Tử Giám Huế. Sách Đại Nam hội điển sự lệ cho biết việc vua Minh Mạng xuống chỉ cho sưu tầm sách vở ở các nơi: “Văn Miếu ở Bắc thành, nguyên trữ các bản in Ngũ Kinh Tứ Thư đại toàn và Võ kinh trực giải. Chuẩn cho sức soạn lấy đủ số. Nếu như tấm in bản nào lâu năm mọt nát, thì khắc bản khác bổ sung vào, đến khi có đoàn thuyền vận tải thì đưa đến kinh giao Quốc Tử Giám lưu giữ, đặng phòng khi dùng in ra để ban cấp”. Sự kiện này một lần nữa đã khẳng định chức năng in sách, xuất bản sách của Quốc Tử Giám Thăng Long Hà Nội rất quan trọng và kho chứa ván in ở đây đã trở thành tài liệu mộc bản rất có  giá trị.

         Hiện nay khối tài liệu mộc bản triều Nguyễn được lưu giữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV [Đà Lạt, Lâm Đồng], trong đó một số tài liệu mộc bản  được cho là được vận chuyển từ Văn Miếu Bắc thành về Huế theo chỉ dụ của vua Minh Mệnh. Đó thực sự là một kho di sản quý , mà Quốc Tử Giám Thăng Long-Hà Nội đã đóng góp một phần không nhỏ.

AV

[1] Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Quốc sử quán triều Nguyễn, dịch giả Viện sử học, NXB Giáo dục – Hà Nội, 1998, trang 820.

DI TÍCH VĂN MIẾU-QUỐC TỬ GIÁM

VÀ TRUYỀN THỐNG HIẾU HỌC CỦA DÂN TỘC

        Truyền thống hiếu học của dân tộc ta đã có từ lâu đời.  Ngay từ thời Bắc thuộc, bên cạnh những trường, lớp của chính quyền đô hộ nhà Hán, nhiều trường, lớp học của người Việt đã được mở trong các chùa chiền thu hút nhiều người theo học.

         Dưới  thời Lý [1009-1225],  năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu thờ Khổng Tử, các vị hiền triết và làm nơi học tập của Hoàng Thái tử. Mùa xuân, năm 1075, vua Lý Nhân Tông “xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi học Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển, cho vào hầu vua học”[1]. Năm 1076, nhà Vua  cho lập Quốc Tử Giám, “chọn quan viên văn chức, người nào biết chữ cho vào Quốc Tử Giám học tập”. Từ đó về sau, trải qua các triều đại, chính sách về giáo dục, thi cử tuyển chọn nhân tài ở nước ta ngày càng được hoàn thiện: Triều đình cho tổ chức thi Hương, thi Hội, thi Đình để tuyển chọn hiền tài cho bộ máy chính quyền của nhà nước quân chủ. Bắt đầu từ năm 1484, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu dựng bia đề danh Tiến sĩ để vinh danh những bậc đỗ đại khoa tại Văn Miếu, thể hiện tinh thần trọng thị hiền tài, khuyến khích học tập.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám nơi hun đúc, lưu giữ, bảo tồn và phát huy truyền thống Hiếu học quý báu của Dân tộc Việt Nam

[Ảnh: cổng Văn Miếu]

         Song hành với sự ra đời, phát triển của chế độ giáo dục, khoa cử Nho học và tinh thần trọng dụng nhân tài của nhà nước, truyền thống hiếu học của dân tộc Việt tiếp tục  phát triển và lan tỏa rộng khắp. Đến thời Lê [XV-XVIII], hầu hết các làng xóm trên cả nước, ở đâu cũng mở trường lớp, mời thầy đồ về dạy học. Học trước hết để làm người, có tri thức, có đức hạnh rồi sau mới đem công sức mà cống hiến, xây dựng đất nước.

         Trên các bài văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long Hà Nội, các soạn giả văn bia cũng luôn nhắc nhở kẻ sĩ về tinh thần hiếu học, trau dồi đạo đức. Văn bia Tiến sĩ khoa Bính Tuất [1466] đã ghi: “Các sĩ tử ngước mắt nhìn lên cũng sẽ hăng hái lòng trung nghĩa, trau dồi học hành, đức hạnh để mong có ngày hiển dương đặc dụng. Như thế là để đợi chờ bậc tuấn kiệt theo nhau mà đến, kẻ tài năng, chân chính xuất hiện tiếp nhau, văn chương đủ để giúp nước, đạo đức đủ để giúp đời…”.  Vì sự học chính là cái gốc, là căn cốt của mọi thành công, giúp cho xã hội hưng thịnh, là cơ sở để con người có thể trở nên tử tế.

Vườn bia Tiến sĩ  -  Nơi lưu danh những tấm gương hiếu học và dòng họ khoa bảng của Dân tộc

[Ảnh: Khu vườn bia Tiến sĩ, Văn Miếu – Quốc Tử Giám]

         Trong số 1304 vị Tiến sĩ được lưu danh trên bia Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám, có rất nhiều các vị danh nhân nổi tiếng như: Nguyễn Trực […], Ngô Sĩ Liên [1417-1474], Lương Thế Vinh [1441-1496], Lê Quý Đôn [1726-1784], Ngô Thì Nhậm [1746-1803],…là những người có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước, dân tộc. Đặc biệt trên bia còn ghi dấu của nhiều dòng họ, địa phương nổi tiếng với truyền thống hiếu học như: xứ Kinh Bắc với danh sách hơn 430 vị đỗ đại khoa. Trong đó, có 98 vị Tiến sĩ được khắc trên bia đá tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Làng Mộ Trạch tỉnh Hải Dương có tới 36 người đỗ Tiến sĩ dưới thời phong kiến. Có một năm mà nửa số Tiến sĩ đỗ trong cả nước là người làng Mộ Trạch tỉnh Hải Dương, bởi thế dân gian còn có câu: “Mộ Trạch bán thiên hạ”. Dòng họ Thân  ở xã Yên Ninh, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang mấy đời liền đỗ đại khoa, đều cùng làm quan một triều, như: Thân Nhân Trung đỗ Tiến sĩ năm 1469, làm quan Lại bộ Thượng thư Chưởng Hàn lâm viện kiêm Đông các Đại học sĩ, con là Nhân Vũ đỗ tiến sĩ năm 1481 và Nhân Tín đỗ tiến sĩ năm 1490, cháu ông là Thân Cảnh Vân đỗ Thám hoa năm 1487. Dòng họ Ngô, xã Vọng Nguyệt, huyện Yên Phong 5 đời liền đỗ đại khoa: Ngô Nhân Triệt đỗ tiến sĩ năm 1608 là cháu của Ngô Ngọc [đỗ Hoàng Giáp 1487] và Ngô Hải  [Hoàng Giáo 1508] là con của Ngô Trừng [Hoàng giáp 1580] là cha của Nhân Tuấn đỗ tiến sĩ năm 1640. Dòng họ Nguyễn xã Vân Điềm, huyện Đông Ngàn có Nguyễn Thực đỗ Hoàng Giáp năm 1595 làm quan Tán trị công thần Tham tụng Lại bộ Thượng thư Chưởng Hàn lâm viện sự kiêm Đông các đại học sĩ, tước Lan quân công, là cha của Nguyễn Nghi đỗ tiến sĩ 1602, tằng tổ của Nguyễn Khuê, Nguyễn Sĩ đỗ tiến sĩ 1670, cao cao tổ của Nguyễn Thẩm đỗ tiến sĩ 1706 và Nguyễn Thưởng đỗ tiến sĩ 1754…


         Ngày nay, Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long – Hà Nội là địa chỉ văn hóa, du lịch nổi tiếng, thu hút sự quan tâm của nhiều du khách trong và ngoài nước. Hàng năm, nhiều dòng họ cùng hàng chục nghìn học sinh, sinh viên trong cả nước về đây tổ chức lễ dâng hương - khuyến học và tôn vinh truyền thống của cha ông. Di tích, cùng Di sản Tư liệu Thế giới 82 bia Tiến sĩ mãi mãi là nơi lưu giữ, bảo tồn và lan tỏa truyền thống Hiếu học, Tôn sư trọng đạo, Tôn trọng nhân tài của đất nước. 

Các em học sinh tìm hiểu về truyền thống giáo dục khoa cử Việt Nam trong chương trình Giáo dục Di sản tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám

[Ảnh: Học sinh tại khu trưng bày giáo dục khoa cử Việt Nam, khu Thái Học, Văn Miếu – QUốc Tử Giám]

Văn Miếu – Quốc Tử Giám ngày nay luôn là niềm tự hào, điểm lựa chọn đầu tiên của các em học sinh để chụp ảnh lưu giữ những mốc học tập quan trọng

[Ảnh: Học sinh chụp ảnh lưu niệm khi tổ chức lễ tốt nghiệp THPT tại sân Thái Học, Văn Miếu – Quốc Tử Giám]

Các em học sinh cùng cha mẹ và thầy cô tham dự Lễ dâng hương và tìm hiểu về truyền thống giáo dục khoa bảng thông qua những tấm gương hiếu học của các danh nhân trên bia Tiến sĩ.

[Ảnh: Học sinh THPT tham dự khuyến học tại di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám]

Thủ khoa các trường Đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội rất vinh dự khi được tuyên dương tại sân Thái Học – Nơi xưa kia chính là Quốc Tử Giám [trường Đại học đầu tiên của Việt Nam]

[Ảnh: Lễ Tuyên dương thủ khoa xuất sắc tốt nghiệp các trường Đại học, Học viện trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2019, tổ chức tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám]

AV

 

[1]. Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên, Viện KHXH VN, NXB KHXH Hà Nội-1993, trang 110

    Quốc Tử Giám thành lập năm 1076, dưới triều của vua Lý Nhân Tông mở đầu cho nền giáo dục cấp cao của đất nước. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, trải qua hơn 700 năm, Quốc Tử Giám luôn là trung tâm giáo dục – đào tạo nhân tài lớn nhất của cả nước.

    Học trò trường Quốc Tử Giám được gọi là Giám sinh. Ban đầu Giám sinh của trường phần lớn đều do nhà vua ban chuẩn cho vào học, bao gồm quan viên văn chức, con em hoàng tộc, quan lại. Đến thời Lê, trường Giám mở rộng cho con em bình dân tuấn tú, có tài đức được vào học. Thông thường, học trò đỗ thi Hương và qua kỳ sát hạch tại bộ Lễ được vào học tại Quốc Tử Giám.

Quốc Tử Giám [Tranh minh họa]

     Số lượng Giám sinh theo học tại trường khoảng 300 người, thời gian học tập kéo dài từ ba đến bảy năm;  Hàng tháng và cuối năm đều có các bài kiểm tra định kỳ. Trò nào qua được các kỳ kiểm tra và sát hạch của bộ Lễ mới được tham dự thi Hội, thi Đình lấy đỗ học vị Tiến sĩ. Tuy nhiên, cũng có nhiều Giám sinh có tài - đức, được bộ Lễ xét đặc cách bổ làm quan ngay khi còn đang học tại trường.  

    Việc giảng dạy và học tập được thực hiện rất nghiêm túc. Triều đình ra quy định: trước hết dạy Giám sinh có đức hạnh, rồi sau mới đến văn từ. Trong thời gian học tập, người nào dám chạy chọt cầu may, rong chơi ngoài đường, bỏ trễ việc học, thiếu điểm mục một lần thì bị phạt 140 tờ giấy trung chỉ, thiếu hai lần phạt 200 tờ giấy trung chỉ, thiếu ba lần đánh 40 roi, thiếu điểm mục bốn lần sẽ kiểm xét tâu lên giao cho Hình bộ xét hỏi, thiếu điểm mục năm lần thì tâu lên bắt sung quân.

    Kết quả sau hơn 700 năm hoạt động,Quốc Tử Giám đã đào tạo ra hàng trăm các vị quan tài năng, đức độ, nhiều người được giao giữ những trọng trách quan trọng trong triều đình như: Danh nhân Nguyễn Tông Khuê [còn gọi là Tông Quai] đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1721, từng nhiều lần được cử đi sứ Trung Quốc, làm quan đến chức Đốc đồng Tuyên Quang, Hộ bộ Tả Thị lang, sau về quê mở trường dạy học, đào tạo ra nhiều anh tài trong đó có nhà bác học Lê Quý Đôn. Hay như Tri Quốc Tử Giám Nguyễn Nghiễm, thân sinh của đại thi hào Nguyễn Du, từng là Giám sinh của Quốc Tử Giám, đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1731, làm quan đến chức Tham tụng, Công bộ thượng thư, là người có nhiều đóng góp cho sự phát triển của trường Quốc Tử Giám.

    Số lượng Giám sinh Quốc Tử Giám thi đỗ tại các kỳ thi Hội rất cao.  Khoa thi 1721 có  3000 thí sinh, lấy đỗ được 25 người, trong đó có tới 13 vị Tiến sĩ là Giám sinh. Khoa thi năm 1739 có tới 3000 sĩ tử tham gia nhưng chỉ có 8 người thi đỗ, trong đó có tới 4 vị nguyên là Giám sinh. Hay như khoa thi 1743 với hơn 2000 sĩ tử tham gia, lấy đỗ được 7 người thì cũng có người là Giám sinh. Đặc biệt có trường hợp cả hai anh em ruột đều là Giám sinh và đều thi đỗ Tiến sĩ là:  Ngô Duy Viên thi đỗ năm 1769 và Ngô Duy Trừng thi đỗ năm 1775.

    Quốc Tử Giám là Trung tâm giáo dục – đào tạo nhân tài lớn nhất Việt Nam thời quân chủ. Lớp lớp các thế hệ Giám sinh đã từ đây bước ra lập nghiệp, đem tài năng cống hiến cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Bia đề danh tiến sĩ khoa thi năm 1769.  Trên bia khắc tên 9 vị Tiến sĩ, trong đó có ba Tiến sĩ là  Giám sinh Quốc Tử Giám: Nguyễn Đình Giản, Nguyễn Huy Trạc,  Ngô Duy Viên [Em của Ngô Duy Trừng].

Bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm 1775. Trên bia khắc tên 18 vị Tiến sĩ, trong đó có hai Tiến sĩ là Giám sinh Quốc Tử Giám: Lê Duy Đản, Ngô Duy Trừng [Anh của Ngô Duy Viên].

                                                                                                                                                                                LH

 CÁC KỲ BÌNH VĂN TẠI QUỐC TỬ GIÁM QUA GHI CHÉP CỦA PHẠM ĐÌNH HỔ

TRONG “VŨ TRUNG TÙY BÚT”

    Được thành lập năm 1076, Quốc Tử Giám đã trở thành trung tâm giáo dục  lớn nhất Việt Nam thời quân chủ. Những buổi bình văn tại trường Giám không chỉ thu hút các Giám sinh trường Quốc Tử Giám mà còn thu hút sự tham gia của đông đảo các Nho sinh, sĩ tử từ các nơi về kinh đô học tập chuẩn bị cho các kỳ thi đại khoa. Sử cũ không thấy ghi chép nhiều về những buổi bình giảng thơ văn tại trường Giám nên chúng ta chỉ có thể hình dung được phần nào qua ghi chép của Phạm Đình Hổ [1768-1839] trong tác phẩm “Vũ trung tuỳ bút”.

Sa bàn mô phỏng Quốc Tử Giám thời Lê

    Theo mô tả của Phạm Đình Hổ, khoảng năm Giáp Thìn [1784 – 1785] đời Cảnh Hưng, cứ mỗi tháng trước ngày sóc vọng, tức ngày mùng một và ngày rằm một ngày thì nhà Quốc học [nhà Giám] mở cuộc bình văn. Những cuộc bình văn tại nhà Giám được tổ chức rất long trọng, theo đúng lễ nghi quy định của triều đình. “Ngày bình văn ở nhà Giám, quan Tri giám làm chủ tọa. Lúc mới đến hội họp, quan Tri giám đứng ở phía Tây, chiếu giữa. Quan Tham tụng, quan Bồi tụng thì đều đứng xế về phía đông nam chiếu mình ngồi. Quan Tri giám mới hướng vào hai chiếu giữa, vái chào mời ngồi; quan Tham tụng và quan Bồi tụng đều vái đáp lại xong rồi lên chiếu theo thứ tự mà ngồi. Chiếu giữa và chiếu phía đông thì hộp trầu, ống súc bày đủ mỗi vị quan viên một bộ, còn chiếu phía tây thì mỗi chiếu hai hộp trầu, hai ống súc”.

    Như vậy, tham dự buổi bình văn có các quan như quan Tri giám, quan Tham tụng, quan Hành tham tụng, quan Bồi tụng. Ngoài ra, còn có quan Thị lang, quan Tham đô. Lúc bấy giờ, Thái phó Quận công Nguyễn Hoãn được cử giữ chức Tri Quốc Tử Giám, Bùi Huy Bích [1744-1818], người xã Định Công, huyện Thanh Trì, đỗ Hoàng giáp khoa thi 1769 là quan Hành tham tụng. Các quan bồi tụng như Uông Sĩ Điển [1737-1802],Võ Huy Dĩnh, Phan Văn Cẩn, Trần Xán. Có thể thấy, các vị quan đều là những người có kiến thức uyên thâm, đảm đương nhiều chức vụ quan trọng.

    Học trò nào có bài văn sách hay sẽ đứng lên đọc cho cả trường cùng nghe. Vì mỗi người có một chất giọng khác nhau nên khi đọc lên có thể cảm nhận rất rõ sự khác biệt. Phạm Đình Hổ viết: “Lúc bình văn thì tiếng Hoàng Vĩnh Trân rất trong, rất vang. Tiếng Nguyễn Cầu rõ ràng, bình dị. Lưu Tiệp giọng ngắn mà đọc không rõ. Thiều Sưởng thì đọc không nghe ra tiếng gì cả.” Các bài văn sau khi đọc xong đều có sự nhận xét hay đánh giá của các vị quan tham dự: “Còn cái quyền nhắc lên hay đánh xuống, lấy hay bỏ thì chỉ do Bùi Huy Bích quyết định.Thứ đến các quan Bồi tụng cũng có bàn bạc, cân nhắc.”

    Nói đến văn sách, đây là thể văn nghị luận tương đối khó, đòi hỏi các sĩ tử phải là người có kiến thức rộng, vượt ra ngoài những quy định của khuôn thước mới làm được bài văn hay có giá trị, liên quan đến những vấn đề của xã hội đương thời. Văn sách còn gọi là Đối sách hay bài Đình đối mà trong kỳ thi Đình - kỳ thi cuối cùng, các sĩ tử phải thực hiện. Có thể nói, các kỳ bình văn là cơ hội vô cùng quý giá cho các Giám sinh trường Quốc Tử Giám và các nho sinh khác. Bên cạnh những lời nhận xét, góp ý, khen hay chê của các vị quan, đây còn được coi như một phương pháp để rèn tập các sĩ tử thành tài, khơi gợi sự sáng tạo qua đó thúc đẩy việc dạy và học của thầy trò trường Giám ngày một tốt hơn. Các kỳ bình văn tại trường Giám là một trong những sinh hoạt hấp dẫn, thú vị đối với những nho sinh tại không gian Quốc Tử Giám – nơi được mệnh danh là trường đại học đầu tiên của nước ta.   

                                                                                                                                                                                           Thúy Hồng

BÁI ĐƯỜNG - KHÔNG GIAN TẾ LỄ XƯA

Khu Điện Đại Thành xưa là nơi tổ chức các nghi lễ tế các bậc Tiên Thánh, Tiên Hiền tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Một năm hai lần, Xuân - Thu nhị ký, vào ngày Đinh đầu tiên của tháng hai và tháng tám âm lịch hàng năm, nhà Vua thường đến làm chủ tế hoặc cử hoàng thân đại thần tế thay. Khu vực này bao gồm 1 sân gạch và hai dãy nhà: Bái đường - nơi hành lễ và Hậu cung ở chính giữa; Hai bên Đông - Tây là hai dãy Tả vu và Hữu vu - xưa là nơi Thất thập nhị hiền. Thời Trần, Tư Nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An được thờ tại đây [1370].

Nhà Bái đường gồm 9 gian với 40 cột trụ chống mái, trên lợp ngói mũi hài, mái trang trí đắp nổi hai con rồng chầu mặt nguyệt. mang phong cách kiến trúc cuối đời Lê, đầu Nguyễn. Với những đường nét kiến trúc bên trong như kẻ bảy giản đơn không chạm trổ cầu kỳ, các cột gỗ được chồng đấu theo kiểu đấu đỡ cột chồng hay những đầu đao mái cong ở hai bên, mái ngói lợp vảy rồng …thật giản dị mà vẫn toát lên vẻ uy nghiêm, cổ kính của không gian nơi thờ tự.

Phía trước ở hai gian đầu hồi có cửa gỗ chấn song con tiện với bức phù điêu gỗ thời Lê, khắc nổi hình rồng mây, nét đao uốn lượn rất đặc sắc. Bên trong có các hàng cột gỗ đều được sơn son thếp vàng, riêng hai hàng cột ở giữa trang trí hình rồng cuốn mây lượn.

Chính giữa nhà Bái đường đặt một hương án cổ bằng gỗ với nét hoa văn thời Lê chạm khắc đặc biệt tinh xảo. Hai bên hương án là đôi Chim hạc đồng đứng trên lưng rùa. Phía trên, chính giữa treo bức “ Vạn thế sư biểu” ca ngợi Khổng Tử; phía Đông có bức hoành phi “ Cổ kim nhật nguyệt” [ánh sáng muôn thủa] và chuông Bích Ung do Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Xuân quận công Nguyễn Nghiễm cho làm năm 1768; còn phía Đông là chiếc khánh đá cùng nhiều hoành phi, câu đối ca ngợi đạo học.

Tất cả cùng hòa quyện tạo nên một không gian thờ tự, trang nghiêm, cổ kính, sâu lắng đưa du khách trở về với những triết lý sâu xa về đạo học của các bậc tiền nhân./.

CỔNG ĐẠI THÀNH

Cổng Đại Thành mang phong cách kiến trúc thời Hậu Lê [TK 15-17]. Cổng có kiến trúc ba gian với hai cột hiên trước và sau, một hàng cột giữa đỡ xà nóc, ba gian đều được lắp cửa gỗ hai cánh sơn son trên có trang trí họa tiết rồng mây theo chủ đề “Long vân khánh hội” – thể hiện sự phồn thịnh của đất nước đối với đạo học nước nhà.

Gian chính giữa phía trên treo bức hoành phi đề ba chữ “ Đại Thành môn”, bên phải có hàng chữ nhỏ đề “Lý Thánh Tông Thần Vũ nhị niên Canh Tuất thu bát nguyệt phụng kiến” [tháng Tám mùa thu năm Canh Tuât Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông cho dựng Văn Miếu], bên trái ghi: “Đồng Khánh tam niên Mậu Ty trọng đông đại tu” [Tu sửa lại vào tháng 11 năm Mậu Tý niên hiệu Đồng Khánh 3 [1888]. Bức hoành phi khẳng định Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070.

Dưới chân cổng Đại Thành có 6 con Nghê cối cửa được tạo tác tinh tế với chất liệu bằng gỗ và đá.

Bên phải và bên trái cổng Đại Thành là hai cổng nhỏ Kim Thanh và Ngọc Chấn dẫn vào khu Quốc Tử Giám Tên hai cổng với ý nghĩa là sự mở đầu và kết thúc khi tấu nhạc. Tiếng chuông [Kim Thanh] để khởi đầu, dùng thanh âm của tiếng khánh [Ngọc Chấn] để kết thúc. Tiếng chuông là mở đầu tập hợp trật tự tiết tấu, nhịp điệu âm nhạc.

Cổng Kim Thanh

Cổng Ngọc Chấn 

Trải qua thời gian dài, cổng Đại Thành ngày nay vẫn giữ được nét cổ kính, trang nghiêm tĩnh tại.

Đến di tích Văn Miếu-Quốc Tử Giám ngày nay, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một bài thơ do Khang vương Trịnh Căn làm trong một lần đến thăm nơi đây vào tháng 11 năm 1695 “Vịnh Văn Miếu bi thi”. Bài thơ nằm trong tập Ngự đề thiên hòa doanh bách vịnh của Khang vương Trịnh Căn, được khắc trên bức châm thư bằng gỗ treo ở gian bên phải tòa Bái Đường, Di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

Châm gỗ khắc bài thơ quốc âm Vịnh Văn Miếu Bi Thi 

Khang vương Trịnh Căn là người rất quan tâm mở mang phát triển văn hóa, giáo dục, trọng dụng nhân tài, nhân một lần đến thăm Văn Miếu – Quốc Tử Giám, ông đã làm bài thơ quốc âm ca ngợi sự tôn nghiêm, nơi đề cao đạo học. Đặc biệt, bài thơ còn đề cao các bậc hiền tài được ghi danh trên bia Tiến sĩ trường tồn cùng với trời đất: “Thánh nhân đạo cao đức trọng, khắc ở bia lớn để lại muôn đời. Ngày khánh thành ta đến thăm lại, xem xét khắp xung quanh, thấy thể chế ngay ngắn nghiêm chỉnh, hình thức và nội dung đều tốt đẹp, thật đáng trân trọng, bèn làm bài thơ quốc âm rằng”.

Bài thơ cũng cho thấy, từ khi được thành lập dưới triều Lý trải qua đến triều Hậu Lê, Văn Miếu – Quốc Tử Giám luôn được nhà nước quan tâm, coi trọng. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là nơi ghi lại các dấu mốc quá trình phát triển nền giáo dục của quốc gia Đại Việt.

VỊNH VĂN MIẾU BI THI 

Đạo thống thường xem nhật nhật minh

Vậy nên biểu lập trước trung đình

Tôn nghiêm vốn có bề phương chính

Trân trọng nào sai mực đất bằng

Rộng chứa văn chương hằng rỡ rỡ

Tỏ ghi đức giáo hãy rành rành

Vững bền sóc sóc đồng thiên địa

Thấy đấy ai là chẳng ngưỡng thành

Tháng 11 năm Ất Hợi [1695]

                                                                                                        LH

THẦY GIÁO Ở QUỐC TỬ GIÁM THĂNG LONG

Quốc Tử Giám là trường học của triều đình ở kinh đô. Trong suốt hơn 700 năm hoạt động, việc giảng dạy và học tập ở đây luôn theo mục tiêu đào tạo những bậc hiền tài - vừa có đức vừa có tài để giúp dân giúp nước. Có công lao to lớn trong việc rèn giũa, gây dựng nhân tài tại Quốc Tử Giám phải kể đến những người thầy đạo cao đức trọng được triều đình tin tưởng giao cho trọng trách to lớn này.

Các triều đại trong lịch sử luôn quan tâm tuyển chọn những bậc thầy có tài năng, phẩm chất cao đẹp, đạo cao, đức trọng cho trường Quốc Tử Giám để đảm trách nhiệm vụ quản lý, điều hành, giảng dạy tại trung tâm giáo dục quan trọng nhất của đất nước.

Các vị quan ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám

Thời nhà Lý chưa thấy ghi chép về các học quan giảng dạy tại Quốc Tử Giám nhưng đến thời Trần đã biết người đứng đầu Quốc Tử Giám là Tư nghiệp. Người nổi tiếng nhất trong số các Tư nghiệp Quốc Tử Giám là Chu Văn An [1292 - 1370] – một người thầy học vấn uyên thâm, đạo đức trong sáng, được vua Trần Minh Tông mời ra làm Tư nghiệp. Thầy là một nhà giáo tiêu biểu trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Dưới thời Trần, giúp việc cho Tư nghiệp còn có Quốc Tử Giám Trợ giáo - như Đoàn Xuân Lôi, đỗ Thái học sinh khoa Giáp tý [1384].

Từ thời Lê, triều đình tuyển chọn đội ngũ học quan đông đảo, đáp ứng yêu cầu giảng dạy tại Quốc Tử Giám. Chức quan đứng đầu Quốc Tử Giám được gọi là Tế tửu, đứng thứ hai là Tư nghiệp. Chức trách của Tế tửu được Phan Huy Chú ghi rõ trong Quan chế chí của bộ Lịch triều Hiến chương loại chí: “…Phụng mệnh trông coi nhà Văn Miếu, rèn tập sĩ tử, phải chiếu theo chỉ truyền, hằng tháng theo đúng kỳ cho học trò trường Giám tập làm văn, để gây dựng nhân tài, giúp việc thực dụng cho nước”. Tế tửu ngoài chức trách là học quan của Quốc Tử Giám còn làm nhiệm vụ trông coi Văn Miếu, thực hiện việc cúng tế xuân, thu nhị kỳ theo quy định tế lễ tại Văn Miếu.

Triều đình quy định, những người được giữ chức Tế tửu, Tư nghiệp phải là các nhà khoa bảng, đang giữ những trọng trách quan trọng của triều đình kiêm nhiệm. Từ năm 1721, vua Lê Dụ Tông yêu cầu Tế tửu cùng tham gia giảng dạy cho học trò tại Quốc Tử Giám, để khuyến khích sĩ tử, nâng cao chất lượng giáo dục, tổ chức khảo hạch [kiểm tra] sự chuyên cần, tiến bộ của Giám sinh [học trò Quốc Tử Giám], chấm bài và báo cáo sang Bộ Lại để làm căn cứ bổ tuyển nhân tài theo quy định.

Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử Giám không chỉ là nhà quản lý về giáo dục, mà còn là những nhà giáo mẫu mực, đức trọng tài cao, là những nhà văn hóa của dân tộc. Có thể kể ra nhiều vị Tế tửu, Tư nghiệp mà tên tuổi và công lao còn được ghi trong sử sách, như Nguyễn Trực - vị Trạng nguyên đầu tiên của triều Lê được khắc tên trên bia Tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám; Tiến sĩ Thân Nhân Trung - Tao đàn phó nguyên súy với lời văn bất hủ trên bia tiến sĩ khoa thi Đại Bảo [năm 1442] được đời sau nhiều lần nhắc đến: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia...”.

Ngoài Tế tửu, Tư nghiệp, từ thời Lê còn có các vị trí Giáo thụ, Trực giảng, Trợ giáo, Bác sĩ… đều được triều đình tuyển chọn kỹ. Có thể nhắc tên: Phan Phu Tiên làm Quốc Tử Giám Bác sĩ [1435]; Giáo thụ Nguyễn ThiênTúng, Đỗ Nhuận; Trực giảng Doãn Tử Bình, Nguyễn Cư Lạc. Những người thầy đã đảm trách việc dạy và học tại Quốc Tử Giám, góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước. Họ đều là những người thầy có học vấn uyên thâm, nhiều kinh nghiệm trong giáo dục, đạo đức trong sáng, là tấm gương tiêu biểu về nhân cách, về trí tuệ không chỉ đối với học trò, mà còn tiêu biểu trong số những nhà khoa bảng đương thời.

Sa bàn mô phỏng Trường Quốc Tử Giám thời Lê

Các vị Tế tửu, Tư nghiệp cùng các thầy giáo của Quốc Tử Giám xứng đáng là tấm gương về trí tuệ, tài năng, mẫu mực về đạo đức, tinh thần rèn luyện, cống hiến cho nền giáo dục nước nhà./.

LH

Trong hơn 700 năm hoạt động từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XVIII, Quốc Tử Giám Thăng Long đã đào tạo, bảo cử ra một đội ngũ quan lại, trí thức Nho học đông đảo có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của Đất nước và Dân tộc. Các vị quan đứng đầu Quốc Tử Giám [Tế tửu, Tư nghiệp] đều là các bậc sĩ phu, tài cao, đức trọng được lựa chọn từ hàng ngũ các bậc danh Nho, đại thần có uy tín.

 Theo thống kê sơ bộ từ tài liệu chính sử và sắc phong, văn bia tại một số địa phương khoa bảng thì trong số 101 vị Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử Giám Thăng Long [từ thế kỷ XIV đến thế thế kỷ XVIII], ngoài 5 vị chưa xác định được thân thế, còn lại toàn bộ 96 người đều có học vị Tiến sĩ [lưu danh trong Đăng khoa lục], trong đó có nhiều người giật giải Đình nguyên [Trạng nguyên Nguyễn Trực, Trịnh Tuệ, Bảng nhãn Lê Quí Đôn…]. Đặc biệt, đại đa số các vị Tế tửu, Tư nghiệp đều từng giữ hoặc đang kiêm nhiệm các chức vụ quan trọng trong triều đình như: Hàn lâm viện Thừa chỉ [vị đại phu thay vua soạn chiếu chỉ], Đô Ngự sử [vị quan có trách nhiệm can gián vua không làm việc sai trái], Nhập thị Kinh diên [quan giảng kinh sách cho vua trong Nội điện], Thượng thư [tương tự chức Bộ trưởng ngày nay], Tham tụng [vị quan đứng đầu phủ chúa Trịnh, chuyên coi việc chính sự triều trình, quyền lớn hơn Thượng thư],Tả-Hữu Thị lang [Thứ trưởng]…vv.

Là những người đứng đầu Trung tâm giáo dục lớn nhất đất nước, đồng thời lại đảm nhiệm những chức vụ trọng yếu trong triều đình, các vị Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử Giám giữ một vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển văn hóa, giáo dục của Dân tộc. Họ là những cố vấn giúp các bậc Đế vương sử dụng tinh hoa của Nho giáo [công cụ được người Hán sử dụng để “đồng hóa và nô dịch” người Việt về mặt tư tưởng trong suốt gần 1000 năm Bắc thuộc] để hoạch định chính sách đào tạo, phát triển, trọng dụng nhân tài của Đất nước, đồng thời cũng là những người trực tiếp giám sát và thực hiện các chính sách đó.

Từ thế kỷ XXI nhìn lại, hơn 500 năm đã trôi qua nhưng câu nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước lên và mạnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp. Thế cho nên các bậc Thánh đế, Minh vương không ai không lấy việc đào tạo nhân tài, bồi đắp nguyên khí làm việc cần kíp” [trích văn bia khoa thi 1442] của Tế tửu Thân Nhân Trung vẫn được coi là kim chỉ nam, là chiến lược giáo dục của Nhà nước Việt Nam. Những quan điểm về một nền giáo dục bình đẳng, toàn diện và một chương trình dạy - học, thi cử, trường qui nghiêm túc nhằm đào tạo ra những con người “danh xứng với thực”, vừa có đức vừa có tài,  biết cách xử lý, dung hợp giữa các yếu tố Tri thức - Đạo đức - Hành vi để trở thành người có trách nhiệm đối với gia đình và xã hội…của Trường Quốc Tử Giám xưa ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

 Nhiều du khách quốc tế đã ngạc nhiên thán phục khi nghe các thuyết minh viên tại Văn Miếu giới thiệu rằng: Từ thời Trần [thế kỷ XIII-XV], ngoài việc Tập ấm [tuyển thẳng] dành cho con em trong Hoàng tộc và quan lại cao cấp thì con em bình dân tuấn tú [có tài –đức] người Việt cũng được tuyển chọn vào học tại Quốc Tử Giám. Tính chất tiến bộ của chương trình đào tạo tại Trường Giám [qui định phân bổ Giám sinh 3 xá theo kết quả học tập và chế độ học bổng khác nhau; qui định Nho sinh mỗi năm phải làm 4 bài Đại tập, mỗi tháng một bài Tiểu tập. Ai trả đủ, đúng tất cả các bài thi thì được coi đã là tốt nghiệp chứ không căn cứ cố định vào thời gian 3 năm hay 7 năm…] khiến người ta liên tưởng tới qui định cấp học bổng theo học lực và cấp bằng đại học khi có đủ số tín chỉ môn học của nền giáo dục thời hiện đại.

Lịch sử cũng minh chứng, dưới sự điều hành của các vị Tế tửu, Tư nghiệp, Trường Quốc Tử Giám Thăng Long đã ngày càng phát triển và trở thành hình mẫu cho hệ thống giáo dục Nho học trong cả nước. Sau hơn 7 thế kỷ, tính từ điểm khai hỏa thành lập Quốc Tử Giám [1076], một hệ thống dày đặc các trường, lớp đã được thiết lập từ trung ương đến địa phương, trải rộng từ Kinh thành Thăng Long đến khắp các phủ, huyện, làng quê; Kết quả đã đào tạo ra hàng nghìn các bậc đại khoa, hiền tài không chỉ đáp ứng nhu cầu vận hành của Nhà nước quân chủ Đại Việt mà còn có nhiều đóng góp trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, giáo dục, văn học – nghệ thuật, sử học, địa lý, toán học…vv.

Trên cương vị sứ thần, các vị Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử Giám từng đi sứ nhà Minh, nhà Thanh [Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đổ, Ngô Sĩ Liên …] bằng tài năng và tri thức của mình đã góp phần tạo dựng cho nước nhà một mối quan hệ bang giao mềm dẻo trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền đất nước. Tế tửu Phùng Khắc Khoan trong chuyến đi công cán tại Trung Quốc còn kín đáo mang về nước hạt Ngọc mễ [giống ngô] để phổ biến cho nhân dân trồng trọt.

Các sử gia: Ngô Sĩ Liên, Lê Tung, Lê Quí Đôn … đã cống hiến cho nền sử học dân tộc những bộ quốc sử quí báu [Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử, Quốc sử tục biên…] cùng nhiều tư liệu quí [văn đình đối, văn bia Tiến sĩ, bi ký tại các đền, chùa, nhà học …] ghi chép lại nhiều sự kiện lịch sử trọng đại diễn ra tại kinh đô và các địa phương. Nhà toán học Lương Thế Vinh với tác phẩm Đại Thành toán pháp và các qui tắc tính chu vi, diện tích các hình khối… đã đưa ngành toán học Việt Nam ở thế kỷ XV bước sang một giai đoạn mới. Thiên Nam dư hạ tập [do Tế tửu Thân Nhân Trung viết chung với Đỗ Nhuận] nói về các qui định, luật lệ, sáng tác văn học dưới thời Lê Thánh Tông, cùng các áng thơ, văn thời Lý – Trần và tác phẩm của các vị Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử Giám [thành viên Hội Tao đàn] hay tác phẩm của nhà Bách khoa toàn thư Lê Quí Đôn đã làm giàu có, phong phú thêm kho tàng văn học, nghệ thuật và góp phần nâng cao nền học vấn nước nhà...vv.

 Bởi vậy, đội ngũ các vị Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử Giám Thăng Long không chỉ là các “yếu nhân” giữ vận mệnh của Trường Quốc Tử Giám trong suốt mấy trăm năm lịch sử dưới thời Lý, Trần, Lê… mà còn là những người đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển chung của nền văn hóa, giáo dục Đất nước./.

                                                                                                                                                                                                                       Ths.Đỗ Thị Tám

Phó Giám đốc Trung tâm HĐVHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Được thành lập từ thế kỷ XI, Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long đóng vai trò là cơ quan quản lý giáo dục của quốc gia, là trường Quốc học cấp cao nhất của nhà nước quân chủ, nơi đào tạo ra hàng ngàn Nho sĩ, trí thức và quan lại cao cấp đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước dưới thời quân chủ. Tế tửu, Tư nghiệp - Các vị quan đứng đầu, quản lý Quốc Tử Giám là những “người tài giỏi, có đức, thông hiểu kinh sách… phụng mệnh [nhà Vua] trông coi nhà Văn Miếu, rèn tập sĩ tử, phải chiếu theo chỉ truyền, hằng tháng theo đúng kỳ cho [học trò trường Giám] tập làm văn, để gây dựng nhân tài, giúp việc thực dụng cho nước”. 

Nền cũ của Trường Giám [sau khi điện Khải Thánh bị phá hủy

Mặc dù được khởi lập và hoạt động từ năm 1076, nhưng phải đến thời Trần [1225-1400], Quốc Tử Giám Thăng Long mới được nhà nước chú trọng phát triển cả về quy mô và cơ cấu tổ chức. Để việc dạy và học tại Quốc Tử Giám được quy củ, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 5 [1236] Vua Trần Thái Tông đã chọn người quản lý Quốc Tử Giám với chức vụ là Đề điệu. Tuy nhiên, phải đến năm Nhâm Thân, niên hiệu Thiệu Long thứ 15 [1272], Vua Trần Thái Tông mới đặt học quan chính thức cho trường Quốc Tử Giám. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Mùa đông tháng 10. Chọn người tài giỏi, có đức, thông hiểu kinh sách bổ làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Như vậy, Tư nghiệp thời Trần là học quan chính thức của Quốc Tử Giám.

Bộ máy quản lý việc dạy và học ở Quốc Tử Giám thời Trần sau đó hầu như không thay đổi. Sang thời Lê, cùng với sự phát triển của Quốc Tử Giám, hệ thống quan chức của Quốc Tử Giám ngày càng được hoàn thiện. Năm Giáp Dần niên hiệu Thiệu Bình thứ 1 [1434], Lê Thái Tông đặt chức quan Tế tửu đứng đầu Quốc Tử Giám. Chức quan Tư nghiệp đứng thứ 2 sau Tế tửu. Ngoài ra, học quan của Quốc Tử Giám còn có Giáo thụ, Trợ giáo, Ngũ kinh Bác sĩ....

 Nghiên đá của Quốc Tử Giám xưa đặt tại sân điện Khải Thánh

Chức Tế tửu ở Trung Quốc xuất hiện từ thời nhà Hán. Theo sách Từ nguyên của Trung Quốc, Tế tửu vốn là danh hiệu để chỉ người lớn tuổi nhất, có địa vị cao nhất trong buổi tiệc được chọn làm người dâng rượu tế đất trước khi uống. Về sau, lấy đó đặt chức quan. Tế tửu Quốc Tử Giám ở Việt Nam là chức quan đứng đầu trường Quốc Tử Giám. Theo Quan chế thời Hồng Đức, Tế tửu thuộc hàm Tòng tứ phẩm. Chức trách của Tế tửu được Phan Huy Chú cho biết trong Lịch triều Hiến chương loại chí là: “phụng mệnh trông coi nhà Văn Miếu, rèn tập sĩ tử, phải chiếu theo chỉ truyền, hằng tháng theo đúng kỳ cho [học trò trường Giám] tập làm văn, để gây dựng nhân tài, giúp việc thực dụng cho nước”.  Như vậy, Tế tửu ngoài chức trách là học quan của Quốc Tử Giám còn làm nhiệm vụ trông coi Văn Miếu, thực hiện việc cúng tế xuân, thu nhị kỳ theo quy định tế lễ tại Văn Miếu. Chức trách Tế tửu thời Lê Trung hưng không thay đổi nhiều, nhưng từ năm Bảo Thái thứ 2 [1721], Lê Dụ Tông yêu cầu Tế tửu cùng tham gia giảng dạy cho học trò ở tại Quốc Tử Giám, để khuyến khích sĩ tử, nâng cao chất lượng giáo dục.

Chức năng của Quốc Tử Giám là nơi đào tạo quan lại cho nhà nước, vì thế, Tế tửu với vai trò là người đứng đầu Quốc Tử Giám ngoài việc tổ chức dạy và học, còn phải tổ chức khảo hạch [kiểm tra] sự chuyên cần, tiến bộ của Giám sinh, chấm bài và báo cáo sang Bộ Lại để làm căn cứ bổ tuyển nhân tài theo quy định.

Quốc Tử Giám dưới thời Lê còn là cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo của nhà nước, nên khi triều đình có chủ trương thay đổi quy chế giáo dục, thi cử, thì quan Tể tửu phải thực hiện thay đổi chương trình dạy và học ở tại Quốc Tử Giám, đồng thời hướng dẫn cho các trường học trong cả nước, cho các học quan ở các địa phương tuân theo.

Chức vụ Tư nghiệp ở Trung Quốc được đặt từ thời nhà Tùy năm Đại Nghiệp thứ 3 [603] làm nhiệm vụ nắm việc giáo pháp, chính lệnh ở Quốc Tử Giám. Ở Việt Nam, Tư nghiệp Quốc Tử Giám lúc đầu [thời Trần] là chức học quan đứng đầu Quốc Tử Giám, phụ trách, quản lý việc giáo dục tại trường. Sang thời Lê sơ, là chức quan thứ 2, sau Tế tửu, làm phó cho Tế tửu, giúp Tế tửu trong việc rèn tập sĩ tử. Quan chế thời Lê xếp Tư nghiệp hàm Tòng ngũ phẩm. Từ năm Bảo Thái thứ 2 [1721], Tư nghiệp cùng với Tế tửu tham gia giảng dạy tại trường.

Để đảm nhiệm được trọng trách trên, ngay từ đầu, khi tuyển chọn nhân sự cho Quốc Tử Giám, triều đình thường chọn những bậc tài năng, đạo cao đức trọng. Đợt tuyển chọn Tư nghiệp đầu tiên của nhà nước dưới thời Trần, Tư nghiệp đã là người phải có tài, có đức và thông hiểu kinh sách. Dưới thời Trần, Chu Văn An [1292-1370], danh nho nổi tiếng học vấn uyên thâm, đạo đức trong sáng được Vua Trần Minh Tông mời ra làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, đồng thời dạy học cho Hoàng Thái tử.

Thời Lê sơ, Tế tửu, Tư nghiệp đều là những bậc đại khoa, nổi tiếng về tài năng và đức độ. Có thể kể đến những bậc hiền tài làm Tế tửu, Tư nghiệp như Trạng nguyên Nguyễn Trực người Quốc Oai, Hà Nội; Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ người Thanh Trì, Hà Nội, hay Trạng nguyên Lương Thế Vinh người Nam Định, Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên người ở Hoài Đức, Hà Nội; Tiến sĩ Thân Nhân Trung người Bắc Giang, ... Sau này, từ thời Lê Trung hưng, đặc biệt là từ năm Quý Dậu, niên hiệu Chính Hòa 14 [1693] đời Lê Hy Tông, triều đình quy định, những người được giữ chức Tế tửu, Tư nghiệp phải là các nhà khoa bảng, đang giữ những trọng trách quan trọng của triều đình [Thượng thư, Thị lang] kiêm nhiệm. Thời kỳ này, do yêu cầu về canh tân giáo dục, phục hưng đất nước, nên việc tuyển chọn học quan của Quốc Tử Giám rất được chú trọng. Các vị quan đại thần có uy tín, học vấn uyên bác như Hộ bộ Thượng thư Phùng Khắc Khoan; Tham tụng, Thiếu bảo Kiều Quận công Nguyễn Công Thái, Bồi tụng, Công bộ Thương thư Trương Công Giai, Bồi tụng, Lễ bộ Thượng thư Nguyễn Bá Lân, Lễ bộ Thượng thư Nguyễn Nghi; Bồi tụng, Hình bộ Tả thị lang Vũ Miên, Tham tụng, Binh bộ thượng thư Nhữ Đình Toản; Tham tụng, Công bộ Thượng thư Nguyễn Nghiễm, … được triều đình tin tưởng, bổ nhiệm giữ trọng trách Tế tửu, Tư nghiệp. Đội ngũ học quan này đã góp phần không nhỏ vào việc đào tạo nên hàng loạt danh nho, danh thần cho đất nước như: Vũ Miên, Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoản, Nguyễn Công Thái, Trần Danh Lâm, Lê Quý Đôn, Ngô Thời Nhậm, Ngô Thời Sĩ, Bùi Huy Bích, Phan Huy Ích, ….

Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử Giám không chỉ là nhà quản lý về giáo dục, mà còn là những nhà giáo mẫu mực, đức trọng tài cao, là những trụ cột quốc gia giúp triều đình trong việc “trị quốc, bình thiên hạ”, là những cây đại thụ trong nền văn hóa, nước nhà. Các vị Tế tửu, Tư nghiệp Quốc Tử Giám luôn xứng đáng là tấm gương về trí tuệ, tài năng, tinh thần rèn luyện, cống hiến cho sự nghiệp kiến quốc và trồng người. Họ sẽ mãi là tấm gương để các thế hệ kính trọng, noi theo.

ThS.NCS Nguyễn Văn Tú

Phó Giám đốc Trung tâm HĐVHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám

Lịch sử khoa cử Nho học Việt Nam mở đầu bằng khoa thi Tam trường để chọn Minh kinh Bác học vào năm 1075 dưới triều Vua Lý Nhân Tông. Người đỗ đầu kỳ thi này là Lê Văn Thịnh [Bắc Ninh]. Nối tiếp các năm 1086, 1152, 1165, 1185 và 1193 nhà Lý đều cho mở các khoa thi Tam trường để chọn người tài nhằm củng cố bộ máy chính quyền. Đến năm 1195, triều đình nhà Lý cho mở khoa thi Tam giáo [Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo]. Thi Tam giáo tồn tại cho đến năm 1247, đời vua Trần Thái Tông thì chấm dứt.

Dưới triều Trần [1225-1400], chế độ khoa cử phát triển, các khoa thi mở đều đặn, thể lệ rõ ràng hơn. Từ năm 1232, triều Trần mở khoa thi Thái học sinh chọn: Đệ nhất giáp, Đệ nhị giáp và Đệ tam giáp. Năm 1247, đặt danh hiệu tam khôi [Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa] cho 3 người trong hàng đệ nhất giáp. Đến năm 1374, triều đình mở khoa thi Đình ở Hoàng cung để chọn người đỗ Tiến sĩ, thay thế cho học vị Thái học sinh. Năm 1396, vua Trần Thuận Tông đặt lệ thi Hương lần đầu tiên để lấy đỗ Cử nhân và quy định cứ 7 năm một kỳ thi, năm trước thi Hương, năm sau thi Hội ở Kinh đô. Thi Hội bắt đầu có từ thời Trần.

Trong 7 năm tồn tại ngắn ngủi [1400 - 1407], triều Hồ cũng có những quan tâm nhất định đối với nền giáo dục nước nhà và vẫn theo phép thi của triều Trần, nhưng qui định 3 năm mở một khoa thi. Năm 1400, triều Hồ tổ chức khoa thi Thái học sinh. Năm 1404, định thể thức thi chọn nhân tài: cứ tháng 8 năm trước thi Hương thì tháng 8 năm sau thi Hội, người đỗ được bổ Thái học sinh.

Dưới triều Lê sơ, khoa cử thịnh đạt và phát triển tới đỉnh cao trong lịch sử khoa cử Việt Nam. Năm 1434, Vua Lê Thái Tông xuống chiếu định lệ thi Hương, thi Hội và qui định 3 năm mở một khoa thi.

Để được thi Hương, Nho sinh phải trải qua kỳ thi Khảo hạch tổ chức tại địa phương để loại bớt những người chưa thực sự đủ năng lực, đức hạnh. Thi Hương gồm 4 kỳ, đỗ kỳ trước mới được vào kỳ sau. Bốn kỳ thi Hương gồm: kỳ 1 thi Kinh nghĩa; kỳ 2 thi Chế, Chiếu, Biểu; kỳ 3 thi Thơ, Phú; kỳ 4 thi Văn sách. Thi Hương thường được tổ chức ở một bãi đất trống rất rộng như bãi ven sông hoặc những cánh đồng đã thu hoạch. Xung quanh trường thi được rào kín, ở chính giữa dựng một số nhà tranh dùng làm nơi chấm thi. Nho sinh đỗ thi Hương được gọi là Hương cống và được phép tham dự thi Hội.

Thi Hội có thể thức và nội dung như thi Hương, nhưng đòi hỏi trình độ cao hơn. Đỗ cả 4 kỳ thi Hội được tham dự thi Đình. Đỗ đầu thi Hội được gọi là Hội nguyên. Trường thi Hội cũng giống như trường thi Hương.

Thi Đình thường được tổ chức tại sân của Hoàng cung nên còn được gọi là Điện thí. Thí sinh làm một bài văn sách do vua ra đề hỏi về đạo trị nước, sử dụng hiền tài... Thi Đình để phân hạng đỗ cao thấp. Đỗ đầu thi Đình được gọi là Đình nguyên. Theo quy định của triều Lê, người đỗ được phân theo 3 hạng:

Hạng thứ nhất: Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, chỉ gồm 3 người [Tam khôi]: Đệ nhất danh [Trạng nguyên], Đệ nhị danh [Bảng Nhãn], Đệ tam danh [Thám hoa].

Hạng thứ hai: Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân [Hoàng giáp]

Hạng thứ ba: Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân [Tiến sĩ]

Tuy nhiên, có khoa thi chỉ có 3 người đỗ [như khoa thi năm 1592], có khoa thi đến 62 người đỗ [như khoa thi năm 1478], nên không phải tất cả các khoa thi đều có đủ các hạng, các danh hiệu, không phải cứ đỗ đầu [Đình Nguyên] thì được phong Trạng nguyên. Trong lịch sử khoa cử Việt Nam chỉ có 46 người được phong danh hiệu Trạng nguyên.

Các khoa thi được tổ chức cho tất cả nho sinh trong cả nước, không phân biệt nơi học, tuổi, địa vị xã hội, số lần đã thi. Vì thế, có khoa thi Hội có đến 6.000 Hương cống ứng thí, có nhiều người đang làm quan cũng ứng thí, có người đỗ khi còn rất trẻ, có người đến 68 tuổi mới đỗ [như Quách Đồng Dần đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1634]. Tuy nhiên, con nhà“xướng ca”,con nhà tội đồ của triều đình, con nhà bị coi là điêu ngoa, loạn luân và gian dối, người đang để tang cha, mẹ không được thi.

Triều Mạc, Lê Trung hưng sau này đều theo phép thi cử của triều Lê sơ.

Triều Nguyễn định đô ở Huế. Năm 1807, triều đình chính thức mở khoa thi Hương, đồng thời quy định cứ 3 năm một khoa thi Hương vào các năm: Tý, Ngọ, Mão, Dậu; cùng 3 năm một khoa thi Hội vào các năm: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Trường thi Hương mở ở nhiều nơi cho thí sinh một tỉnh hoặc một số tỉnh như các trường thi: Hà Nội, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa Thiên, Gia Định, An Giang. Thi Hội và thi Đình ở kinh đô Huế. Triều Nguyễn không lấy đỗ Trạng nguyên, nhưng lấy thêm hạng Phó bảng dưới Tiến sĩ.

Lịch sử khoa cử Nho học Việt Nam bắt đầu từ năm 1075 và kết thúc vào năm 1919 đã trải qua 183 khoa thi đại khoa, lấy đỗ 2.898 vị bao gồm cả Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ và Phó bảng./.

Nhà Hữu vu

Nền cũ của Trường Giám [sau khi điện Khải Thánh bị phá hủy]

Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội từ năm 1945 trở đi chỉ còn là nơi thờ tự nên hoạt động duy nhất được tổ chức tại Văn Miếu là tế lễ Khổng Tử và các tiên hiền, tiên Nho. Điều đáng chú ý là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến đây chủ trì buổi tế Thu vào ngày 21/10/1945 và Huỳnh Thúc Kháng - Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trì buổi tế Thu ngày 22/9/1946. Sự kiện này khẳng định vai trò và giá trị to lớn của Văn Miếu-Quốc Tử Giám đối với nền văn hóa của dân tộc trong hoàn cảnh mới của lịch sử.Từ sau tháng 9/1946, việc tổ chức tế lễ được thực hiện theo tinh thần dân chủ, tiến bộ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mỗi năm chỉ tế một lần vào ngày sinh Khổng Tử [ngày 27 tháng 8]. Các qui định về cách thức hành lễ đơn giản, chỉ cần lên xuống gối thay cho phủ phục; người dự lễ có thể mặc đồ âu phục; lễ vật cũng đơn giản, tiết kiệm, chỉ cần hoa, quả.Trong thời kỳ Kháng chiến chống Pháp [1946-1954], Văn Miếu - Quốc Tử Giám bị hư hại nhiều. Giai đoạn đầu thời kỳ Toàn quốc Kháng chiến [1946-1947] khu đền Khải Thánh cũng như nhà Đông vu, Tây vu khu Điện Đại Thành đã bị phá hủy.Để bảo vệ Di tích Văn Miếu, một số người tâm huyết với nền văn hóa nước nhà đã đứng ra thành lập Văn Miếu học hiệp hội với mong muốn bảo vệ, tu bổ, tôn tạo di tích. Văn Miếu học hiệp hội đã góp phần quan trọng vào việc gìn giữ di tích này cho đến ngày giải phóng Thủ đô [năm 1954].Năm 1954, sau khi tiếp quản Thủ đô, ngành Văn hóa Hà Nội đã tu sửa lại Văn Miếu, trùng tu hai dãy Đông vu, Tây vu ở hai bên sân Đại Bái.Ngày 28/04/1962, Văn Miếu - Quốc Tử Giám được Bộ Văn hoá xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia.Ngày 25/04/1988, Trung tâm Hoạt động Văn hóa Khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám được thành lập, có trụ sở đặt ngay trong Di tích. Trung tâm Hoạt động Văn hóa Khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám có chức năng quản lý, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám trong giai đoạn mới, góp phần bảo tồn, xây dựng nền văn hóa mới của dân tộc.

Tứ trụ và cổng Văn Miếu

 Cổng Thái Học

Dưới thời Nguyễn, Thăng Long không còn giữ vị trí Kinh đô mà trở thành thủ phủ của phủ Hoài Đức [sau này thuộc trấn Bắc Thành]. Văn Miếu trong thời kỳ này được gọi là Văn Miếu trấn Bắc Thành, sau đổi tên thành Văn Miếu Hà Nội, Quốc Tử Giám trở thành trường học của phủ Hoài Đức. Về sau, khu vực này được chuyển đổi thành đền Khải Thánh thờ cha, mẹ của Khổng Tử. Đối tượng thờ tự tại Văn Miếu Hà Nội thời gian này gồm: Khổng Tử, Tứ phối, Thập triết thờ trong điện Đại Thành, Thất thập nhị hiền thờ tại hai dãy nhà Tây, Đông vu. Đền Khải Thánh là nơi thờ cha, mẹ của Khổng Tử. Tuy đã mất đi vị thế là Trung tâm giáo dục cao cấp của đất nước, nhưng Văn Miếu trấn Bắc Thành vẫn được triều Nguyễn quan tâm, trùng tu, tôn tạo.

Năm 1805, Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành đã dựng Khuê Văn Các tại Văn Miếu. Đây là công trình có kiến trúc đặc biệt, một lầu vuông hai tầng, có tám mái theo lối trùng diêm, được xây dựng trên một nền vuông cao lát gạch Bát Tràng. Tầng dưới là 4 trụ gạch vuông, tầng trên là kiến trúc gỗ, mái lợp ngói ống, bốn mặt đều có 4 cửa sổ được trang trí hình tròn, xung quanh có những thanh gỗ con tiện tỏa ra các phía. Khuê Văn Các được ví như hình ảnh của sao Khuê, ngôi sao chủ về văn chương nhằm đề cao trung tâm giáo dục Nho học, góp phần làm tôn thêm giá trị văn hóa và mỹ thuật cho Văn Miếu - Quốc Tử Giám.

Năm 1808, sau khi xây dựng xong Văn Miếu ở kinh đô Huế, nhà Nguyễn đã hạ lệnh cho Văn Miếu các địa phương trong đó có Văn Miếu Bắc Thành thờ thần vị Tiên sư, không thờ tượng. Nơi nào có tượng thì chọn chỗ đất sạch mà chôn đi. Tại Văn Miếu Bắc Thành chỉ còn bài vị Khổng Tử và các vị Tiên hiền, tiên Nho.

Năm 1827, vua Minh Mệnh lệnh chuyển các bản in Ngũ kinh, Tứ thư Đại Toàn và Võ kinh trực giảnglưu giữ ở Văn Miếu Bắc Thành về Quốc Tử Giám Huế. Đến năm 1833, nhà Đại Bái và Điện Đại thành được sơn và sửa lại, tường bao quanh toàn khu Văn Miếu được xây dựng lại. Năm 1858, dựng hai dãy nhà bia Tiến sĩ bên Tả, Hữu vu, mỗi bên 11 gian. Năm 1863, Bố chánh Hà Nội là Hoàng giáp Lê Hữu Thanh cùng Án sát Đặng Tá quyên tiền xây dựng lại nhà bia, mỗi bên 2 tòa, mỗi tòa 11 gian để bảo vệ bia Tiến sĩ.

Sau hiệp ước Patenôtre [1888], người Pháp hoàn toàn nắm quyền cai trị Hà Nội. Giai đoạn 1888 - 1945 là giai đoạn nhiều biến động nhất trong lịch sử Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Văn Miếu từng bị thực dân Pháp biến thành trại lính và trường bắn, có thời kỳ là khu cách ly cho những người bị mắc dịch tả tại Hà Nội. Đặc biệt, chính phủ bảo hộ Pháp đã cắt phần lớn đất phía Bắc của Văn Miếu - Quốc Tử Giám để quy hoạch đường phố. Trước sự đấu tranh của nhân dân Hà Nội, quân đội Pháp mới trả lại Di tích này cho chính quyền sở tại quản lý và hoạt động tế lễ được khôi phục tại đây.

Trong thời gian từ 1888-1945, Văn Miếu đã trải qua các đợt trùng tu vào các năm 1888, 1897 - 1901 và 1904 – 1909. Đặc biệt, đợt trùng tu năm 1888 được coi là đợt trùng tu lớn cuối cùng ở Văn Miếu Hà Nội dưới thời phong kiến. Việc tu sửa này được ghi chép trên biển gỗ, hoành phi“Đại Thành môn”, “Vạn thế sư biểu”. Ngoài ra, để vỗ về người Việt, Công sứ toàn quyền Bắc Kỳ cấp kinh phí sửa chữa các gian thờ, mua sắm đồ tế khí và xin cho giữ lợi tức thu được trên 12.300m2 đất xung quanh để bảo quản và tu bổ Văn Miếu. Năm 1906, Toàn quyền Đông Dương đã xếp hạng khu vực Văn Miếu - Quốc Tử Giám là Di tích lịch sử, văn hóa.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long - Hà Nội dưới thời Nguyễn [1802-1845] trải qua nhiều thăng trầm, song Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn luôn được bảo vệ, giữ gìn, xứng đáng là Trung tâm giáo dục, văn hóa tiêu biểu của cả nước.

Thời Lê Trung hưng, Văn Miếu - Quốc Tử Giám tiếp tục được nhà nước quan tâm, tu sửa, quy mô ngày càng hoàn thiện. Năm 1645, hiện trạng của Văn Miếu - Quốc Tử Giám được miêu tả qua Lê triều chiếu lệnh thiện chính như sau: “Điện Đại Thành ở Quốc Tử Giám [nhà Đại học của quốc gia] có tả hữu ở phía đông, phía tây và 4 nghi môn. Nhà Minh Luân có 2 giảng đường phía đông và phía tây, và cửa nghi môn Sùng Nho 4 mặt xây tường”. Hàng năm việc tu bổ, xây dựng thêm, lát gạch và dọn cỏ, theo lệ cũ do lính ở các huyện, xã và các phường ở hai huyện Thọ Xương và Quảng Đức

Đến năm 1662, các công trình kiến trúc của Quốc Tử Giám nhiều chỗ bị sụt lở, dột nát. Lễ bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, Thiếu bảo Phạm Công Trứ được giao nhiệm vụ trông coi việc sửa sang Quốc Tử Giám. Phạm Công Trứ cho xây dựng Phán Thuỷ Đường trên gò Kim Châu ở hồ Văn và làm 10 bài thơ vịnh để ghi lại cảnh đẹp. Cứ đến mùng Một và ngày rằm hàng tháng, học trò lại tập trung về Quốc Tử Giám học tập.

Mùa xuân năm Canh Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng 21 [1760], triều đình cho sửa lại nhà Đại Bái và làm hai cột đá hình bút lông dựng phía trước. Đến tháng 9 năm Cảnh Hưng thứ 23 [1762], chúa Trịnh Doanh cho tu sửa Quốc Tử Giám. Không lâu sau lần sửa chữa này, diện mạo của Văn Miếu - Quốc Tử Giám được Lê Quý Đôn mô tả lại trong sách Kiến văn tiểu lục khá cụ thể: “Cửa Đại Thành 3 gian 2 chái, lợp bằng ngói đồng. Đông vu và Tây vu mỗi dãy đều 7 gian. Đằng sau có cửa nhỏ 1 gian, điện Canh phục 1 gian 2 chái. Nhà bếp 2 gian. Kho tế khí 3 gian 2 chái, cửa Thái Học 3 gian có tường ngang lợp bằng ngói đồng. Nhà bia phía đông và phía tây mỗi dãy đều 12 gian. Kho để ván khắc in sách 4 gian. Ngoại nghi môn 1 gian xung quanh đắp tường. Cửa Hành mã ngoài tường ngang 3 gian. Nhà Minh Luân 3 gian 2 chái. Cửa nhỏ bên tả và bên hữu đều 1 gian, có tường ngang. Nhà giảng dạy ở phía đông và phía tây 2 dãy, mỗi dãy đều 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá ở phía đông và phía tây đều 3 dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người

Năm 1771, hai bia Hạ Mã được dựng phía trước Văn Miếu - Quốc Tử Giám với hàm ý dù quan lại hay dân thường khi đi qua cửa Văn Miếu đều phải xuống ngựa đi bộ qua cửa Văn Miếu nhằm thể hiện sự tôn kính đối với các bậc Tiên thánh, Tiên hiền. Cũng trong năm này, Quan coi Quốc Tử Giám đã cho giải toả nhà ở của dân xung quanh hồ Văn, mở rộng, trồng cây, lát đường. Văn Miếu - Quốc Tử Giám trở lại trang nghiêm như xưa. Năm 1785, Bùi Huy Bích lại cho trùng tu nhà Thái Học.

Dưới thời Lê Trung hưng, đứng đầu Văn Miếu - Quốc Tử Giám vẫn là Tế tửu. Ngoài Tế tửu và Tư nghiệp, học quan còn có Giáo thụ, Trực giảng, Học chính. Năm 1693, nhà vua cho phép các quan Quốc Tử Giám được ở ngay tại trường để tiện cho việc giảng dạy và quản lý Nho sinh. Từ năm 1721 đời Vua Lê Dụ Tông, Tế tửu và Tư nghiệp cũng tham gia giảng dạy. Ngoài ra, triều đình còn cử một vị quan đại thần chuyên lo công việc của Văn Miếu - Quốc Tử Giám với chức vụ là Tri Quốc Tử Giám [Như Tri Quốc Tử Giám Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Công Thái]. Quy chế giảng dạy và học tập của Quốc Tử Giám thời kỳ này về cơ bản vẫn giống như thời Lê Thánh Tông. Tuy nhiên, ngoài nhiệm vụ dạy, học và bảo cử, Quốc Tử Giám còn thực hiện những việc liên quan đến việc khảo đính, biên soạn sách vở, đặc biệt là in ấn các sách kinh điển của Nho giáo để cung cấp cho các Nho sinh cả trong và ngoài Giám.

Dưới thời Lê Trung hưng, Văn Miếu - Quốc Tử Giám được quan tâm tu bổ nhiều lần, điều này thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với Nho giáo và với nền giáo dục của nước nhà.

Sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi [1428], vương triều Lê chính thức được kiến lập và bắt đầu công cuộc ổn định, xây dựng, phát triển đất nước. Văn Miếu - Quốc Tử Giám thời Lê sơ được quan tâm đặc biệt. Đây cũng là thời kỳ Văn Miếu - Quốc Tử Giám và nền giáo dục khoa cử theo Nho giáo phát triển rực rỡ. Ngay trong những năm đầu lên ngôi, vua Lê Thái Tổ cho mở nhà học, lấy cỗ Thái lao [cỗ tam sinh: Trâu, bò, dê] để tế Khổng Tử. Vua Lê Thái Tổ đã cho chọn con cháu các quan và nhà thường dân tuấn tú vào Quốc Tử Giám làm Giám sinh và xuân thu nhị kỳ đích thân nhà vua làm chủ tế tại Văn Miếu.

Dưới thời vua Lê Thái Tông [1433-1442] và Lê Thánh Tông [1460-1497], Văn Miếu – Quốc Tử Giám được quan tâm đặc biệt. Vào năm Hồng Đức thứ 15 [1484], triều đình cho đại trùng tu Văn Miếu - Quốc Tử Giám, khang trang to đẹp:“Đằng trước nhà Thái học dựng Văn Miếu. Khu vũ của Văn Miếu có: điện Đại Thành để thờ Tiên Thánh, Đông vũ và Tây vũ chia ra thờ các Tiên hiền, Tiên nho; điện Canh Phục để làm nơi túc yết. Một kho để chứa đồ tế khí và một phòng để làm nhà bếp; đằng sau nhà Thái học, dựng cửa Thái học, nhà Minh Luân. Giảng đường phía đông và giảng đường phía tây thì để làm chỗ giảng dạy các học sinh. Lại đặt thêm kho Bí thư để chứa ván gỗ đã khắc thành sách; bên đông, bên tây nhà Thái học làm nhà cho học sinh trong ba xá, mỗi bên ba dãy, mỗi dãy 25 gian để làm chỗ nghỉ ngơi của học sinh”[Đại Việt sử ký toàn thư].

Cũng trong năm 1484, sau khi hoàn thành việc trùng tu, Vua Lê Thánh Tông cho dựng 10 bia đá ghi về các khoa thi Tiến sĩ được tổ chức từ năm 1442 đến 1484 cũng như tên họ, quê quán những người đỗ. Đây là sự kiện đặc biệt, khởi đầu cho lệ dựng bia Tiến sĩ tại Văn Miếu. Nhà Vua chọn các nhà Nho tài năng soạn văn bia nhằm khích lệ, đề cao đạo học và những người hiền tài. Trên tấm bia dựng cho khoa thi năm 1442, khoa thi đầu tiên được dựng bia, Thân Nhân Trung đã viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí suy thì thế nước kém và suy vì thế không bậc thánh đế minh vương nào không chăm lo gây dựng nhân tài, đắp bồi nguyên khí”. Có thể coi đây là phương châm, tuyên ngôn về giáo dục của các triều đại phong kiến Việt Nam, cũng là phương châm giáo dục của mọi thời đại.

Dưới thời Lê, Quốc Tử Giám được nâng cấp thực sự trở thành một Trung tâm giáo dục Nho học cao cấp của nhà nước, có bộ máy quản lý hoàn chỉnh và cách thức tổ chức học tập bài bản. Quốc Tử Giám thời Lê còn được gọi là Thái học viện. Quy chế lựa chọn Giám sinh chặt chẽ, rõ ràng: Người thi Hội trúng ba kỳ thì sung vào Thượng xá sinh, trúng hai kỳ sung vào Trung xá sinh, trúng một kỳ sung vào hạng Hạ xá sinh. Mỗi xá 100 người, việc cất nhắc bổ dụng căn cứ theo ba hạng đó. Quy chế tuyển chọn vào Thái Học viện này được áp dụng cho cả thời gian về sau. Đặc biệt, triều đình cho phép tuyển lựa cả con em dân thường có tài, có triển vọng vào học để làm nguồn bổ sung cho bộ máy quản lý đất nước. Ngoài những người đủ tiêu chuẩn được chọn vào học ở Quốc Tử Giám, hàng năm đều có một số lượng lớn các Hương cống từ khắp các địa phương trong nước về Kinh đô theo học. Những người này chỉ cần làm thủ tục ghi tên là được đến nghe giảng bài, tập văn như các Giám sinh. Học trò Quốc Tử Giám mà có lúc đông đến hàng 6000 người.

Thời Lê sơ, đứng đầu Quốc Tử Giám là Tế Tửu, sau đến Tư nghiệp. Tế tửu và Tư nghiệp thường do các danh nho, đại thần tài năng, đạo đức trong sáng đảm nhiệm. Trực giảng, Bác sỹ, Giáo thụ, Trợ giáo là các chức quan giảng dạy. Sách học trong trường cơ bản là Tứ thư và Ngũ kinh, những sách kinh điển của Nho gia. Nội dung học tập ở Quốc Tử Giám chủ yếu dựa theo yêu cầu tuyển chọn của các kỳ thi Hội. Giám sinh tập trung vào việc luyện tập lối văn chương theo những hình thức, quy cách cố định, chuyên dùng cho việc thi cử. Ngoài ra, Giám sinh cũng được học thêm các thể loại văn khác như: Câu đối, văn tế... dùng trong đời sống hàng ngày để biểu lộ cảm nghĩ, mừng vui hay phúng viếng.

Quốc Tử Giám thời Lê sơ còn có nhiệm vụ bảo cử các Giám sinh với triều đình để bổ dụng làm quan. Hàng năm, vào 4 tháng trọng [tháng 2,5,8,11] quan Quốc Tử Giám khảo hạch Giám sinh, nếu trúng thì đề cử để Bộ Lại tuyển dụng khi cần. Quốc Tử Giám còn thực hiện những việc liên quan đến việc khảo đính, biên soạn sách vở, đặc biệt là in ấn các sách kinh điển Nho giáo để cung cấp cho các nho sinh trong cả nước.

Năm 1510, triều đình cho trùng tu Văn Miếu - Quốc Tử Giám với quy mô lớn. Kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám bao gồm: Điện Đại Thành và Đông vu, Tây vu là nơi thờ các bậc Tiên thánh, Tiên hiền của đạo Nho, điện Canh Phục là nơi để đồ tế lễ, và nơi nhà vua thay y phục trước khi tiến hành lễ tế Khổng Tử, khu bia Tiến sĩ; nhà Minh Luân; hai dãy giảng đường bên đông và bên tây, phòng học của sinh viên ba xá; Kho chứa ván khắc in sách của trường Giám, nơi cung cấp sách học cho học sinh trường Giám và các trường ở phủ, lộ.

Năm 1527, nhà Mạc lên thay nhà Lê nhưng vẫn theo nếp cũ về giáo dục khoa cử Nho học của triều Lê sơ. Nhà Mạc cho dựng bia Tiến sĩ khoa thi năm 1529. Đến năm Đại Chính thứ 7 [1536], Mạc Đăng Doanh sai Đông quân Tả đô đốc Khiêm quận công Mạc Đình Khoa trùng tu Quốc Tử Giám. Đây là lần trùng tu Văn Miếu-Quốc Tử Giám duy nhất của nhà Mạc nhưng sử sách không ghi rõ những công việc cụ thể trong đợt trùng tu này. Mùa xuân năm sau [1537], Mạc Đăng Doanh đến Văn Miếu làm lễ tế Tiên thánh, Tiên sư và thăm Quốc Tử Giám. Đến năm 1586, Lại bộ Thượng thư Nghĩa sơn hầu Trần Văn Tuyên dâng biểu xin tu sửa Quốc Tử Giám và 2 giải vũ ở điện Đại Thành, nghi môn, tiền nghi môn ở các giảng đường nhưng Mạc Mậu Hợp không đồng ý.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám dưới thời Lê sơ - Mạc luôn được nhà nước quan tâm và coi trọng, và phát triển về mọi mặt.

Văn Miếu được lập dưới thời Lý Thánh Tông, năm Canh Tuất niên hiệu Thần Vũ thứ 2 [1070] là nơi thờ Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối [bốn học trò xuất sắc của Khổng Tử là Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử], và Thất thập nhị hiền [72 nhà Nho tiêu biểu được tôn lên bậc Hiền triết], đồng thời là nơi Hoàng Thái tử Lý Càn Đức tới học. Quốc Tử Giám được lập dưới thời Lý Nhân Tông, năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 1 [1076] là nơi để quan viên văn chức biết chữ và con em Hoàng gia, Đại thần ở Kinh đô đến học. Khi mới thành lập, quy mô của Văn Miếu - Quốc Tử Giám còn khiêm tốn nhưng theo đà phát triển của vị thế Nho giáo trong xã hội, Văn Miếu – Quốc Tử Giám dần được quan tâm, tu sửa mở rộng hơn. Đến thời Trần, dù Phật giáo vẫn còn phát triển mạnh, dù rất bộn bề bởi các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, nhưng các vua Trần vẫn quan tâm đến Văn Miếu - Quốc Tử Giám và việc giáo dục Nho học. Năm 1236, triều đình lấy Phạm Ứng Thần giữ chức Thượng thư kiêm Đề điệu Quốc Tử viện để trông nom công việc học tập tại Quốc Tử viện. Triều đình cho trùng tu Quốc Tử viện vào năm 1243, xuống chiếu tô tượng Chu Công, Khổng Tử, Mạnh Tử vào năm 1253 để thờ và cho vời nho sĩ trong nước đến Quốc Tử viện giảng Tứ thư, Lục kinh. Việc lập Quốc Tử viện [Giám [trường] được đổi thành viện] làm nơi học tập cho quan viên biết chữ ở các địa phương và con em nhà vua, quan đại thần ở kinh đô đánh dấu sự trưởng thành cũng như vai trò to lớn của Văn Miếu - Quốc Tử Giám trong thời kỳ này. Văn Miếu thời Trần đã được tu sửa khang trang đẹp đẽ.

Năm 1272, nhà vua xuống chiếu cho tìm người tài giỏi, đạo đức, thông hiểu kinh sách [Tứ thư, Ngũ kinh] giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám [người đứng đầu trường Quốc Tử Giám]. Dưới thời vua Trần Minh Tông [1314-1329], thầy giáo Chu Văn An [người làng Thịnh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội] được triều đình cử giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Ngoài Tư nghiệp ra, tại Quốc Tử Giám còn có học quan khác là Trợ giáo như Trợ giáo Đoàn Xuân Lôi…

Dưới thời Trần, Văn Miếu vẫn là nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ phối và Thất thập nhị hiền. Sau này, triều đình cho phối thờ thêm Tư nghiệp Chu Văn An [1370], Trương Hán Siêu [1371] và Đỗ Tử Bình [1380]. Đây là trường hợp đặc biệt, thể hiện rõ tư tưởng tự chủ, tự cường của Quốc gia Đại Việt bấy giờ, đồng thời cũng là nét rất riêng của Văn Miếu - Quốc Tử Giám.

Thời Hồ, Văn Miếu – Quốc Tử Giám không có nhiều thay đổi.

Page 2

BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA THI NĂM QUÝ HỢI [1683]TẠI VĂN MIẾU-QUỐC TỬ GIÁM

Trong số 82 tấm bia đề danh các vị tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám chỉ có 18 tấm bia có khắc tên các vị Trạng nguyên. Nằm trong 18 tấm bia đặc biệt này không thể không nhắc đến bia tiến sĩ khoa thi năm Quý Hợi[1683], bia khắc tên Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo.

     Bia đề danh tiến sĩ của khoa thi năm Quý Hợi[1683] có kích thước nhỏ, dáng bia dẹt, cao 164cm, rộng 150cm, bia được chia làm 3 phần rõ rệt: Trán bia, Thân bia và Đế bia hình rùa. Trán bia được trang trí mặt trời và rồng mây cách điệu. Dưới Trán bia là hàng chữ Triện, chiều cao 10cm. Diềm quanh thân bia được trang trí họa tiết hoa dây. Chữ khắc trên Thân bia rất rõ nét. Đế bia hình rùa được tạo tác đơn giản, rùa có đầu ngẩng cao, mắt và mũi nhỏ, mai rùa trơn nhẵn, chân rùa được đục nông.

     Bia được dựng vào ngày mồng 3 tháng 3 năm 1717 trong đợt dựng bia tập trung lần thứ 3 [gồm 21 tấm bia của các khoa thi tổ chức từ năm 1656 đến năm 1712]. Về việc này, trong bài văn bia có ghi rõ: “Nhưng việc khắc đá đề tên chưa kịp cử hành, đó là vì các khoa từ năm Bính Thân tới nay vẫn chưa được dựng bia là muốn đợi làm luôn một thể”.

     Khoa thi năm Quý Hợi [1683] được tổ chức vào cuối năm đã thu hút tới 3000 người dự thi. Trải qua 4 trường thi của kỳ Hội thí đã lấy đỗ được 18 người. Sang tháng Giêng năm Giáp Tý, các thí sinh tiếp tục dự kỳ Điện thí do vua Lê Hy Tông đích thân ra đề. Sau kỳ Điện thí chọn được 3 người đỗ đầu gồm: Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo, Bảng nhãn Phạm Quang Trạch và Thám hoa Quách Giai.

    Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo sinh năm 1651, mất năm 1719. Ông là người làng Hoài Bão, huyện Tiên Du, trấn Kinh Bắc [nay là xã Liên Bảo, Tiên Du, Bắc Ninh].  Cha ông là Tiến sĩ Nguyễn Đăng Tuân, bác là Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo. Nguyễn Đăng Đạo đỗ Trạng nguyên khi 33 tuổi. Năm Đinh Sửu [1697] ông được cử đi sứ sang nhà Thanh để thương lượng đòi lại  động Ngưu Dương, Hồ Điệp, Phổ Viên thuộc huyện Vị Xuyên, xứ Tuyên Quang. Nguyễn Đăng Đạo làm quan trong triều trải các chức: Bồi tụng, Hộ bộ Hữu Thị lang, Lại bộ Hữu Thị lang, Ngự sử đài Đô ngự sử, Binh bộ Thượng thư,.. Khi mất, ông được phong tặng Lại bộ Thượng thư, tước Thọ Quận công, đồng thời được sắc phong làm Phúc thần phối thờ ở đình làng Hoài Bão.

Bảng nhãn Phạm Quang Trạch sinh năm 1653, người xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm[nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội]. Ông đỗ Bảng nhãn khi 31 tuổi. Ông làm quan đến chức Lễ bộ Hựu thị lang, tước nam. Khi mất được tặng chức Tả thị lang, tước tử.

Thám hoa Quách Giai sinh năm 1660, người xã Phù Khê, huyện Đông Ngàn [nay là thôn Phù Khê, xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh]. Ông đỗ Thám hoa khi 24 tuổi, làm quan đến chức Thái thường tự khanh.

    Đỗ hàng Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất than là Hoàng giáp Nguyễn Đương Hồ, người huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Nguyễn Đương Hồ làm quan đến chức Hình bộ Thượng thư.  Đỗ hàng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân có 14 người.

    Bài ký văn bia do Cẩn sự lang Hàn lâm viện hiệu thảo Nguyễn Kiều-Tiến sĩ khoa thi năm Ất Mùi Vĩnh Thịnh 11[1715], ông là người đã soạn 4 bài văn bia Tiến sĩ các khoa 1667, 1683, 1697, 1713. Nổi bật trong lời văn bia là những lời răn dạy về trách nhiệm gánh vác trọng trách triều đình dành cho những quan chức đương thời và những người vừa đỗ đạt: “Nhưng những người hiện đang được triều nay trọng dụng há không nhớ ơn lựa chọn của tiên vương, cảm nghĩ sự biểu dương ngày nay mà cẩn bước đường về sau, mỗi ngày một tiến để khỏi hổ thẹn với khoa danh sao? Thảng hoặc không được như thế, chỉ nặng nghĩ lo riêng cho mình mà nhẹ lòng vì việc nước, cầu may cho được chu toàn, thích xu nịnh, né tránh việc mất lòng, ắt không tránh khỏi công luận mai sau, há chẳng đáng sợ hay sao?”

                                                                                                                                                                                CT

BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA QÚY HỢI

 NIÊN HIỆU VĨNH TỘ 5 [1623]

         Bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm 1623, dựng ngày 16 tháng 11 niên hiệu Thịnh Đức 1 [1653] dưới triều vua Lê Thần Tông. Bia có kích thước cao 156cm, rộng 106 cm và dày 17cm. Trán bia trang trí hình mặt nhật và các tia sáng. Diềm bia chạm khắc hoa mẫu đơn. Bia thuộc nhóm thời Lê trung hưng mang phong cách chạm nổi họa tiết, các đường nét trang trí được vờn tỉa kĩ càng rõ nét.

         Khoa thi năm ấy sĩ nhân trong nước dự thi đông đến hơn 3000 người, tuyển chọn hạng xuất sắc 7 người. Ngày lành tháng 4 mùa hạ, hoàng thượng ngự ở cửa điện Kính Thiên, ra bài văn sách ở sân rồng. Vua xem quyển chọn bài, lấy Phùng Thế Trung đỗ đầu và 6 người còn lại đều đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.

         Phùng Thế Trung [1585-?], người xã Kim Bí huyện Tiên Phong, nay là thôn Kim Bí xã Tiên Phong, huyện Ba Vì, Hà Nội. Ông đỗ khoa thi này khi đã 39 tuổi, làm quan đến chức Hiến sát sứ. Sử sách ghi chép, đi thi tên ông là Phùng Thế Triết, đỗ khoa này chúa Trịnh Tùng còn tại vị. Cùng trong năm đó, chúa Trịnh Tùng mất, miếu hiệu là Triết Vương. Vì vậy, tên của ông Phùng Thế Triết bị đồng âm với miếu hiệu của chúa, nên phải đổi là Phùng Thế Trung. Trên văn bia khoa thi 1623 tên của ông được ghi là Phùng Thế Trung cũng là bởi lý do này.

         Nguyễn Phi Kiến [1565-?], người xã Dương Liễu, huyện Đan Phượng, nay là thôn Dương Hòa, xã Dương Liễu huyện Hoài Đức, Hà Nội. 59 tuổi ông đỗ Tiến sĩ, làm quan đến chức Hiến sát sứ. [Sách Đại Việt sử ký toàn thư và Cương mục đều ghi tên ông là Phạm Phi Kiến].

         Nguyễn Nhân Trừng [1587-?], người xã Xa Liễn huyện Yên Việt, nay là thôn Ngọ Xá, xã Châu Minh huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang. Ông thi đỗ năm 37 tuổi, làm quan đến chức Binh khoa Đô cấp sự trung, tước nam.

         Phạm Phúc Khánh [1579-?], người xã Man Nhuệ huyện Thanh Lâm, nay thuộc xã An Châu huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương. Ông xuất thân gia đình 3 đời đều đỗ đại khoa: Ông nội là Pham Quang Tán đỗ Hoàng Giáp năm 1499, cha là Phạm Y Toàn đỗ Tiến sĩ nhà Mạc năm 1589 [sau quy thuận làm quan nhà Lê]. Nối tiếp cha ông, Phạm Phúc Khánh 45 tuổi đỗ Tiến sĩ, ông làm quan đến chức Tự khanh, tước tử.

         Nguyễn Đệ [1577-?], người xã Minh Lương, huyện Thiên lộc, nay thuộc xã Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ Tiến sĩ năm 47 tuổi, làm quan đến chức Tham chính, tước bá.

          Phan Bảng [1594-?], người xã Hữu Bàng huyện Thạch Thất, Hà Nội. Ông thi đỗ khi đó 30 tuổi là vị Tiến sĩ ít tuổi nhất của khoa thi này, làm quan đến chức Hiến sát sứ.

         Đặc biệt, trên văn bia có ghi thông tin, khoa thi này có ông Nguyễn Trật [1573-?], người xã Nguyệt Viên huyện Hoằng Hóa [nay là thôn Nguyệt Viên xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa] khi vào thi Đình làm bài sai thể thức. Nhưng theo lệ cũ, những người được vào thi Đình thì không bị truất nên vẫn cho ông đỗ cuối bảng. Vì việc này mà kéo dài việc xướng danh yết bảng [chưa treo bảng vàng], đến việc ban cấp áo mũ, yến tiệc vinh quy đều chưa làm đúng lệ cũ.

         Trải qua các biến cố lịch sử của đất nước, mãi đến tháng 10 năm 1653 Hoàng thượng mới sai các từ thần chia soạn văn bia, khắc vào đá xanh để biểu dương sự tốt đẹp của Nho khoa, coi là việc tốt của thánh triều. Vì khoa thi này hồi đó chưa treo bảng vàng, nên nhà vua lại sai chép tên Tiến sĩ vào sách Đăng khoa lục y theo lệ thi Hội, treo bảng vàng ở đình Quảng Văn để ghi họ tên. 

         Theo sắc dụ của nhà vua, Mậu lâm lang Hàn lâm viện hiệu thảo Lê Đình Lại vâng sắc soạn, Trung thư giám hoa văn học sinh Đỗ Công Vị vâng sắc viết chữ. Chữ trên trán bia do Quang tiến thận lộc đại phu kim quang môn đãi chiếu kiêm triện thích thái thừa Quế Lan nam Nguyễn Quang Độ vâng sắc viết chữ Triện.

AV

BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA BÍNH THÌN

 NIÊN HIỆU HỒNG ĐỨC 27 [1496]

         Bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm 1496 dựng ngày mùng 6 tháng 12 niên hiệu Hồng Đức [1496] dưới triều vua Lê Thánh Tông. Bia có kích thước [169 × 118 × 19]cm. Trán bia không trang trí, diềm bia chạm khắc hoa dây thảo Đường. Bia thuộc nhóm thời Lê sơ nên mang phong cách khắc chữ, hoa văn đường nét mảnh nhỏ.

         Khoa thi này tuyển chọn được 30 nhà khoa bảng. Vua xem quyển chọn bài, lấy Nghiêm Viện đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Huân đỗ Bảng nhãn, Đinh Lưu đỗ Thám hoa, đều ban cho hạng Tiến sĩ cập đệ. Hàng Đệ nhị giáp Tiến sĩ cập đệ lấy 8 người, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân đỗ 19 người.

         Nghiêm Viện [năm sinh năm mất không rõ], người xã Bồng Lai, huyện Quế Dương, nay là thôn Cẩm Chành xã Bồng Lai, huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh. Theo Lịch triều đăng khoa, tên của ông là Nghiêm Viên, ông đỗ Trạng nguyên được nhà vua đổi tên là Nghiêm Viện và gả con gái cho. Ông mất sớm khi vinh quy về nhà.

          Nguyễn Huân [1473-?] người xã Kim Đôi, huyện Vũ Ninh – Nay là thôn Kim Đôi xã Kim Chân, huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân gia đình khoa bảng, là con cả của Tiến sĩ Nguyễn Nhân Thiếp [khoa thi năm 1466]. Ông đi thi, từ thi Hương đến thi Hội đều đỗ đầu, vào thi đình ông đỗ Bảng nhãn năm đó tròn 24 tuổi. Ông làm quan đến chức Lễ bộ Thượng thư. Sau mất được truy tặng hàm Thiếu bảo.

          Đinh Lưu [1479-?] người xã An Dật, huyện Thanh Lâm – Nay thuộc xã An Sơn huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương. Năm 18 tuổi, ông đỗ Thám hoa, làm quan đến chức Đông các đại học sĩ.

          Đỗ đầu hàng đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân [Hoàng giáp] là Đinh Cương [năm sinh năm mất không rõ]. Ông ở xã Tiên Tảo, huyện Bình Hà – Nay là thôn Tiên Tảo, xã Thanh An, huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương. Vua Lê Thánh Tông ngự phê cho đổi tên là Cường. Sau ông theo nhà Mạc được cử đi sứ sang nhà Minh, làm quan đến chức Thượng thư bộ Lại, tước hầu.

          Nguyễn Đạo Diễn [1468-?] đỗ đầu Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Ông người xã Kim Đôi, huyện Quế Võ, nay thuộc thôn Kim Đôi, xã Kim Chân, huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ Tiến sĩ năm 29 tuổi, làm quan đến chức Hiến sát sứ.

         Nhà vua cho các vị Tiến sĩ được ban cấp an vinh y theo lệ cũ, sai bộ Công khắc đá, sai Hiển cung đại phu Hàn lâm viện thị giảng tham chưởng Hàn lâm viện sự Lưu Hưng Hiếu làm bài ký ghi lại sự việc. Bài văn ký đã làm rõ trách nhiệm và bổn phận của kẻ sĩ đối với đất nước: Kẻ sĩ “phải cốt ở thực chất, lánh bỏ hư danh, văn chương phải cứng cỏi hồn thuận, sự nghiệp phải lâu dài to lớn,… khiến cho người đời sau nhón chân kính ngưỡng không thôi”.

         Cũng theo sắc dụ của nhà vua, Cẩn sự lang Trung thư giám chính tự Nguyễn Đức vâng sắc viết chữ. Chữ trên trán bia do Mậu lâm lang Kim quang môn đãi chế Tô Ngại vâng sắc viết chữ Triện.

Bia đề danh tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức 27 [1496]

DANH SÁCH 30 VỊ TIẾN SĨ KHOA THI NĂM 1496

Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, 3 người:

NGHIÊM VIỆN người xã Bồng Lai huyện Quế Dương.

NGUYỄN HUÂN người xã Kim Đôi huyện Vũ Giàng.

ĐINH LƯU người xã An Dật huyện Thanh Lâm.

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 8 người:

ĐINH CƯƠNG người xã Tiên Táo huyện Bình Hà.

NGUYỄN THANH người xã Nghĩa Trai huyện Gia Lâm.

ĐẶNG MIỄN CUNG người xã Văn Triền huyện Bình Hà.

LÊ QUÝNH người xã Tuy Lai huyện Vũ Tiên.

TRIỆU NGHỊ PHÙ người xã Đức Lạp huyện Lập Thạch.

PHẠM CẢNH LƯƠNG người xã Bất Náo huyện Kim Thành.

PHẠM GIỚI người huyện Tiên Phong.

NGUYỄN KHIẾT TÚ người xã Tam Sơn huyện Đông Ngàn.

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 19 người:

NGUYỄN ĐẠO DIỄN người xã Kim Đôi huyện Vũ Giàng.

TRẦN CỦNG UYÊN người xã Ngoại Lãng huyện Thư Trì.

PHẠM THÔNG người xã Nhất Trai huyện Lương Tài.

VĂN VĨ người xã Cát Vũ huyện Bạch Hạc.

NGUYỄN CỦNG THUẬN người xã Kim Đôi huyện Vũ Giàng.

NGUYỄN TỔ KHUÊ người xã La Xá huyện Giáp Sơn.

TRẦN TƯỚC người xã Yên Lạc huyện La Sơn.

HOÀNG KIỂU VINH người xã Dục Đại huyện Thanh Lâm.

NGUYỄN TƯỜNG PHIÊU người xã Đỗ Tùng huyện Gia Phúc.

ĐÀM TỤY người xã Hoàng Gia huyện Cẩm Giàng.

ĐỖ TÚC KHANG người xã Hà Vĩ huyện Đông Ngàn.

NGUYỄN KIỆN HY 阮健僖 25 người huyện Duy Tiên.

VŨ TIẾN CHIÊU người xã Vĩ Vũ huyện Vũ Giàng.

NGUYỄN THƯỢNG NGHIÊM người xã Khúc Toại huyện Yên Phong.

NGUYỄN SỞ THÙY người xã Thanh Sơn huyện Vũ Giàng.

ĐỖ TOẠI người xã An Bài huyện Phụ Dực.

ĐỖ HOẰNG người xã Nghĩa Bổng huyện Thư Trì.

TRẦN KHẢI ĐỄ người xã Thanh Lãng huyện Yên Lãng.

NGUYỄN KÍNH người xã Kim Đôi huyện Vũ Giàng.

AV

BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA THI NĂM TÂN MÙI  [1511] TẠI VĂN MIẾU-QUỐC TỬ GIÁM

        Trong số 82 tấm bia Tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám có 13 tấm bia được dựng dưới thời Lê sơ. Trong  đó, có tấm bia tiến sĩ khoa thi năm Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận 3 [năm 1511], đánh dấu chuyển biến trong nghệ thuật trang trí bia thời Lê Sơ.

         Bia tiến sĩ khoa thi năm Tân Mùi [1511] được dựng vào ngày 15 tháng 3 niên hiệu Hồng Thuận năm 1513. Bia có kích thước nhỏ, hình dáng dẹt, cao 166 cm, rộng 124 cn và dày 20 cm. Cũng giống như các tấm bia tiến sĩ khác tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám, bia có 3 phần rõ rệt: Trán bia, Thân bia và Đế bia hình rùa. Trán bia được trang trí họa tiết “Mây thiêng vờn ngọc báu, sừng tê”. Diềm quanh thân bia được trang trí hoa dây. Nằm trên cùng thân bia là hàng chữ Triện chạy ngang có chiều cao 15cm. Rùa ở vị trí đế bia được tạo tác với đặc điểm: đầu ngẩng cao, mắt to, sống mũi nổi rõ, chân có móng nhọn, mai rùa trơn nhẵn và có gờ nổi chạy dọc theo mai. Tuy nhiên, tấm bia này đã có sự khác biệt trong nghệ thuật trang trí bia, đây là tấm bia đánh dấu chuyển biến từ kỹ thuật chạm nông sang chạm nổi họa tiết. Với kỹ thuật này, các mảng khối họa tiết được đục chạm vờn tỉa kỹ càng hơn, vì thế sóng nước cũng trập trùng hơn, cây cối như xoắn xuýt hơn, mây trôi bảng lảng hơn. 

         Mùa xuân năm Tân Mùi [1511], triều đình theo lệ cũ, triệu tập các sĩ tử tới kinh đô đua tài. 47 người ưu tú đã được chọn. Ngày 17 tháng 4, vua Lê Tương Dực đích thân ra đề bài văn sách, hỏi về đạo trị nước xưa và nay. Sau kỳ điện thí, ba người đứng đầu đã được nhà vua ban danh hiệu Tam khôi, gồm Trạng nguyên Hoàng Nghĩa Phú, Bảng nhãn Trần Bảo Tín và Thám hoa Vũ Duy Chu.

         Trạng nguyên Hoàng Nghĩa Phú là người xã Mạc Xá, huyện Chương Đức  [nay là huyện Chương Mỹ, Hà Nội]. 32 tuổi ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh  [Trạng nguyên], ông làm quan đến chức Tham tri chính sự kiêm Ngự sử. Bảng nhãn Trần Bảo Tín là người xã Khải Mông, huyện Nghi Xuân  [nay thuộc thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh]. Ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh  [Bảng nhãn] năm 29 tuổi. Dưới thời vua Lê Tương Dực, ông làm quan tới chức Lại bộ Tả thị lang. Khi nhà Mạc lấy ngôi nhà Lê, ông ẩn cư ở núi Hành Sơn rồi mất. Dưới thời Lê Trung Hưng, ông được truy tặng chức Thượng thư, phong phúc thần. Thám hoa Vũ Duy Chu là người xã Tu Lễ, huyện Sơn Minh [nay là thôn Tu Lễ, xã Kim Đường, Ứng Hòa, Hà Nội]. Ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh [Thám hoa] năm 28 tuổi và làm quan trong triều tới chức Tả thị lang.

         Ngoài ba vị Tam khôi, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân [Hoàng giáp] có 9 người. Đỗ hàng Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân có 35 người. Họ đều được triều đình bổ nhiệm vào các vị trí khác nhau trong hệ thống chính quyền và có nhiều đóng góp cho xã hội.

         Bài ký văn bia do Lễ bộ Thượng thư Đông các đại học sĩ kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu soạn  Tên là gì [Ông đỗ Hoàng giáp khoa thi Giáp Thìn Hồng Đức 15 năm 1484]. Thông qua bài văn bia, chúng ta thấy một lần nữa mục đích của việc dựng bia đá luôn được đề cao:“ Kẻ sĩ ở đời được ghi tên vào tấm đá này thực may mắn biết bao! Nếu quả thật biết giồi mài trung nghĩa, cố gắng liêm cần để có tiếng là vị Trạng nguyên trung hiếu, là bậc quân tử ngọc vàng, thì mai sau các học trò nhà Thái Học sẽ chỉ vào tên mà nói: Vị này vào hàng Hổ bảng, vị này là bậc kỳ anh, người hiền lương biết vật mà lấy làm khích lệ. Thảng như có kẻ ngoài ngọc trong đá, bề ngoài như chim phượng mà tiếng kêu như cú diều, dua nịnh giống phường dựa cột, hèn nhát như lũ bó tay, thiên hạ đời sau sẽ chê cười nói: kẻ ấy tà học như hạng Công Tôn Hoằng kẻ kia phản lại kinh sách cũng như Vương An Thạch, kẻ gian ác thấy đấy mà tự lấy làm răn…”   

CT

BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA ĐINH MÙI [1727]

    Khoa thi Hội năm Đinh Mùi [1727] có số sĩ tử dự thi đông tới 3000, nhưng chỉ tuyển chọn được 10 người xuất sắc vào dự kỳ thi Đình. Sau kỳ Điện thí, các vị Tiến sĩ được phân thứ bậc cao thấp, được ban các ân điển đãi ngộ rất long trọng của triều đình, được xếp đặt nắm giữ các chức vụ. Đến năm 1733, vua Lê Thần Tông đã cho khắc tên của 10 vị Tiến sĩ trên bia đá đặt tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

    Trải qua gần 300 năm, đến nay tấm bia vẫn còn nguyên vẹn. Chữ và họa tiết trên bia được khắc sâu, nét khắc đều, đẹp, nét chữ to rõ ràng. Bia có kích thước cao 184 cm, rộng 130 cm và dày 24 cm. Trán bia trang trí cách điệu lưỡng long chầu nhật. Diềm bia trang trí tổ hợp hoa dây kim ngân. Thân bia hình chữ nhật trên có khắc văn bia gồm 31 dòng chữ Hán [khoảng 1300 chữ] theo chiều dọc. Dưới phần trán bia là hàng chữ Triện : « Bảo Thái bát niên Đinh Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký » [Bài ký bia Đề danh Tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Bảo Thái thứ 8 ]. Đế bia hình rùa, đầu ngẩng cao, mai rùa không chạm khắc.

    Phần nội dung bài ký cho thấy triều Lê rất coi trọng việc tuyển chọn và sử dụng nhân tài : « Khắc đá ghi tên người đỗ khoa thi Tiến sĩ là quy chế tốt đẹp tác thành nhân tài của thánh triều ta »; « Phàm những người đăng khoa đều cho dựng bia lớn để truyền bá vẻ sáng sao Khuê sao Tảo, nêu rõ họ tên để rạng rỡ đến đời sau. Việc nuôi dưỡng sĩ phong khen thưởng khích lệ kẻ hiền tuấn có thể nói hơn các vua trước, vượt cả ngàn xưa vậy ». Để chọn được người thực tài, triều đình đã lựa chọn người tổ chức, trông coi khoa thi là các vị quan đại thần, các nhà khoa bảng tài đức như : Bồi tụng Lại bộ tả thị lang Trương Công Giai, Bồi tụng Binh bộ hữu thị lang Phạm Đình Kính, Hình bộ hữu thị lang Nguyễn Trung Quân, Đô đốc đồng tri phó tướng Trịnh Khôi.

    Với số sĩ tử tham gia kỳ thi Hội lên tới 3000 người, nhưng chỉ lấy đỗ được 10 người. Điều này cho thấy sự nghiêm ngặt trong việc tổ chức thi cử tuyển chọn nhân tài. Tên của các vị Tiến sĩ được khắc trên bia theo thứ bậc. Đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh [Thám hoa] là Nguyễn Thế Lập người xã Bồng Lai huyện Quế Dương. Đỗ hàng Tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân có 9 người. Khoa thi này không chọn được hàng nhị giáp [Hoàng giáp].

    Trên bia không chỉ khắc họ tên, quê quán các vị Tiến sĩ, còn khắc ghi rõ chức vụ của vị Tiến sĩ khi thi đỗ. Như Tiến sĩ Quản Dĩnh khi đi thi là Huấn đạo. Tiến sĩ Đặng Công Diễn là Tri huyện. Trong số 10 Tiến sĩ khoa nay thì có tới bốn vị là Giám sinh, học trò Quốc Tử Giám: Thám hoa Nguyễn Thế Lập, Tiến sĩ Phạm Công Thể, Tiến sĩ Nguyễn Đình Bá, Tiến sĩ Vũ Khâm Thận.

    Văn bia còn cho ta biết tên và chức vụ người soạn văn bia là Hàn lâm viện thừa chỉ Nguyễn Duy Đôn, ông đỗ Hoàng giáp khoa thi năm 1712 ; người nhuận sắc là Tham tụng Binh bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ Phạm Khiêm Ích, ông đỗ Đệ nhất giáp Đệ tam danh [Thám hoa] khoa thi 1710. Người viết chữ là Trung thư giám hoa văn học sinh Nguyễn Đắc Thụy. Phạm Thọ Ích người làng Kiêu Kỵ huyên Gia Lâm viết chữ triện.

    Bài ký khắc trên bia với những tư tưởng về giáo dục, văn hóa sâu xa có ý nghĩa lớn đối với đương thời và hậu thế.

Danh sách các vị Tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Bảo thái 8 [1727]:

Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh:

Nguyễn Thế Lập:      xã Bồng Lai huyện Quế Dương. Giám sinh

Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân, 9 người:

Nguyễn Đức Vĩ:         xã Phật Tích huyện Tiên Du. Nho sinh trúng thức

Phạm Công Thế:         xã Hoàng Xá huyện Đông Quan. Giám sinh.

Lê Hoàn Hạo:            xã Bát Tràng huyện Gia Lâm. Sinh đồ.

Nguyễn Quốc Ích:     xã Vịnh Cầu huyện Đông Ngạn. Viên ngoại lang.

Quản Dĩnh:                 xã Hoa Cầu huyện Văn Giang. Huấn đạo.

Nguyễn Đình Bá:       xã Bình Dân huyện Đông Yên. Giám sinh.

Đặng Công Diễn:      xã Phù Đổng huyện Tiên Du. Tri huyện.

Nguyễn Sĩ Lâm:        xã Hoàng Xá huyện Cẩm Giàng. Sinh đồ.

Vũ Khâm Thận:        xã Ngọc Lặc huyện Tứ Kỳ. Giám sinh.

                                                                                                                                                                            LH

BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA TÂN SỬU NIÊN HIỆU HỒNG ĐỨC 12 [1481]

         Bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm 1481 dựng ngày 15 tháng 8 niên hiệu Hồng Đức [1484] dưới triều vua Lê Thánh Tông. Bia có kích thước [141 × 109 × 18]cm. Trán bia trang trí mây thiêng vờn ngọc báu, các tia sáng và dải mây cách điệu. Diềm bia chạm khắc hoa dây thảo Đường. Bia thuộc nhóm thời Lê sơ nên mang phong cách khắc chữ, hoa văn đường nét mảnh nhỏ. Rùa đội bia dáng điệu khoan thai, mắt lồi tròn to, miệng rộng lộ răng nanh, đầu ngẩng cao thần sắc trang nghiêm.

         Khoa thi này người dự thi hơn hai ngàn sĩ tử, tuyển chọn được 40 nhà khoa bảng. Vua xem quyển chọn bài, lấy Phạm Đôn Lễ đỗ Trạng nguyên, Lưu Hưng Hiếu đỗ Bảng nhãn, Nguyễn Doãn Địch đỗ Thám hoa, đều ban cho hạng Tiến sĩ cập đệ. Hàng Đệ nhị giáp Tiến sĩ cập đệ lấy 8 người, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân đỗ 29 người.

         Hoàng thượng hạ lệnh ban ơn cho các tân Tiến sĩ  theo điển cũ. Sử sách còn ghi Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ được vua ban lễ Vinh quy bái tổ: “Vua ngự điện Kính thiên, các quan Hồng lô truyền lệnh gọi tên, lại bộ ban ân mệnh. Lễ bộ bưng bảng vàng, rồi trống nhạc, rước ra ngoài cửa Đông Hoa treo lên. Xong rồi ty Mã cứu đem ngựa tốt đưa Trạng về nhà”.

         Phạm Đôn Lễ [1455-?], nguyên quán làng Hải Triều, huyện Ngự Thiên – nay thuộc xã Phạm lễ huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình. Sau dời đến xã Thanh Nhàn huyện Kim Hoa, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội. 27 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ [Trạng nguyên], từ thi Hương đến thi Đình đều đỗ đầu, làm quan đến chức Tả thị lang.

         Lưu Hưng Hiếu [1456-?] người xã Lương Hà huyện Vĩnh Ninh – Nay thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa. Khoa thi này ông đỗ Bảng nhãn. Ông từng được cử đi sứ, làm quan đến chức Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, chưởng Hàn lâm viện sự. Tác phẩm của ông hiện còn 9 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.

         Nguyễn Doãn Địch [năm sinh năm mất không rõ] nguyên quán xã Cảo Dương – Nay là thôn Tảo Dương, xã Hồng Dương huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Sau dời đến xã Canh Hoạch cùng huyện, nay là thôn Canh Hoạch xã Dân Hòa cùng huyện. Ông đỗ Thám hoa, làm quan đến chức Hựu thị lang.

         Đỗ đầu hàng đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân [Hoàng giáp] là Ngô Văn Cảnh [1443-?]. Ông nguyên quán ở xã Yên Ninh huyện Yên Dũng – Nay là thôn Yên Ninh xã Hoàng Ninh huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Trú quán xã Liên Hồ, nay là thôn Sen Hồ xã Quảng Minh huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Ông làm quan đến chức Hiến sát sứ.

         Nguyễn Minh Thông [năm sinh năm mất không rõ] đỗ đầu Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Ông người xã Xuân Canh huyện Đông Ngàn, nay thuộc xã Xuân Canh huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông làm quan đến chức Thừa chính sứ.

         Đặc biệt ở khoa thi này, Nguyễn Nhân Bị [1448-?] người xã Kim Đôi, huyện Vũ Ninh – nay là thôn Kim Đôi xã Kim Chân huyện Quế Võ, Bắc Ninh lại đi thi. Khoa này ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuât thân. Nhưng khoa trước đó, khoa thi năm Bính Tuất [1466] vì không đỗ cập đệ [hàng đệ nhất giáp] nên ông từ chối không nhận. Tuy khoa thi này ông quyết tâm thi lại, nhưng vẫn chỉ đỗ Đệ tâm giáp. Ông là thành viên Hội tao đàn, tác phẩm hiện còn 12 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục. Ông từng được đi sứ, làm quan đến chức Binh bộ thượng thư.

         Theo sắc dụ của nhà vua, Hiển cung đại phu Hàn lâm viện thị thư kiêm tú lâm cục tư huấn Nguyễn Trọng Ý vâng sắc soạn bài ký. Mậu lâm lang Trung thư giám điển thư Phan Trung vâng sắc viết chữ. Chữ trên trán bia do Mậu lâm lang Kim quang môn đãi chế Tô Ngại vâng sắc viết chữ Triện.

[Ảnh: Bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm 1481]

DANH SÁCH 40 VỊ TIẾN SĨ KHOA THI NĂM 1481

Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, 3 người:

PHẠM ĐÔN LỄ  người huyện Ngự Thiênphủ Tân Hưng.

LƯU HƯNG HIẾU người huyện Vĩnh Ninh phủ Thiệu Thiên.

NGUYỄN DOÃN ĐỊCH người huyện Thanh Oai phủ Ứng Thiên.

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 8 người:

NGÔ VĂN CẢNH người huyện Yên Dũng phủ Lạng Giang.

VŨ KHẮC MINH người huyện Cẩm Giàng phủ Thượng Hồng.

LƯU NGẠN QUANG người huyện Đông Sơn phủ Thiệu Thiên.

NGUYỄN DUY TRINH người huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai.

PHẠM HÙNG người huyện Thiên Bản phủ Kiến Hưng.

HOÀNG BÁ DƯƠNG người huyện Thanh Oai phủ Ứng Thiên.

BÙI SƯ LỤC người huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách.

LÊ ĐỨC THIỆU người huyện Đường Hào phủ Thượng Hồng.

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 29 người:

NGUYỄN MINH THÔNG người huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn.

ĐÀM ĐÌNH PHƯƠNG người huyện Đan Phượng phủ Quốc Oai.

PHẠM CHUYẾT người huyện Cẩm Giàng phủ Thượng Hồng.

VŨ NGUYÊN TRINH người huyện Đường An phủ Thượng Hồng.

LÊ CẤU người huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách.

NGUYỄN TÔN MIỆT người huyện Kim Hoa.

NGUYỄN NHÂN BỊ người huyện Vũ Ninh phủ Từ Sơn.

NGUYỄN VĂN TÚ người huyện Bạch Hạc phủ Tam Đới.

VŨ NGHI HUYNH người huyện Cẩm Giàng phủ Thượng Hồng.

NGUYỄN ĐỔ người huyện Đan Phượng phủ Quốc Oai.

NGUYỄN THÁI người huyện Thọ Xương.

KHỔNG CƯ LỖ người huyện Lập Thạch phủ Tam Đới.

THÂN TÔNG VŨ người huyện Yên Dũng phủ Lạng Giang.

LÊ CÔNG TRUYỀN người huyện Giáp Sơn phủ Kinh Môn.

PHẠM TỬ HIỀN người huyện Thụy Anh phủ Thái Bình.

NGUYỄN TẤT THÔNG người huyện Vũ Giang32

NGUYỄN TỬ LOA người huyện Chí Linh phủ Nam Sách.

NGUYỄN ĐÌNH TUẤN 34 người huyện Lương Tài phủ Thuận An.

NGUYỄN NHÂN LỄ người huyện Hoằng Hóa phủ Hà Trung.

PHAN ỨNG TOẢN người huyện Thạch Hà phủ Hà Hoa.

LƯU DI QUYẾT người huyện Tế Giang phủ Thuận An.

LÊ TỨ người huyện Tế Giang phủ Thuận An.

ĐỖ BÁ LINH người huyện Cẩm Giàng phủ Thượng Hồng.

NGÔ KHẮC TUẤN người huyện Trường Tân phủ Hạ Hồng.

THANG NGHĨA PHƯƠNG người huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn.

LÊ ĐỨC TRUNG người huyện Yên Dũng phủ Lạng Giang.

NGUYỄN OANH người huyện Gia Lâm phủ Thuận An.

PHAN DƯ KHÁNH người huyện La Giang phủ Đức Quang.

LÊ DUY HÀN  người huyện Hoằng Hóa phủ Hà Trung.

AV

BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA NHÂM THÂN NIÊN HIỆU CẢNH HƯNG 13 [1752]

TẠI VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM

    Bia Tiến sĩ khoa Nhâm Thân [1752] có chiều cao 1,70m; chiều rộng 1,08m; dày 19 cm. Trán bia trang trí hình cây thiêng vầng nhật nguyệt. Diềm thân bia trang trí tổ hợp hoa bảo tiên. Tên bia khắc thể chữ Triện cao 10cm. Đế bia hình rùa, đầu rùa ngẩng cao, mắt to, tròn. Bia dựng tháng hai năm Cảnh Hưng thứ 14 [1753].

    Mùa đông năm Nhâm Thân [1752], triều đình tổ chức thi Hội cho các cống sĩ trong cả nước. Lại sai các quan như quan Đề điệu [Đô đốc Thiêm sự trí sĩ khởi phục ngũ lão Vinh Quận công Đặng Đình Trứ], quan Tri cống cử [Nhập thị Bồi tụng Phó Đô Ngự sử Trần Danh Ninh], quan Giám thí [Bồi tụng Hàn lâm viện Thừa chỉ Dương Công Chú] phụ trách công việc trường thi. Đến tháng 12 năm 1752, các thí sinh vào thi Đình để phân hạng và định thứ bậc cao thấp. Kết quả lấy đỗ được 6 người, trong đó Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ [1người], Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân [1người] và Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân [4người].

    Khoa Nhâm Thân [1752] là khoa thi thứ 4 được tổ chức dưới triều vua Lê Hiển Tông [1740-1786]. Trong hàng nghìn cống sinh - vốn là những người đã đỗ cống sinh [cử nhân] từ các trường thi Hương ở tứ trấn, triều đình chỉ lấy đỗ có 6 người. Dưới triều vua Lê chúa Trịnh, đây cũng là một trong những khoa thi lấy đỗ được Tiến sĩ ít nhất. Đặc biệt, trong số 6 người đỗ Tiến sĩ, có đến 4 người quê ở Thái Bình, xếp theo thứ tự đỗ từ cao xuống thấp là Lê Quý Đôn [1726-1784], Đoàn Nguyễn Thục [1728-1783], Nghiêm Vũ Đăng [1730-?], Nguyễn Diêu [1728-?] và hai vị tiến sĩ còn lại là Tạ Đình Hoán [1723-?] người xã Đại Định, huyện Thanh Oai [nay thuộc xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, Hà Nội] và Nguyễn Xuân Huy [1704-1774] người xã Nhuế Đông, nay là xã Trung Chính, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.

    Đình nguyên, Bảng nhãn Lê Quý Đôn [1726-1784] là người xã Diên Hoà, huyện Diên Hà [nay thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình]. Ông là con của Tiến sĩ Lê Trọng Thứ [1694-1782] làm quan dưới triều vua Lê Hiển Tông. Năm 27 tuổi, ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh [Bảng nhãn] khoa Nhâm Thân niên hiệu Cảnh Hưng 13 [1752]. Sau khi thi đỗ, ông ra làm quan, giữ nhiều trọng trách trong triều. Ông làm quan đến chức Nhập thị Bồi tụng, Hộ bộ Tả thị lang, từng đi sứ sang nhà Thanh, làm Tham thị kiêm Trấn thủ xứ Thuận Quảng [1766], Hiệp trấn Nghệ An [1783], sau thăng chức Đô ngự sử. Lê Quý Đôn không chỉ là ngừoi có kiến thức uyên bác và sự hiểu biết sâu rộng, ông còn là người thầy  từng giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, mở trường dạy học và có nhiều học trò thành đạt.

    Bài ký trên bia do Nhập thị Bồi tụng Hình bộ Tả Thị lang Tri Hàn lâm viện sự Nhữ Đình Toản soạn. Ông là người xã Hoạch Trạch, huyện Đường An, nay thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Hựu 2 [1736] đời vua Lê Ý Tông, làm quan đến chức Tham tụng, Thượng thư Bộ Binh, khi về trí sĩ được ban tôn hiệu Quốc lão. Nội dung bài ký ca ngợi công lao vua Lê chúa Trịnh, tên tuổi và quê quán các vị Tiến sĩ đỗ khoa thi này. Người nhuận sắc cho tấm bia là Tham tụng Thượng thư Bộ Hộ kiêm Đông các Hiệu thư Nguyễn Công Thái.

DANH SÁCH TIẾN SĨ KHOA NHÂM THÂN NIÊN HIỆU CẢNH HƯNG 13 [1752]

Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, 1 người:

LÊ QUÝ ĐÔN  người xã Diên Hà huyện Diên Hà, Nho sinh trúng thức.

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 1 người:

ĐOÀN NGUYỄN THỤC  người xã Hải Yên huyện Quỳnh Côi, Nho sinh trúng thức, nguyên quán xã Đại Hạnh huyện Văn Giang. Vốn họ Nguyễn, tên cũ là Đoàn Duy Tĩnh.

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 4 người:

NGHIÊM VŨ ĐĂNG  người xã Kỳ Nhai huyện Thanh Lan. Sinh đồ, tên cũ là Nghiêm Vũ Chiêu.

NGUYỄN DIÊU  người xã Hoàng Xá huyện Thư Trì. Giám sinh, tên cũ là Nguyễn Xuân Huyên.

TẠ ĐÌNH HOÁN  người xã Đại Định huyện Thanh Oai, Giám sinh.

NGUYỄN XUÂN HUY  người xã Quy Đông huyện Lương Tài. Tri phủ

Thúy Hồng

BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA QUÝ HỢI NIÊN HIỆU CHÍNH HÒA 4 [1683]

          Sau khi đỗ đại khoa, các vị Tiến sĩ được triều đình ban cho nhiều ân điển: “loa truyền xướng danh, treo bảng đề tên ở nhà Quốc học, được ban áo xanh đai mũ, yến Quỳnh hoa bạc”..., được khắc tên trên bia đá đặt nơi cửa hiền. Tấm bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa 4 [1683] là một trong 82 bia Tiến sĩ được lưu giữ tại di tích Văn Miếu-Quốc Tử Giám, trên đó lưu danh 18 vị Tiến sĩ – những bậc hiền tài đã đóng góp cho sự phát triển của Đại Việt.

Bia Tiến sĩ khoa thi Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa 4 [1683] 

          Bia có kích thước lớn, chiều cao 178 cm, chiều rộng 122 cm, dày 23 cm. Trán bia trang trí mây thiêng vờn vầng nhật nguyệt. Diềm thân bia trang trí hoa dây kim ngân. Rùa đội bia đầu chếch cao, cổ ngắn, mắt nhỏ, mồm nhọn, miệng khá dài không có răng nanh, lưng uốn cong có gò sống lưng, chân thì dài ra ngoài, chụm đủ 5 ngón.

Phần trên cùng sát với trán bia khắc niên đại tổ chức khoa thi theo thể chữ triện: “Chính Hòa tứ niên Quý Hợi khoa Tiến sĩ đề danh kí”.

        Khoa thi Hội này có đến 3.000 người dự thi, nhưng chỉ lấy đỗ 18 người. Đến tháng Giêng năm Giáp Tý tổ chức thi Đình, Hoàng thượng đích thân định thứ bậc cao thấp, lấy đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, 3 người: Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo, Bảng nhãn Phạm Quang Trạch, Thám hoa Quách Giai. Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo [1651-1719] người xã Hoài Bão huyện Tiên Du [nay thuộc xã Liên Bão huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh]. Ông từng giữ các chức quan như Đô Ngự sử, Nhập thị Kinh diên, sau thăng Thượng thư Bộ Binh, Tham tụng kiêm Đông các Đại học sĩ và được cử đi sứ sang nhà Thanh [Trung Quốc] thương lượng về việc đòi lại 3 động là Ngưu Dương, Hồ Điệp, Phổ Viên thuộc huyện Vị Xuyên xứ Tuyên Quang. Bảng nhãn Phạm Quang Trạch [xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm] làm quan đến chức Hữu Thị lang Bộ Lễ. Thám hoa Quách Giai [xã Phù Khê huyện Đông Ngàn] làm quan chức Thái thường Tự khanh.

        Trên bia có bài kí bằng chữ Hán do Cẩn sự lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Nguyễn Kiều [1695-1752] soạn. Ông người xã Phú Xá huyện Từ Liêm [nay thuộc Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nội], là chồng của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. 21 tuổi ông đỗ Tiến sĩ khoa Ất Mùi năm Vĩnh Thịnh thứ 11 [1715] đời Lê Dụ Tông, làm quan đến chức Tả Thị lang Bộ Binh và được cử đi sứ sang nhà Thanh [Trung Quốc]. Người nhuận bài văn bia là Tá lý công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Tham tụng, Thượng thư bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ Thiếu phó Liêm Quận công Nguyễn Quý Đức. Nguyễn Quý Đức đỗ Đình nguyên Thám hoa khoa Bính Thìn [1676], từng giữ nhiều trọng chức ở các trấn, ở Ngự sử đài và các Bộ: Hộ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, Tham tụng… Nguyễn Quý Đức có những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng thể chế, pháp luật và kinh bang tế thế.

          Bài kí cho chúng ta biết triều đình đã lựa chọn những vị quan đại thần tin cậy, tài đức đứng ra tổ chức khoa thi như: Trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Thiếu phó Lộc Quận công Đinh Văn Tả làm Đề điệu, Bồi tụng Ngự sử đài Đô Ngự sử Hải Sơn tử Nguyễn Danh Thực làm Tri Cống cử, Bồi tụng Tả Thị lang Nhập thị Kinh diên Vĩnh Ngạn tử Nguyễn Công Vọng, Bồi tụng Hữu Thị lang Bộ Lại Nguyễn Viết Đương làm Giám thí… Họ đã góp phần quan trọng trong việc lựa chọn nhân tài cho đất nước.

          Phần bài ký của văn bia đã thể hiện rõ quan điểm trọng hiền tài của triều đình: “Bởi vì hiền tài là khí dụng của quốc gia, khí dụng đủ thì điều khiển giao phó chẳng việc gì không được, chính sự không việc gì không làm nổi, mà cơ đồ không thể không vững chắc, thế đạo không thể không thịnh sáng vậy. Cho nên đời xưa trị nước, không gì gấp bằng cầu tìm hiền tài để tin giao công việc”. Cùng với đó là ngụ ý khuyên răn kẻ sĩ: “những người hiện đang được triều nay trọng dụng há không nhớ ơn lựa chọn của tiên vương, cảm nghĩ sự biểu dương ngày nay mà cẩn thận bước đường về sau, mỗi ngày một tiến để khỏi hổ thẹn với khoa danh sao? Thảng hoặc không được như thế, chỉ nặng nghĩ lo riêng cho mình mà nhẹ lòng vì việc nước, cầu may cho được chu toàn, thích xu nịnh, né tránh việc mất lòng, ắt không tránh khỏi công luận mai sau”.

          Đặc biệt, bia còn chép lại họ tên, thông tin của người viết chữ phần bài ký là Thị nội Thư tả Thủy binh phiên Tướng sĩ lang Phó sở sứ Ngô Bảo [chữ chân] và người viết chữ tiêu đề bia là Kim quan môn Đãi chiếu Triện thích thái hàm Tự thừa, Liêu Tường nam Nguyễn Đình Huy [chữ triện]. Đây là những tác phẩm thư pháp tài hoa để lại cho đời sau.

          Bia Tiến sĩ khoa thi năm Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa 4 [1683] cùng với 81 bia Tiến sĩ khác là nguồn sử liệu vô cùng quý giá hiện còn lưu giữ tại di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu-Quốc Tử Giám./.

DANH SÁCH TIẾN SĨ KHOA THI NĂM QUÝ HỢI NIÊN HIỆU CHÍNH HÒA 4 [1683]:

Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, 3 người:

NGUYỄN ĐĂNG ĐẠO:  xã Hoài Bão huyện Tiên Du.

PHẠM QUANG TRẠCH: xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm

QUÁCH GIAI: xã Phù Khê huyện Đông Ngàn

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 1 người:

NGUYỄN ĐƯƠNG HỒ: xã Dương Húc huyện Tiên Du.

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 14 người:

TRẦN THIỆN THUẬT: xã Bát Tràng huyện Gia Lâm.

LÊ ĐĂNG PHỤ: hương Biện Thượng huyện Vĩnh Phúc.

HOA CÔNG PHƯƠNG: xã An Dân huyện Đông Yên.

ĐỖ CÔNG TOẢN: xã Thượng Yên Quyết huyện Từ Liêm.

TRẦN PHỤ DỰC: xã Bảo Triện huyện Gia Định.

TRỊNH ĐỨC VẬN: xã Đại Mão huyện Siêu Loại.

TRẦN TIẾN GIÁN: Triền Dương huyện Chí Linh.

DƯƠNG CÔNG ĐỘ: xã Nhị Khê huyện Thượng Phúc.

ĐÀO TUẤN NGẠN: xã Ngọc Cục huyện Đường An.

PHÍ QUỐC THỂ: xã Thượng Trưng huyện Bạch Hạc.

NGUYỄN THỦ XỨNG: xã Hương Trai huyện Hương Sơn.

TẠ ĐĂNG VỌNG: xã Đại Phùng huyện Đan Phượng.

NGUYỄN LONG BẢNG: xã Chân Hộ huyện Yên Phong.

NGUYỄN ĐÌNH BÁCH: xã Nguyệt Áng huyện Thanh Trì.

An Nhiên

BIA TIẾN SĨ KHOA QUÍ MÙI NIÊN HIỆU QUANG THUẬN 4 [1463]

    Bia Tiến sĩ khoa Quí Mùi [1463] niên hiệu Quang Thuận 4 là một trong mười tấm bia đầu tiên được dựng trong đợt dựng bia năm 1484 dưới triều vua Lê Thánh Tông. 

    Bia có hình dáng dẹt, màu ghi đá, có chiều cao 152cm, chiều rộng 119cm, bề dày 17cm. Trán bia hình khung vòm có trang trí mây thiêng hình khánh ngọc. Mây thiêng vốn là một biểu tượng của Đạo giáo. Sự xuất hiện hình mây hình khánh nằm ở trung tâm trán bia cho thấy phần nào mức độ ảnh hưởng của Đạo giáo với bia Tiến sĩ. Ngay phía dưới trán bia là hàng chữ ngang khắc niên đại tổ chức khoa thi [Quang Thuận tứ niên Quý Mùi kho tiến sĩ đề danh kí] theo lối chữ triện cao 11cm. Thân bia có hình chữ nhật đặt trên lưng rùa. Đế bia hình rùa có tạo hình tinh tế  trong sự đơn giản với mai trơn nhẵn, sống lưng có gờ nhỏ, chân rùa có 5 ngón.

    Khoa thi này có tới 1.400 thí sinh, lấy đỗ 44 người. Ngày 16 tháng 2, Vua Lê Thánh Tông ngự ở hiên điện, đích thân hỏi về đạo trị nước của các bậc đế vương, sai Đề điệu là Kiểm hiệu tư đồ Bình chương sự kiêm Đô đốc bình chương sự Đông đạo chư vệ quân Nguyễn Lỗi và Quốc Tử Giám Tế tửu Lê Niệm. Độc quyển là các ông Tả ty môn hạ sảnh Tả gián nghị đại phu Tri Bắc đạo quân dân bạ tịch sảnh kiêm Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ Nguyễn Như Đổ; Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ Tri Đông đạo quân dân bạ tịch Nguyễn Vĩnh Tích; Quốc Tử Giám Tế tửu Nguyễn Bá Ký. Cử Chính sự viện Tham nghị chính sự Nguyễn Phục làm Giám thí.

    Sau khi dâng quyển lên đọc, đích thân Hoàng thượng xem xét và định thứ bậc cao thấp. Đỗ đầu làTrạng nguyên Lương Thế Vinh – người làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, Nam định, từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, học giỏi, được coi là thần đồng toán học. Ông làm quan đến chức thị thư viện Hàn Lâm, có nhiều cống hiến trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao và giáo dục. Tác phẩm nổi tiếng “Đại thành toán pháp” gắn liền với tên tuổi của Trạng nguyên Lương Thế Vinh.

    Đỗ Bảng nhãn là Nguyễn Đức Trinh – người huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách. Đặc biệt, đỗ Thám hoa trong khoa thi này là Quách Đình Bảo – người xã Phúc Khê, huyện Thanh Quan, Thái Bình. Ông làm quan đến chức Thượng thư Bộ Hình và đã từng sang sứ nhà Minh. Thám hoa Quách Đình Bảolà một trong mười tám vị minh quân phò tá có công lao lớn thời Lê Sơ, là một trong những danh thần được vua Lê Thánh Tông giao cho việc phụ trách xây dựng bia Tiến sĩ năm 1484. 

    Ngoài ra, trong 44 vị Tiến sĩ đỗ khoa thi này còn có Tiến sĩ Vũ Hữu – người huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, Hải Dương. Ông có tác phẩm nổi bật để lại cho hậu thế là “Lập thành toán pháp”. Trong danh sách các vị đỗ đệ tam giáp Tiến sĩ Đồng xuất thân còn có hai vị Tiến sĩ đã từng giữ chức Quốc Tử Giám Tư nghiệp là: Tiến sĩ Hoàng Bồi và Tiến sĩ Nguyễn Văn Chính. 

    Qua bài kí trên bia cho thấy sự trọng đãi của nhà vua với các vị tân khoa tiến sĩ. Ngày 22 tháng hai, nhà vua ngự điện Kính Thiên, cho gọi loa xướng tên người thi đỗ. Quan bộ Lễ rước bảng vàng treo ngoài cửa Đông Hoa. Nhà vua còn ban áo mũ, yến tiệc để tỏ ý yêu mến đặc biệt, ơn sủng thật trọng hậu đối với các các nhà khoa bảng. Bài ký cũng nhắc đến sự đáng tiếc khi không thể dựng bia ngay sau khi tổ chức khoa thi: “Nhưng việc dựng đá đề tên vẫn chưa kịp làm, đến nay đã 22 năm, là chỗ thiếu sót của điển lễ”.

    Người được giao nhiệm vụ soạn bài văn bia là Đông các hiệu thư Đào Cử, viết chữ là Nguyễn Tủng và viết chữ triện là Tô Ngại

BP. 

    Trong số 82 bia Tiến sĩ hiện lưu giữ tại di tích Văn Miếu-Quốc Tử Giám, có 81tấm bia được dựng dưới thời nhà Lê và duy nhất có 01 tấm bia được dựng dưới thời nhà Mạc, đó là bia đề danh Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu niên hiệu Minh Đức 3 [1529].

    Bia thuộc dạng bia dẹt, cao 1,58m, rộng 1,09m, dày 20 cm. Về mặt bố cục, bia gồm có 3 phần: trán bia, thân bia và đế bia.Trán bia trang trí hình mây thiêng vờn ngọc báu. Thân bia hình chữ nhật trên có bài ký chữ Hán. Tên bia khắc thể chữ Triện cao 11 cm. Đế bia hình rùa, rùa đội bia mắt to, tròn, mai không chạm khắc, có gờ giữa sống lưng.

    Bia được dựng vào tháng 11 năm 1529, tức 3 năm sau khi Mạc Đăng Dung lên ngôi và cho mở khoa thi để kén chọn nhân tài. Đặc biệt, có hai người cùng soạn bài ký cho tấm bia này. Đó là : Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Lễ bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ Nguyễn Thì Ung và Đông các Hiệu thư Tư chính Thượng khanh Nguyễn Cư Nhân vâng sắc soạn. Thông chương đại phu Trung thư giám Chính tự Tư chính khanh Nguyễn Ngạn Chiêu vâng sắc viết chữ [chân].Thông chương đại phu Kim quang môn Đãi chiếu Tư chính khanh Nguyễn Tấn vâng sắc viết chữ triện.

    Khoa thi Kỷ Sửu [1529] là khoa thi đầu tiên do triều nhà Mạc tổ chức, có tới 4000 thí sinh tham gia dự thi. Ngày 18 tháng 2, Hoàng thượng đích thân ra đề hỏi về đạo trị nước và cách sử dụng nhân tài. Lại sai các quan như quan Đề điệu [Mạc Kim Phiêu, Binh bộ Thượng thư Mạc Ninh Chỉ], quan Độc quyển [Lễ bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ Nguyễn Thanh, Lại bộ thượng thư Tế tửu Quốc Tử Giám Đinh Trinh] cùng các quan chia giữ các việc. Sau khi chấm lấy đỗ 27 người.  

    Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ lấy đỗ 3 người. Đó là Trạng nguyên Đỗ Tổng, Bảng nhãn Nguyễn Hãng, Thám hoa Nguyễn Văn Huy. Đỗ Tổng [1504-?] người xã Lại Ốc, huyện Tế Giang [nay thuộc xã Long Hưng, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên]. Ông là người đỗ đầu khoa thi này. Ông làm quan đến chức Tả Thị lang Bộ Hình, Đông các Đại học sĩ. Nguyễn Hãng [1488-?] nguyên quán xã Vũ Lăng, huyện Thượng Phúc [nay thuộc xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội]. Ông giữ các chức quan như Thị lang, Đông các Đại học sĩ. Nguyễn Văn Huy [1486-?] người xã Vịnh Cầu huyện Đông Ngàn [nay thuộc xã Đồng Nguyên huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh]. Ông làm quan đến chức Thượng thư Bộ Lễ.

    Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân có 8 người. Trong đó có Nguyễn Doãn Địch người xã Hoàng Vân, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang; làm quan đến chức Thượng thư Bộ Lại kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân có 16 người.

    Có thể thấy, dưới triều nhà Mạc, triều đình rất coi trọng việc giáo dục và tuyển chọn nhân tài. Bài ký trên bia cho chúng ta biết, các vị Tiến sĩ sau khi thi đỗ được nhận rất nhiều ân điển của nhà vua : “Ngày 24, Hoàng thượng ngự điện Kính Thiên, sai gọi loa xướng tên người đỗ. Bộ Lại ban ân mệnh, bộ Lễ rước bảng vàng treo trước cửa nhà Thái học. Ngày hôm đó lại ban cho tiền bạc có thứ bậc khác nhau. Ngày 27 ban cân đai áo mũ nhiều hơn lệ thường. Ngày 28 ban yến tại Bộ Lễ. Ngày mồng 7 tháng 3 cho phép vinh qui, ban tiền theo thứ bậc khác nhau, ơn huệ thật nồng hậu”. Nội dung bài ký còn là những lời răn dạy kẻ sĩ về vai trò, trách nhiệm đạo lý, mối quan hệ giữa danh và thực - để danh xứng với thực thì ở mỗi cương vị kẻ sĩ phải làm tốt công việc được giao: “Vậy nên mang đội ơn sâu, dốc lòng thực tiễn, lấy trung liêm dồi tiết cứng, lấy lễ nghĩa làm phép thường, giữ lòng thẳng thắn, chẳng lệch chẳng xiên, làm nên sự nghiệp lớn lao bền vững.Thảng hoặc có người ngoài vuông nhưng trong tròn, trước trinh trắng mà sau tì vết, điều nhìn thấy không đúng với điều được nghe, việc làm trái với sở học thì chỉ làm lụy cho khoa mục, làm tì vết cho bia đá này…”

Bia đề danh Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu niên hiệu Minh Đức 3 [1529].

DANH SÁCH CÁC VỊ TIẾN SĨ KHOA THI KỶ SỬU [1529]:

Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, 3 người:

ĐỖ TỔNG                                        xã Lại ốc huyện Văn Giang

NGUYỄN HÃNG                                       xã Vũ Lăng huyện Thượng Phúc

NGUYỄN VĂN HUY                                xã Vĩnh Cầu huyện Đông Ngàn

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 8 người:

NGUYỄN VÂN QUANG                          xã Bình Sơn huyện Đông Ngàn

TRẦN THỤY                                            xã Ngọc Bộ huyện Thái Bình

PHẠM HUY                                               xã Mặc Khê huyện Thanh Lâm

ĐẶNG LƯƠNG TÁ                xã Đặng Xá huyện Thạch Thất

NGUYỄN HOẢNG                                    xã Đức Thắng huyện Hiệp Hòa

NGUYỄN DOÃN ĐỊCH                                      xã Hoàng Vân huyện Hiệp Hòa

PHÍ THẠC                                                 xã Hương Ngải huyện Thạch Thất

NGUYỄN CHIÊU KHÁNH                      xã Yên Sở huyện Đan Phượng

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 16 người:

NGUYỄN HỮU HOÁN                                     xã Xuân Ứng huyện Quang Phúc

NGUYỄN ĐỊCH GIÁO                             xã Thượng Cốc huyện Gia Lộc

LÊ THỰC                                                   xã Ngọc Bộ huyện Văn Giang

HOÀNG KHẮC THẬN                             xã Đại Lý huyện Thuần Lộc

LÊ TẢO                                                      xã Phúc Khê huyện Từ Liêm

NGUYỄN QUÝ LƯƠNG                           xã Địa Linh huyện Phụ Dực

NGUYỄN ĐỨC KÝ                                   xã Đan Nhiễm huyện Văn Giang

AN KHÍ SỬ                                                         xã Nhĩ Độ huyện Nam Xương

VŨ NGUNG                                               xã Đoàn Lâm huyện Gia Lộc

CHU TAM DỊ                                            xã Phù Lưu huyện Đông Ngàn

PHAN TẾ                                                   xã Nguyễn Xá huyện Thạch Thất

ĐINH THỤY                                              xã Tùng Quan huyện Đông Yên

PHẠM KINH BANG                                 xã Thì Trung huyện Thanh Oai

LƯƠNG NHƯỢNG                                    xã Nội Trà huyện Yên Phong

NGUYỄN DƯƠNG                                    xã Trà Lâm huyện Siêu Loại

NGUYỄN QUANG TÁN                           xã Vọng Nguyệt huyện Yên Phong

Danh sách các vị Tiến sĩ khoa thi Kỷ Sửu [1529]: /media/uploads/2021/09/17/danh-sach-cac-vi-tien-si-khoa-thi-ky-suu_RchWC9V.docx

                                                                                                                                                    Thúy Hồng

BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA THI NĂM NHÂM TUẤT[1502] TẠI VĂN MIẾU-QUỐC TỬ GIÁM

     Trên 82 tấm bia đá lưu danh các vị Tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám, số lượng các Tiến sĩ khắc tên trên một tấm bia có từ 3 đến 62 vị. Bia Tiến sĩ khoa thi năm Nhâm Tuất [1502] là một trong hai tấm bia có số lượng Tiến sĩ khắc tên trên bia nhiều nhất. Tấm bia Tiến sĩ khoa thi năm Mậu Tuất [1478] với 62 vị Tiến sĩ được khắc tên trên bia và thứ hai là biaTiến sĩ khoa thi năm Nhâm Tuất [1502] với 61 vị Tiến sĩ.

    Về hình dáng kích thước, Bia Tiến sĩ khoa thi năm Nhâm Tuất [1502] có kích thước nhỏ, hình dáng dẹt, cao 155cm, rộng 111cm và dày 15cm, được chia làm 3 phần rõ rệt: Trán bia, Thân bia và Đế bia hình rùa. Trán bia hình vòm, được trang trí họa tiết “Mây thiêng vờn ngọc báu”. Thân bia hiện bị rạn nứt nhiều, diềm quanh thân bia được trang trí họa tiết hoa dây. Hàng chữ Triện chạy ngang qua phần trán bia có chiều cao 07cm. Đế bia hình rùa được tạo tác đơn giản, rùa có đầu to, không có chân, mắt to, mắt và mũi tạo thành hình chữ T, mai trơn nhẵn.

Bia đề danh Tiến sĩ khoa năm Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống 5[năm 1502]

           Về thời gian dựng bia, trên bia khoa thi 1502 có ghi hai mốc thời gian dựng bia khác nhau. Thông tin đầu tiên ghi bia được dựng vào ngày mùng 10 tháng 11 năm 1502 , tuy nhiên ở thông tin khác cuối văn bia lại ghi bia dựng ngày 15 tháng 9 năm 1536. Theo sách “Văn Miếu-Quốc Tử Giám và 82 bia Tiến sĩ” của cố PGS.TS Ngô Đức Thọ, có thể xảy ra trường hợp vào năm 1502 vì lý do nào đó chỉ mới viết bài ký mà chưa thực sự khắc chữ và dựng bia. Đến đầu triều Mạc bia mới được dựng và cho khắc bài ký trước đây lên bia.

 Mùa xuân năm Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống 5[năm 1502], theo lệ cũ, triều đình cho tổ chức khoa thi Hội. Tham gia kỳ thi này có rất đông thí sinh, số lượng lên tới 5000 người. Trải qua bốn trường thi đã chọn được 61 người vào thi Đình. Sau đó, các thí sinh được vua Lê Hiến Tông đích thân hỏi thi tại sân rồng. Sau kỳ điện thí, nhà vua đã chọn đủ tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa.  

     Trạng nguyên là Lê Ích Mộc, 44 tuổi, ông người xã Thanh Lãng, huyện Thủy Đường, nay là xã Quảng Thanh, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. Sử sách chép rằng trước khi đi thi Lê Ích Mộc từng làm Đạo sĩ. Ông làm quan đến chức Tả thị lang. Bảng nhãn là Lê Sạn, 27 tuổi, ông người xã Vạn Phúc, huyện Thanh Đàm, nay là thôn Vạn Phúc, xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Lê Sạn làm quan tới chức Thượng thư bộ Hình, sau được thăng chức lên Thượng thư bộ Lại.  Thám hoa là Nguyễn Văn Thái, 24 tuổi, ông người xã Tiền Liệt, huyện Vĩnh Lại, nay thuộc xã Đông Xuyên, huyện Ninh Giang, Hải Dương. Dưới thời Lê sơ ông giữ chức Đông các đại học sĩ, tới thời Mạc ông giữ chức Thượng thư, tước hầu.

     Đỗ hàng Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân có 24 người. Đỗ hàng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân có 34 người, trong đó nổi bật có Tiến sĩ Lê Hiếu Trung, người xã Chi Nê, huyện Chương Đức, nay là huyện Chương Mỹ từng giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám.

     Bài ký văn bia do Lễ bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ Đàm Văn Lễ - Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu [năm 1469] soạn. Nội dung cho chúng ta biết những thông tin rất quan trọng về chế độ khoa cử dưới thời Lê sơ. Cụ thể, kể từ khoa thi này, bảng vàng khắc tên các vị tiến sĩ được rước và treo ở cửa nhà Thái Học: “Mấy năm trước bảng vàng treo ở cửa ngoài Đông Hoa, năm nay sai bộ Lễ rước bảng có trống nhạc dẫn trước, đem treo ở cửa nhà Thái Học, cốt khiến cho sĩ tử nhìn thấy mà thêm phần khích lệ..”.  Triều đình cũng rất coi trọng việc tổ chức nghiêm túc các khoa thi, tuyển chọn nhân tài: “Qui phạm nghiêm ngặt, xử trí chặt chẽ, lựa chọn kỹ càng, thật đã chu đáo hết mức vậy. Nhờ thế danh sĩ hội tụ rất đông, người tài tìm đến, lựa chọn được nhân tài hơn hẳn mấy đời trước. Kẻ sĩ gặp thời cá nước, được hội gió mây..”.

 DANH SÁCH TIẾN SĨ KHOA THI NĂM NHÂM TUẤT NIÊN HIỆU CẢNH THỐNG THỨ 5 [1502]

Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, 3 người:

LÊ ÍCH MỘC: xã Thanh Lãng huyện Thuỷ Đường phủ Kinh Môn.

LÊ SAN: xã Vạn Phúc huyện Thanh Trì phủ Thường Tín.

NGUYỄN VĂN THÁI: xã Tiền Liệt huyện Vĩnh Lại.

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 24 người:

NGUYỄN CẢNH DIỄN: xã Yên Tử huyện Tân Minh phủ Nam Sách.

NGUYỄN ĐỨC KHÂM: xã Uông Hạ huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách.

NGUYỄN NHƯ CÔN: xã Trại Sơn huyện Giáp Sơn.

TRẦN DỰC: xã Ngải Lăng huyện La Sơn

LÊ VĂN HỌC: xã Đông Tháp huyện Đông Thành

HẠ NGỌC CHÚC: xã Yên Duyệt huyện Chương Đức

NGUYỄN NGẠN: xã Yên Khoái huyện Phú Xuyên

NGUYỄN VĨNH KIÊN: xã Yên Ninh huyện Cẩm Giàng

ĐẶNG TUYÊN: xã Lạc Dục huyện Tứ Kỳ phủ Hạ Hồng

NGUYỄN BÁ TÙNG: xã Tạ Xá huyện Tứ Kỳ

NGUYỄN ĐỐC: xã Thổ Giá huyện Nông Cống

VŨ BÁ DUNG: xã Thanh Giản huyện Đường An

VŨ CÁN: xã Mộ Trạch huyện Đường An

NGÔ VĂN HUY: xã Trâu Khê huyện Đường An

TRƯƠNG ĐỨC QUANG: xã Ngọc Xuyết huyện Hoằng Hoá

NGUYỄN CHƯỞNG: xã Thanh Thuỷ huyện Tiên Phúc

HOÀNG SĨ DỊCH: xã Lai Xá huyện Lương Tài

NGUYỄN VĂN HIẾN: xã Vĩnh Thế huyện Siêu Loại

VŨ BÁ THẮNG: xã Cựu Sơn huyện Yên Phong

MAI ĐỨC BÁ: xã Thạch Lỗi huyện Thạch Hà

NGUYỄN TỰ: xã Vĩnh Mỗ huyện Sơn Vi

ĐOÀN NHÂN THỤC: xã Nghĩa Đô huyện Từ Liêm

BÙI DỤC TÀI: xã Dương La huyện Hải Lăng

 LÊ NHÂN TẾ: xã Đại Nhuệ huyện Hoằng Hoá

 Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân, 34 người:

PHẠM KHIÊM BÍNH: xã Lãm Sơn huyện Quế Dương

NGUYỄN VĂN KIỆT: xã Mỹ Xá huyện Ngự Thiên

NGUYỄN DUY MINH: xã Thượng Cốc huyện Gia Lộc

NGUYỄN KIM: xã Thạch Lựu huyện An Lão

DOÃN MẬU KHÔI: xã Yên Dục huyện Thượng Phúc

NGUYỄN TỬ TRỌNG: xã An ấp huyện Hương Sơn

CHỬ THIÊN KHẢI: xã Cối Giang huyện Đông Ngạn

LÊ DỰC: xã Bối Khê huyện Thanh Oai

ĐỖ VĂN HIỆU: xã Hữu Quang huyện Yên Sơn

HOÀNG TỬ NGHI: xã Công Luận huyện Văn Giang

NGUYỄN VĂN HIẾN: xã Yên Định huyện Yên Dũng

ĐINH TRINH: xã Vị Khê huyện Thanh Lan

ĐÀO NHƯ HỔ: xã Triều Đông huyện Thượng Phúc

HOÀNG NHẠC: xã Hoàng Xá huyện Đông Thành

VŨ NGHI HƯỚNG: xã Đại Vi huyện Tiên Du

BÙI TÂN: xã Kim Bảng huyện Thiên Bản

LÊ KIM CHƯƠNG: xã Thanh Mai huyện Yên Phong

NGUYỄN THẾ MỸ: xã Lang Khuê huyện Tiên Lữ

NGUYỄN TRỌNG HƯNG: xã Đại Đồng huyện Siêu Loại

BÙI DOÃN CHÍNH: xã Thắng Trí huyện Bình Tuyền

PHẠM TRÁNG: xã Dũng Nhuệ huyện Giao Thuỷ

TRẦN LỰ: xã Bình Vọng huyện Thượng Phúc

PHAN ĐÌNH MỤC: xã Tây Hồ huyện Quảng Đức

NGUYỄN XUÂN LAN: xã Thì Mại huyện Bảo Lộc

TRẦN HUYÊN: xã Diên An huyện Kim Động

LÊ HIẾU TRUNG: xã Chi Nê huyện Chương Đức

NGUYỄN ĐOAN: xã Thuy Chương huyện Quảng Đức

LÊ ĐÌNH TƯỞNG: xã Cao Mật huyện Kim Bảng

ĐÀO THÚC VIỆN: xã Song Khê huyện Yên Dũng

NGUYỄN VĂN ĐỆ: xã Yên Nhân huyện Chương Đức

VŨ BÁ HUYÊN: xã Tùng Du huyện Gia Phúc

MẠC VĂN UY: xã Mạc Xá huyện Thanh Lâm

NGUYỄN TỬ KIẾN: xã Trạch Lôi huyện Thạch Thất

NGUYỄN MẬU: xã Du La huyện Thanh Hà

CT

HOA SEN TRANG TRÍ TRÊN BIA TIẾN SĨ TẠI VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM

         Hoa sen là loài hoa đẹp, tượng trưng phẩm chất thanh cao, tinh khiết, hình tượng hoa sen rất quen thuộc trong văn hóa Việt Nam.  Hoa sen xuất hiện khá sớm trong nghệ thuật tạo hình, được phản ánh trong kiến trúc và điêu khắc, tạo nên các phong cách “Hoa sen trong mỹ thuật cho từng thời đại”.

          Hoa sen cũng là một trong những đồ án hoa văn tiêu biểu được trang trí trên diềm bia Tiến sĩ ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám. Đề tài hoa sen trên bia Tiến sĩ xuất hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau và mang giá trị thẩm mỹ cao như: Hoa sen cách điệu hình mây xoắn, Đồ án Liên hoa bảo tòa [ Bệ hoa sen], Đồ án Hoa sen dây…

*Hoa sen cách điệu hình mây xoắn

[Ảnh: Hình ảnh trang trí hoa sen cách điệu thời Lê sơ trên bia Tiến sĩ khoa thi năm 1478

Nguồn: Nét Việt trên bia Tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Trần Hậu Yên Thế, Trần Trung Hiếu, NXB Mỹ Thuật 2018]

         Hình tượng Hoa sen được trang trí ở diềm bia Tiến sĩ đã xuất hiện ngay từ những tấm bia đầu tiên thời Lê sơ. Cách thức thể hiện hình Hoa sen là trung tâm bao trùm cả đồ án. Hoa sen bố cục nhìn nghiêng thấy rõ từng lớp hoa. Trong cùng là búp hoa còn xếp kín chưa nở. Tiếp đó là các lớp cánh sen tỏa đều ra hai bên. Cánh sen được cách điệu cao hình xoáy trôn ốc gần cuối, đầu cánh hoa vát nhọn. Nhìn từng cánh hoa như hình mây xoắn. Hai bên là cánh sen kiểu mây hóa.

         Đồ án Hoa sen cách điệu thành hình mây xoắn như thế này xuất hiện chủ yếu trên một số ít những tấm bia Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám thế kỷ XV. Thời kì này họa tiết trang trí trên diềm bia Tiến sĩ thường là những đường chạm khắc mảnh, sắc nét, thanh thoát.

*Đồ án Liên hoa bảo tòa [ Bệ hoa sen]

[Ảnh: Trang trí Đồ án Liên hoa Bảo tòa trên diềm chân bia Tiến sĩ thế kỷ XVI, VII]

         Đồ án Liên hoa Bảo tòa [Bệ hoa sen] giống như cách trang trí dưới những chân bệ tượng Phật trong kiến trúc Phật giáo xuất hiện ở diềm chân bia Tiến sĩ. Tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám có hơn 10 tấm bia Tiến sĩ khoảng thế kỉ XVII có diềm chân bia được trang trí bằng dạng đồ án Bệ hoa sen với những dạng thức khác nhau.

         Bố cục của Đồ án Liên hoa Bảo tòa  được trang trí trên diềm chân bia Tiến sĩ thường là những đài sen lớn. Cánh sen ở đây có 1 đến 3 lớp xếp chồng xen kẽ nhau, nối tiếp nhau theo chiều ngang của thân bia. Các lớp cánh hoa được chạm nông, cánh hoa cách điệu thành hình mây xoắn.

*Đồ án Hoa sen dây

[Ảnh: Đồ án Hoa sen dây trang trí trên diềm bia Tiến sĩ khoa thi năm 1554]

         Một loại đồ án Hoa sen trên bia Tiến sĩ xuất hiện khá độc đáo nữa là Hoa sen cách điệu thành Hoa sen dây.

         Đồ án kết hợp của 2 loại hoa: hoa cúc và hoa sen. Người nghệ nhân đã bố cục xen kẽ một hoa sen rồi đến một hoa cúc. Hai loài hoa nối tiếp nhau bằng dây và lá kết kín bốn cạnh của diềm bia Tiến sĩ.

         Đồ án hoa dây mang tình ước lệ rất cao. Vì trên thực tế lá sen và lá cúc khác hẳn so với lá thể hiện trên đồ án và hai loài hoa này cũng không phải là loài dây leo. Qua đó, cho thấy óc sáng tạo và sự khéo léo của đôi tay các nghệ nhân xưa.

*Trang trí hoa sen trên diềm bia Tiến sĩ

[Ảnh: Trang trí hoa sen trên diềm bia bia Tiến sĩ, Văn Miếu – Quốc Tử Giám]

         Phần lớn hình ảnh hoa sen trang trí trên diềm bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám được thể hiện bằng bút pháp cách điệu cao, rất hiếm khi dùng cách tả thực. Duy nhất chỉ có trên 2 tấm bia khoa thi 1580 và khoa thi 1589, hình ảnh hoa sen hiện lên sinh động, chân thực và rõ nét.

         Trên diềm bia khoa thi năm 1580, xen kẽ giữa các loài hoa khác là hình ảnh  hoa sen rất đẹp. Bông sen được nghệ nhân thể hiện theo góc nhìn nghiêng: Cánh hoa nở bung mềm mại, lá sen uốn cong xuống phía dưới, phía trên bông sen đang khoe sắc là một đài sen vươn cao mạnh mẽ. Hình ảnh hoa sen được chạm khắc sâu, sắc nét với bút pháp tả thực sống động.

         Trên diềm chân bia Tiến sĩ khoa thi năm 1589, hình  ảnh hoa sen lại hiện lên với khung cảnh rất bình dị những không kém phần nên thơ. Đó là hình ảnh đầm sen với đàn cò vạc đang kiếm ăn. Bút pháp tả thực lãng mãn, làm tăng thêm vẻ đẹp và giá trị mỹ thuật của Di sản Tư liệu Thế giới 82 tấm bia Tiến sĩ.

AV

BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA ẤT MÙI [1475] TẠI VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM

    Năm 1484, vua Lê Thánh Tông bắt đầu cho dựng bia đá đề tên Tiến sĩ. Có 7 trong 10 tấm bia được dựng ở đợt đầu tiên này hiện còn lưu giữ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức 6 [1475] là một trong 7 tấm bia đó.

    Bia có kích thước nhỏ nhưng tỷ lệ hài hòa. Thuộc dạng bia dẹt với chiều cao 154cm, rộng 119 cm và dày 18 cm, bia gồm 3 phần: trán bia, thân bia và đế bia. Trán bia hình vòm, trang trí theo hình thức mây vờn mặt trời. Thân bia hình chữ nhật trên có khắc văn bia chữ Hán theo chiều dọc; diềm bia trang trí hoa dây, các đường nét chạm mảnh. Đế bia hình rùa được chạm khắc tinh tế, đầu ngẩng cao chếch ra phía trước, miệng rộng có hai răng nanh, mắt khá to, lồi, tròn bầu dục, mai rùa không chạm khắc, chân rùa có 5 móng gắn vào thân.

    Tháng 3 năm Ất Mùi, niên hiệu Hồng Đức 6 [1475], triều đình tổ chức thi Hội cho cử nhân trong nước. Tham gia kỳ thi có tới hơn 3000 thí sinh, trải qua bốn trường thi chỉ chọn được 43 người vào thi Đình. Đến ngày 11 tháng 5, nhà vua “ngự điện Kính Thiên, thân ra đề văn sách, hỏi về đạo vua tôi ngày xưa để chọn thứ bậc”. Đây là khoa thi thứ năm được tổ chức thời vua Lê Thánh Tông. Sau kỳ Điện thí, nhà vua chọn đủ Tam khôi: Trạng nguyên là Vũ Tuấn Chiêu 49 tuổi, ông người huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên [nay thuộc phường Nhật Tân, quận Tây Hồ. Nguyên quán xã Cổ Lôi, huyện Tây Chân, nay là thôn Xuân Lôi, xã Nam Hùng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định]. Vũ Tuấn Chiêu sau làm quan đến chức Lại bộ Tả thị lang. Hiện nay, tại xã Nam Hùng, huyện Nam Trực còn đền thờ ông. Đậu Bảng nhãn là Ông Nghĩa Đạt, người xã Phú Gia, huyện Từ Liêm, nay là thôn Phú Gia, phường Phú Thượng, quận Tây Hồ. Ông làm quan đến chức Phó Đô ngự sử, từng đi sứ nhà Minh. Thám hoa là Cao Nghĩa, 37 tuổi, người xã Cao Xá, huyện Đông Thành, nay là xã Diễn Thành huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An. Ông làm đến chức Đông các đại học sĩ.

    Đỗ hàng Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân có 13 người. Đáng chú ý có Tiến sĩ Nguyễn Kim, người tỉnh Bắc Ninh, từng giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Đỗ hàng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân có 27 người, trong đó Tiến sĩ Nguyễn Lê Kính, người tỉnh Bắc Giang từng giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám.

    Bài văn bia do Đông các hiệu thư Lê Tuấn Ngạn - Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Đức 3 [năm 1472] soạn. Nội dung cho thấy, việc giáo dục đào tạo nhân tài rất được chú trọng dưới thời vua Lê Thánh Tông: “Hiền tài đối với quốc gia, cũng như nguyên khí con người ta không thể một ngày không có”; “Nhất là việc lập trường học, mở khoa thi, càng để lòng chăm chú hơn”. Văn bia còn nhắc nhở kẻ sĩ, dù là các Tiến sĩ có tên trên bia, hay kẻ sĩ trong thiên hạ về cách sống, cách làm việc, cách cư xử cùng đạo lý, luân thường : “Nay những người thi đỗ đều đã được bổ nhiệm khắp nơi….tất cả đều lo nung nấu lòng ngay, trau dồi tiết lớn, nêu cao thanh danh lừng lẫy, công nghiệp lỗi lạc, ngõ hầu trên không phụ ơn triều đình cất nhắc, dưới không phụ chí khí hoài bão trong đời. Thảng hoặc có kẻ không được như thế, đời sau sẽ có người chỉ vào tên mà bàn tán rằng : người này trung chính, kẻ kia gian tà; người này thanh liêm giữ mình, người kia tham lam mất chức…ắt không tránh khỏi sự khen chê của người đời. Thế thì tấm đá này dựng lên không chỉ để nêu thanh danh và lưu tiếng tốt, khiến cho người thi đỗ được vẻ vang nhất thời mà thôi đâu, mà thâm ý khuyên răn thực gửi vào trong đó”.

    Văn bia còn cho ta biết tên và chức vụ, trách nhiệm các quan chịu trách nhiệm về khoa khi này như: Quan Đề điệu là Thượng tướng quân phò mã đô uý Đông quân đô đốc phủ tả đô đốc Đoan Vũ bá Trịnh Công Lộ và Lại bộ thượng thư Hoàng Nhân Thiệm; quan Độc quyển là Triều liệt đại phu Hàn lâm viện thị độc kiêm Đông các học sĩ Thân Nhân Trung, Đông các hiệu thư Đỗ Nhuận, Đông các hiệu thư Quách Đình Bảo; quan Giám thí là Thái tử thiếu bảo Ngự sử đài đô ngự sử Trần Phong và Binh khoa đô cấp sự trung Phí Bá Khang.

    Phần cuối văn bia còn khắc họ tên người viết chữ, người khắc bia. Bia khoa thi này do Trung thư giám chính tự Thái Thúc Liêm viết chữ, và Mậu lâm lang kim quang môn đãi chiếu Tô Ngại, người viết chữ Triện. Với bàn tay khéo léo, tài hoa của mình, họ đã để lại cho đời sau một tác phẩm  nghệ thuật độc đáo, là nguồn sử liệu quý giá về nền giáo dục khoa cử Việt Nam thời quân chủ.

[Ảnh: Bia đề danh Tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức 6 [1475]]

DANH SÁCH TIẾN SĨ KHOA THI NĂM ẤT MÙI NIÊN HIỆU HỒNG ĐỨC THỨ 6 [1475]

Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, 3 người:

VŨ TUẤN CHIÊU

huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên

ÔNG NGHĨA ĐẠT

huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai

CAO QUÝNH

huyện Đông Thành phủ Diễn Châu

Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 13 người:

PHẠM XÁN

huyện Đường An phủ Thượng Hồng

TRẦN THÂM

huyện Thiện Tài phủ Thuận An

ỨNG NGẠN LƯỢNG

huyện Thượng Phúc phủ Thường Tín

VƯƠNG HIỂN

huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách

NGUYỄN TẤN VĨ

huyện Cẩm Giàng phủ Thượng Hồng

LÊ QUẢNG DU

huyện Lôi Dương phủ Thiệu Thiên

PHẠM HƯNG VĂN

huyện Thanh Lan phủ Tân Hưng

ĐỖ TRÍ TRUNG

huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai

KIỀU PHÚ

huyện Ninh Sơn phủ Quốc Oai

NGUYỄN KIM

huyện Tiên Du phủ Từ Sơn

ĐỖ TUYỀN

huyện Phụ Dực phủ Thái Bình

VŨ MẪN TRÍ

huyện Kim Thành phủ Kinh Môn

NGUYỄN TUẤN

huyện Đông Yên phủ Khoái Châu

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 27 người:

ĐỖ VINH

huyện Trường Tân phủ Hạ Hồng

PHAN PHÚC CẨN

huyện La Giang phủ Đức Quang

NGUYỄN DUY TIẾU

huyện Vĩnh Lại phủ Hạ Hồng

NGUYỄN ẤU MIỄN

huyện Quế Dương phủ Từ Sơn

NGUYỄN QUAN HIỀN

huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai

HOÀNG THIỆU

huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai

ĐỖ TƯƠNG

huyện Ngọc Sơn phủ Tĩnh Ninh

NGUYỄN MINH KHANG

huyện Ngự Thiên phủ Tân Hưng

NGUYỄN TRINH

huyện Lập Thạch phủ Tam Đới

VŨ TRIỆU DUNG

huyện Phụ Dực phủ Thái Bình

NGUYỄN CUNG

huyện Bình Hà phủ Nam Sách

NGUYỄN ĐẠC

huyện Vũ Ninh phủ Từ Sơn

NGUYỄN TĨNH

huyện Kim Hoa phủ Bắc Giang

PHAN QUÝ

huyện Siêu Loại phủ Thuận An

THÁI THUẬN

huyện Siêu Loại phủ Thuận An

NGUYỄN SÙNG NGHÊ

huyện Vĩnh Xương phủ Phụng Thiên

TRẦN MÔ

huyện Đan Phượng phủ Quốc Oai

ĐOÀN MẬU

huyện An Lão phủ Kinh Môn

NGUYỄN LI CHÂU

huyện Yên Lãng phủ Tam Đới

NGUYỄN LỄ KÍNH

huyện Yên Dũng phủ Lạng Giang

TẠ ĐỨC HẢI

huyện Vũ Ninh phủ Từ Sơn

TẠ THÔNG

huyện Sùng Yên phủ An Bình

NGUYỄN DƯƠNG HIẾN

huyện Kim Hoa phủ Bắc Giang

ĐỖ CHÍNH LẠC

huyện Đường An phủ Thượng Hồng

NGÔ LUÂN

huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn

NGUYỄN TƯ PHỤ

huyện Chí Linh phủ Nam Sách

NGUYỄN TƯ PHÚC

huyện Lập Thạch phủ Tam Đới

media/uploads/2021/08/18/danh-sach-tien-si-khoa-thi-nam-at-mui-nien-hieu-hong-uc-thu-6.docx

                                                                                                                                                                                 LH        

TẤM BIA TIẾN SỸ ĐẦU TIÊN ĐƯỢC DỰNG TẠI VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM

    Để biểu dương nhân tài, khuyến khích việc học tập, ngày 15 tháng 8 năm 1484, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu cho dựng bia đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long. Bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo 3 [1442] là một trong 10 tấm bia Tiến sĩ đầu tiên được dựng trong đợt này tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

    Bia có kích thước nhỏ, chiều cao 108 cm, chiều rộng 52 cm, dày 18 cm. Trán bia hình khung vòm được trang trí mây vờn ngọc báu, cây thiêng, cỏ lạ. Diềm bia trang trí hoa dây thảo Đường. Rùa đội bia có đầu tròn, ngẩng cao, hơi chếch về phía trước; miệng rộng, có răng nanh; mắt rùa to, lồi tròn, dáng khoan thai thể hiện ước vọng trường tồn vĩnh cửu của tri thức. Phần trên cùng sát với trán bia khắc niên đại tổ chức khoa thi: “Đại Bảo tam niên Nhâm Tuất khoa Tiến sĩ đề danh ký” theo lối chữ Triện.

Bia khoa thi 1442 đặt trong nhà đình bia. Bên ngoài khắc câu đối ca ngợi đạo học và việc khắc tên Tiến sĩ.

Trên bia khắc bài văn bia bằng chữ Hán do Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung soạn. Bài văn bia gồm bài ký, danh sách các vị đỗ Tiến sĩ, cuối cùng là họ tên, chức vụ của người soạn văn bia, người viết chữ, năm dựng bia. Bia ghi rõ số người dự thi Hội là 450, số người đỗ 33 Tiến sĩ.

    Người đỗ Trạng nguyên là Nguyễn Trực, người làng Bối Khê, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên. Nguyễn Trực là vị Trạng nguyên khai khoa của nhà Lê, cũng là vị tiến sĩ đầu tiên được khắc tên trên bia Tiến sĩ. Ông làm quan đến chức Hàn lâm viện Thừa chỉ kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám, từng đi sứ nhà Minh. Đỗ Bảng nhãn của khoa thi này là Nguyễn Như Đổ, người xã Duyên Hà huyện Thanh Trì, Hà Nội, cũng đã từng là Tế tửu Quốc Tử Giám. Đỗ Thám hoa là Lương Như Hộc, người  xã Hồng Liễu, huyện Trường Tân, tỉnh Hải Dương, nay là xã Thanh Liễu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Ông là người đầu tiên truyền dạy nghề in mộc bản cho dân hai làng Liễu Tràng và Hồng Lục quê ông. Ngoài ra, trong số 33 vị tiến sĩ của khoa thi này còn phải kể đến nhà sử học Ngô Sĩ Liên, người xã Chúc Sơn, huyện Chương Đức [nay thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Nội]. Ông là người có công lớn trong việc biên soạn bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư gồm 15 bộ. Ông cũng từng giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám.

    Trên bia đá khoa thi năm 1442, còn ghi lại đầy đủ họ tên của các vị quan trông thi, chấm thi đều là những vị quan đại thần như: Thượng thư Lê Văn Linh, Ngự sử đài thị ngự sử Triệu Thái, Nội mật viện tri viện sự Trình Thuấn Du…và đặc biệt giám khảo của khoa thi 1442 còn có Danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi -  những người đã góp phần quan trọng vào việc tổ chức kỳ thi, chấm thi chọn ra được  nhân tài cho đất nước. Đặc biệt, bia còn chép lại họ tên, thông tin của người viết chữ  tấm bia là Trung thư giám Nguyễn Tủng, Mậu lâm lang Kim quang môn đãi chiếu Tô Ngại. Với đôi tay tài hoa, khéo léo họ đã tạo tác ra một tác phẩm nghệ thuật độc đáo cho muôn đời sau.

     Phần ký của văn bia cung cấp nhiều thông tin quan trọng về lịch sử của nền giáo dục và quan điểm của nhà nước về đào tạo và sử dụng nhân tài. Đông các đại học sỹ Thân Nhân Trung đã được vua Lê Thánh Tông giao soạn bài ký khắc trên bia năm 1442. Ông đã nêu bật được tầm quan trọng của hiền tài đối với mỗi quốc gia trong bài ký khắc trên bia: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần kíp”. Đây là lời tuyên ngôn cho tinh thần, cho mục tiêu của  nền giáo dục Đại Việt, là lời khuyến học cho các thế hệ học trò.

    Bia Tiến sĩ khoa thi năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo 3 [1442]  là nguồn sử liệu chứa đựng những giá trị lịch sử, văn hóa, giáo dục. Tấm bia hiện nay được đặt trong nhà đình bia bên dãy bia bên Đông. Mặt ngoài nhà đình bia có khắc câu đối ca ngợi đạo học và việc khắc tên tiến sĩ.

“Xa thư cộng đạo kim thiên hạ

Khoa giáp liên đề cổ học cung”

Nghĩa là:

[Thiên hạ ngày nay xe cùng cỡ bánh, viết cùng văn tự, cùng theo đạo Nho

Nhà học xưa liên tiếp đề tên người trong khoa bảng]

                                                                                                                                                                                                        LH

ĐỒ ÁN DÂN GIAN “LỘ LỘ LIÊN HOA” TRÊN BIA TIẾN SĨ TẠI VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM

    Đồ án dân gian “Lộ lộ liên hoa” là một hình ảnh rất đỗi quen thuộc ở mỗi làng quê Việt Nam: một đầm sen rộng lớn, xen lẫn giữa lá sen, búp sen và đài sen là đàn cò, đàn vịt đang tung tăng bơi lội. Xuất hiện trên bia Tiến sĩ, “Lộ lộ liên hoa” đã đem lại sự thú vị và ngạc nhiên cho người xem. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu ý nghĩa của mô típ trang trí này nhé!

Bia đề danh tiến sĩ khoa thi Kỷ Sửu niên hiệu Quang Hưng 12 [1589]

Đồ án Lộ lộ liên hoa trang trí trên chân bia tiến sĩ.

    82 tấm bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, không chỉ là những pho sử quí về nền giáo dục Việt Nam thời quân chủ mà còn là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc mang phong cách điêu khắc đặc trưng của các triều đại. Trên trán bia, diềm bia đều được được tạo tác các đồ án trang trí sinh động, đa dạng và giàu tính hiện thực. Trong số đó, phải kể đến đồ án trang trí trên diềm bia tiến sĩ khoa thi Quang Hưng thứ 12 [năm 1589]: Lộ lộ liên hoa [tức cò và sen]. Đó là cảnh một đầm sen rộng lớn chạy dài suốt cả diềm chân bia. Trên mặt nước rộng bao la thỉnh thoảng nhô lên một khóm sen với những lá sen, búp sen, được chạm khắc rất khỏe. Xen vào giữa là những con cò, con vịt đang bơi lội. Đây là một bức tranh đẹp, hoàn chỉnh, giàu chất hiện thực, đậm đà màu sắc quê hương mà ta thường thấy trong cuộc sống hàng ngày ở các vùng làng mạc, ruộng đồng trên đất nước Việt Nam.

Đồ án Lộ lộ liên hoa trang trí trên chân bia tiến sĩ.

    Bia Tiến sĩ là nơi ghi danh những vị Tiến học giỏi, đỗ cao, chính vì vậy đề tài trang trí trên bia cũng thường phản ánh niềm vui đỗ đạt, sự may mắn, hanh thông trên con đường học vấn, con đường quan lộ của các nhà khoa bảng. Đề án Lộ lộ liên hoa không phải là một ngoại lệ. Đây là dạng đồ án cát tường chỉ sự may mắn với hài thanh ngụ ý [đồng âm] ẩn dụ cho sự hiển đạt hanh thông, đăng khoa liên tiếp của các sĩ tử.

    Có thể thấy, bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám được các nghệ nhân, nhà khoa bảng nổi tiếng đương thời tạo tác. Mỗi tấm bia, mỗi đồ án trang trí quả thực là một tác phẩm độc đáo mang giá trị nghệ thuật cao. Bởi chúng không chỉ là kết tinh của trí tuệ, tài năng, bàn tay khéo léo mà còn phản ánh cảm xúc và ý tưởng thâm thúy của những nhà văn hóa, thư pháp, nghệ nhân hàng đầu Việt Nam qua các thời kỳ.

Các bạn học sinh trải nghiệm in họa tiết Lộ lộ liên hoa

    Đến tham quan di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu-Quốc Tử Giám, bạn sẽ có cơ hội để chiêm ngưỡng những tuyệt tác nghệ thuật này. Thậm chí nếu muốn, với phương pháp in mộc bản truyền thống, bạn có thể tự tay in và mang về nhà những hoa tiết hoa văn cổ cách đây hàng trăm năm, gửi gắm trong đó những triết lý sâu xa của các bậc tiền nhân.

                                                                                                                                            LH

ĐÁ AN HOẠCH - CHÂT LIỆU TẠC BIA TIẾN SĨ

TẠI VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM

         Đến thăm Di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, du khách đặc biệt quan tâm đến những giá trị lịch sử văn hóa của Bảo vật Quốc gia, Di sản Tư liệu Thế giới 82 tấm bia Tiến sĩ, song ít ai để ý tìm hiểu sâu về chất liệu độc đáo của những pho sử liệu bằng đá quí hiếm này. Đá thanh thạch dùng để tạc bia có màu xanh lam, óng ánh như khói biếc, được khai thác từ dãy núi làng An Hoạch, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Hàng bia Tiến sĩ trầm mặc với sắc đá thanh thạch ánh màu khói biếc

         Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám là những tác phẩm nghệ thuật mang  đậm dấu ấn điêu khắc của từng triều đại quân chủ. Việc chạm khắc bia được thực hiện rất công phu. Công việc thường do các quan Thượng thư, Tham tri bộ Lễ đích thân trông nom. Việc chọn đá, tuyển thợ khắc do bộ Công đảm nhiệm . Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 [1748] còn ghi rõ việc hai đội thợ được chọn làm bia “lấy đá làng An Hoạch, huyện Đông Sơn vâng mệnh khắc chữ” [trích sách Văn Miếu - Quốc Tử Giám và 82 bia Tiến sĩ - Ngô Đức Thọ chủ biên].

         Làng An Hoạch [còn gọi là làng Nhồi hay thôn Nhuệ] là một làng cổ nằm ở Tây Nam thành phố Thanh Hóa, nay thuộc Phường An Hoạch, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Trong khu vực này, có một dãy núi đá được người dân  gọi là núi Nhồi, núi Khế, núi An Hoạch hay núi Vọng Phu… Đá trên núi có kết cấu rất đặc biệt, màu sắc đa dạng: đen tuyền, đỏ, nâu, vàng, xanh lam [xanh khói]...  Trong đó, đá đen và đá thanh thạch [xanh lam] là loại quí  hiếm  nhất. Hai loại đá này thớ mịn, ít hợp chất, liền khối nên độ phong hóa thấp. Bởi vậy, từ xưa thường được chọn làm các vật quý, để lưu lại muôn đời.

Chất liệu đá thanh thạch dùng  làm bia Tiến sĩ có màu xanh khói, mặt đá mịn, bền, ít bị phong hóa

         Mô tả về chất liệu đá đặc biệt này, văn bia chùa Báo Ân trên núi An Hoạch, tỉnh Thanh Hóa chép: "Sắc đá óng ánh như ngọc lam, chất xanh biếc như khói nhạt. Sau này đục thành khí cụ, ví như đẽo thành khánh, đánh lên thì tiếng vang muôn dặm, dùng làm bia, văn chương để lại thì còn mãi ngàn đời". [Thơ văn Lý - Trần, [tập 1], Nxb. KHXH, Hà Nội, 1997, tr. 130]

            

Họa tiết hoa Bảo tiến khắc nổi trên diềm bia Tiến sĩ có sắc ánh xanh như khói biếc

         Năm 1484, vua Lê Thánh Tông cho dựng bia Tiến sĩ để đề cao hiền tài,  tôn vinh đạo học, lưu danh muôn đời. Với chất liệu đá độc đáo vừa bền đẹp vừa có độ mềm, mịn phù hợp, thuận lợi cho kỹ nghệ chạm khắc các hoa văn tinh xảo, đá thanh thạch  ở An Hoạch - Thanh Hóa  đã được chọn để tạc bia Tiến sĩ. Cấu tạo bền vững của loại đã này góp phần quan trọng giúp 82 tấm bia Tiến sĩ  tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám dãi dầu mưa nắng, vượt qua thời gian để thành những hiện vật “độc đáo, quí hiểm, không thể thay thế”, đủ tiêu chuẩn để được công nhận là Di sản Tư liệu Ký ức Thế giới [năm 2011] và Bảo vật quốc gia [năm 2015].

         Ngày nay, bia Tiến sĩ luôn được chú trọng bảo tồn. Năm 1994, cùng với sự tài trợ Công ty American Express, Chính phủ Việt Nam đã cấp kinh phí cho dựng lại 8 nhà che bia mới. Công trình được  thiết kế theo phong cách kiến trúc thời Hậu Lê, dung dị, trang nghiêm, hài hòa với khung cảnh của khu vườn bia, Khuê Văn Các, giếng Thiên Quang và cổng Đại Thành  khiến cho du khách - những ai chưa từng đến thăm Văn Miếu - Quốc Tử Giám khi những hàng bia đá cổ kính còn nằm ngoài mưa nắng thì khó có thể nhận ra được đâu là cũ, đâu là mới.

AV

NĂM TÂN SỬU GỢI NHỚ HÌNH ẢNH TRÂU TRÊN BIA TIẾN SĨ TẠI VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM

         Bia Tiến sĩ không chỉ phản ánh rõ nét chế độ khoa cử giáo dục Nho học, vinh danh nhân tài, mà còn thể hiện những giá trị mỹ thuật đặc sắc mang đậm truyền thống văn hoá của Việt Nam. Sự xuất hiện hình ảnh con Trâu trên diềm bia Tiến sĩ [khoa thi năm 1643] là một minh chứng rõ ràng cho điều đó.

         Trâu đứng thứ hai trong 12 con giáp, có vai trò quan trọng trong nền nông nghiệp lúa nước. Có lẽ chỉ có ở nền văn minh nông nghiệp lúa nước lâu đời mới có những phong tục, lễ hội như: chọi trâu, thi trâu, tạ ơn trâu… Bởi con Trâu trong văn hoá Việt Nam tượng trưng cho sự chắc chắn, trung thành, chăm chỉ và thật thà. Con Trâu từ xa xưa đã đi vào tín ngưỡng đời sống xã hội của người Việt, vừa gần gũi vừa thiêng liêng. Hình ảnh con Trâu trở thành nguồn cảm hứng trong các sáng tác thi ca, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc… của Việt Nam.

         Thật thú vị khi trên diềm bia Tiến sĩ khoa thi năm Quý Mùi niên hiệu Phúc Thái 1 [năm 1643] lại xuất hiện hình ảnh con Trâu. Đây là tấm bia Tiến sĩ duy nhất trong hệ thống bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám chạm hình ảnh con trâu. Đó là mảng chạm khắc hình hai viên quan đứng bên con trâu, mảng chạm tuy nhỏ nhưng rất rõ thần thái nhân vật. Hai vị quan từ trang phục đến nét mặt đều rất khoan thai, điềm đạm. Hình con trâu phía trước khoẻ mạnh, vạm vỡ với đối sừng cong vút như mảnh trăng lưỡi liềm.

Hình ảnh con Trâu sắc nét trên bia Tiến sĩ khoa thi Quý Mùi, niên hiệu Phúc Thái 1 [1643]

         Bức phù điêu gợi nhớ đến câu ca xưa “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Mảng chạm khắc hoạ các vị quan, con trâu, cái cày [phía sau] cũng gợi nhớ đến Lễ tế Thần Nông và nghi thức cày ruộng Tịch Điền ngày xưa. Nghi lễ này thường diễn ra vào dịp đầu xuân, do nhà vua đích thân làm lễ và cày ruộng, Triều đình rất coi trọng nghi lễ này để mong một năm mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, cuộc sống người dân được ấm no, hạnh phúc.

Vị trí mảng chạm khắc con Trâu trên bia Tiến sĩ khoa thi Quý Mùi, niên hiệu Phúc Thái 1 [1643]

         Hình ảnh con Trâu xuât hiện trên bia Tiến sĩ phải chăng cũng thể hiện khát vọng ấm no, an lành đến cho con người. Đó cũng là nhiệm vụ, trọng trách của kẻ sĩ phải biết mang đức hạnh, tài năng giúp nước, xây dựng quê hương giàu đẹp.

         Tết Tân Sửu năm nay đất trời ấm áp, cây cỏ đơm hoa như báo hiệu một năm mới khởi sắc. Dẫu cho dịch bệnh Covid-19 vẫn còn đang diễn biến phức tạp nhưng nhất định sẽ vượt qua. Tân Sửu – chú “Trâu vàng” mang lại một sức vóc mới, khoẻ khoắn và sung túc. Văn Miếu – Quốc Tử Giám với những giá trị lịch sử văn hoá bền vững, sừng sững và linh thiêng, sẽ tiếp bước mạnh mẽ, vững chãi như biểu tượng của chú “Trâu vàng” trong năm Tân Sửu – 2021.

AV

CHIÊM NGƯỠNG HÌNH ẢNH RỒNG TRÊN TRÁN BIA TIẾN SĨ

         Hình rồng trang trí trên bia tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một loại hình chạm khắc, trang trí mỹ thuật độc đáo. Đề tài rồng được chọn để trang trí trán bia là hình hai rồng chầu vầng nhật nguyệt. Nhật nguyệt tượng trưng cho nguồn sáng [trí tuệ] vĩnh cửu. Hai con rồng chầu vào nhật nguyệt muốn thể hiện sự hưng thịnh và phát triển của trí tuệ.

         Trong 82 tấm bia Tiến sĩ tại Di tích có tới 46 tấm bia được trang trí hình rồng ở nhiều kiểu dáng, vô cùng sinh động. Bia Tiến sĩ được dựng từ năm 1484, nhưng hình rồng chạm khắc trên trán bia lại xuất hiện muộn hơn. Phải đến tấm bia tiến sĩ khoa thi năm Ất Sửu, niên hiệu Chính Trị 8 [1565] mới xuất hiện hình rồng trang trí trên trán bia.

         Phân loại từ hình thể, hình rồng trên trán bia có hai loại: “Rồng thức” và “Rồng hóa mây”. “Rồng thức” là hình rồng uốn khúc từ trên vòng xuống, vi vảy được chạm rõ, đầu rồng ngẩng cao, râu tóc uốn lượn, thần thái dũng mãnh chầu vào vầng nhật nguyệt với các tia sáng xung quanh. Đặc biệt rồng được tạo tác chỉ có 3 móng. Qua thống kê chỉ có 15 tấm bia xuất hiện hình ảnh này.

[Ảnh: Thác bản bia Tiến sĩ khoa thi năm 1565 trán bia trang trí đề tài “Lưỡng long chầu nhật nguyệt”]

         Tuy nhiên trong 15 tấm bia đó, có tấm bia khoa thi năm 1607 lại xuất hiện loại “Rồng thức” khác. Đó là hình ảnh “Hai rồng tranh châu” [“Lưỡng long tranh châu”].

[Ảnh: Đề tài “Lưỡng long tranh châu” trang trí trên trán bia tiến sĩ năm 1607]

         Đề tài trang trí “Lương long tranh châu” xuất hiện trên trán bia khoa thi năm 1607.  Hình tượng hai con rồng là biểu tượng lực Âm - Dương cân bằng, hạt châu là biểu tượng của thái cực, là biểu tượng của vũ trụ. Hình ảnh hai con rồng được chạm khắc rõ nét, nhưng khô cứng, gai góc, khác với hình tượng rồng được chạm khắc trong cùng giai đoạn đó.

         Hình ảnh “Rồng hóa mây” lần đầu tiên xuất hiện trang trí trên trán bia tiến sĩ khoa thi năm 1656. Từ khoa thi này trờ về sau có 31 tấm bia sử dụng hình ảnh rồng hóa mây để trang trí trán bia. Vẫn là đề tài “Lưỡng long chầu nhật nguyệt”, chỉ khác là rồng được tạo hình từ những đám mây.

[Ảnh: Đề tài “Lưỡng long hóa mây chầu nhật nguyệt” trang trí trên trán bia tiến sĩ năm 1763]

          Nếu chỉ nhìn lướt qua, có thể tưởng rằng đó là những đám mây vây quanh vầng nhật nguyệt. Chỉ khi quan sát kĩ mới nhận thấy khối mây này là đầu rồng, khối mây kia là thân rống uốn khúc, tứ chi, vây tóc cũng được cách điệu từ những dải mây. Kiểu thức rồng hóa mây khiến cho linh vật rồng không có dáng vẻ uy nghi, đĩnh đạc như kiểu thức rồng được tạo tác trên bia thời kì trước đó mà uyển chuyển, bay lượn, biến hóa.

         Hình rồng trên bia Tiến sĩ đã được các nghệ nhân chạm khắc vô cùng sống động với nhiều hình dạng, dáng vẻ khác nhau. Con rồng từ trong tưởng tượng được chạm rất có hồn thành một con vật như có thật, có đời sống và một thế giới riêng. Trán bia được bố trí các khối, các mảng rất hài hòa, đường nét chạm tinh tế, gắn kết với tổng thể cả tấm bia như một bức tranh nghệ thuật chứa đựng nhiều ý nghĩa.

AV

82 bia đá đề danh Tiến sĩ của các khoa thi từ 1442 đến 1779 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám là những di vật quý giá và được xem như pho sử bằng đá về giáo dục Nho học Việt Nam, trải qua hơn 5 thế kỷ tồn tại cùng với những thăng trầm của lịch sử, cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị.

Nội dung bia Tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám còn ghi đầy đủ những thông tin cụ thể về khoa thi, số lượng thí sinh, tên, quê quán người thi đỗ, tên các quan coi thi, chấm thi,... Những thông tin này cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng quan về sự phát triển giáo dục thời Lê - Mạc. Qua thông tin trên các bia Tiến sĩ chúng ta thấy sự xuất hiện của nhiều làng khoa bảng, dòng họ khoa bảng. Trong số đó có dòng họ Nguyễn ở Hạ Yên Quyết, huyện Từ Liêm, nay thuộc phường Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội.

Khu vườn bia Tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội

Làng Hạ Yên Quyết [làng Cót] là một làng trong 4 làng nổi tiếng [Mỗ, La, Canh, Cót]. Dòng họ Nguyễn là một trong những họ nổi tiếng ở Hạ Yên Quyết, đây là một dòng họ có truyền thống hiếu học từ lâu đời. Đến nay họ Nguyễn đã phát triển được hơn 20 đời trong gần 600 năm với rất nhiều danh nhân học cao, trí lớn, có đức, có tài, đã đem toàn bộ tài năng và trí tuệ của mình cống hiến cho đất nước, phục vụ nhân dân. Họ đều là những người đức độ, chính trực, thanh liêm, lập lên nhiều công lao lớn và được sử sách ghi lại. Dòng họ Nguyễn có tất cả 5 vị đỗ đại khoa, 30 vị đỗ Cử nhân, Tú tài.

Cụ thủy tổ của dòng họ là Nguyễn Như Uyên, ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân [Hoàng giáp] khoa Kỷ Sửu niên hiệu Quang Thuận 10 [1469] đời vua Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Lại bộ Thượng thư, chưởng lục bộ, kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám, Nhập thị kinh diên.

Đời thứ hai là Nguyễn Xuân Nham, cháu họ của Nguyễn Như Uyên, ông đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi niên hiệu Cảnh Thống 2 [1499] đời vua Lê Hiến Tông. Làm quan đến chức Thừa chính sứ.

Nguyễn Như Uyên và Nguyễn Xuân Nham đỗ các khoa thi năm 1469 và năm 1499. Hai khoa thi này theo Đại Việt sử ký toàn thư chép đều được dựng bia đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám song đã bị thất lạc, những bia này hoặc đã bị huỷ hoại, hoặc chuyển dịch thất lạc, bị vùi lấp đâu đó chưa phát hiện được.

Đến đời thứ ba là Nguyễn Khiêm Quang, cháu của Nguyễn Như Uyên, ông đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mùi niên hiệu Thống Nguyên 2 [1523] đời Lê Cung Hoàng. Khoa Quang Thiệu 5 [1520] và 2 khoa đời Lê Cung Hoàng [Thống Nguyên 2 [1523] và Thống Nguyên 5 [1526], tức 3 khoa thi cuối cùng của đời Lê sơ thì không những đương thời mà cả về sau cũng chưa bao giờ được dựng bia. Vì thế mặc dù đỗ Tiến sĩ song tên ông không được khắc trên bia đặt tại Văn Miếu.

Đời thứ 5 là Nguyễn Nhật Tráng, cháu của Nguyễn Khiêm Quang, ông đỗ Hội nguyên, Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân [Hoàng giáp] khoa Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng 18 [1595] đời Lê Thế Tông. Bia Tiến sĩ năm 1595 đặt tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám khắc tên ông: “Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân: Nguyễn Nhật Tráng: xã Yên Quyết Hạ, huyện Từ Liêm”.

Đời thứ 8 là Nguyễn Vinh Thịnh, cháu tằng tôn của Nguyễn Nhật Tráng, ông đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ 2 [1659] đời vua Lê Thần Tông. Tên của ông được khắc trên văn Tiến sĩ khoa thi năm 1659 đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám: “Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân: Nguyễn Vinh Thịnh: xã Nghĩa Đô huyện Từ Liêm”.

82 bia Tiến sĩ là nguồn sử liệu hết sức quý giá, chúng ta có thể tìm được rất nhiều thông tin về lịch sử, văn hóa, mỹ thuật, các giá trị triết lý, giá trị tư tưởng và quan điểm của người đương thời. Những tấm bia đá hiện vẫn còn ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám luôn nhắc nhở chúng ta về chính sách đối với nhân tài, đề cao, ca ngợi công trạng của các danh nhân với dân, với nước. Trong số 1304 vị Tiến sĩ được lưu danh trên bia Tiến sĩ nói chung và những vị Tiến sĩ của dòng họ Nguyễn ở Hạ Yên Quyết nói riêng, rất nhiều người đã trở thành những nhà hoạt động chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục..., trở thành những vị quan công minh đem tài trí của mình giúp dân, giúp nước.

Bài và ảnh: Bạch Ngọc Minh

VỀ TẤM BIA KHOA THI NĂM MẬU TUẤT NIÊN HIỆU QUANG HƯNG THỨ 21 [1598]

TẠI VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM HÀ NỘI

Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám là nơi lưu giữ 82 tấm bia Tiến sĩ, những “Bảo vật quốc gia”, “Di sản Tư liệu Thế giới trên phạm vi toàn cầu” vô cùng ý nghĩa. Hệ thống bia Tiến sĩ đã trở thành những di sản vô giá của nền văn hóa dân. Trên bia có khắc họ tên và quê quán của 1304 vị Tiến sĩ thi đỗ dưới thời Lê - Mạc. Tấm bia Tiến sĩ khoa thi Mậu Tuất niên hiệu Quang Hưng thứ 21 [1598] có ghi họ tên quê quán của Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Duy Thì, một danh nhân có nhiều đóng góp cho đất nước.

Bia khoa thi năm Mậu Tuất [1598] tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám

 Bia khoa thi Mậu Tuất [1598] có chiều cao 167cm, chiều rộng phần sát đế bia 118cm, độ dày của bia 23cm. Đế bia cao 35cm, rộng 114cm, dài 162cm. Trên bia có 46 dòng khắc 1207 chữ Hán... Đế bia được tạo hình rùa chạm khắc sơ sài rùa cổ rụt, đầu bằng ngang, hai mắt lồi và sống mũi được tạc rõ, đầu nhỏ. Mai rùa hơi cong, trên mai có khắc hình lục giác, có một gờ nhỏ ở giữa chạy suốt sống lưng, gáy khớp dày hẳn lên.

Tiêu đề của tấm bia khoa thi năm Mậu Tuất [1598] viết theo thể chữ triện, thường dùng trong ấn tín của triều đình và nghệ thuật thư pháp, có giá trị nghệ thuật cao được viết và khắc bởi nhóm: Trung thư giám Nguyễn Quang Đắc và Triện thích thái thừa Quế Lan nam Nguyễn Quang Độ.

 Hoa văn trang trí xung quanh diềm bia là hoa sen, hoa cúc, hoa trà, hoa mẫu đơn chạm trổ cầu kỳ, có điểm thêm lá và hoa rất hài hòa. Chân diềm bia chạm hình cánh sen đều liên tiếp thành hàng dài, trên cánh có trang trí thêm các đường chỉ mảnh theo hình cánh hoa làm tăng thêm tính thẩm mỹ. Chỉnh thể của hoa văn ở diềm, chân diềm và chữ triện ở trên bia tạo thành một tác phẩm nghệ thuật độc đáo mang tính thẩm mỹ cao giúp các nhà nghiên cứu có thêm tư liệu tìm hiểu sâu hơn về điêu khắc đá và mỹ thuật Việt Nam ở thế kỷ XVII.

Bài ký của tấm bia Tiến sĩ khoa thi năm Mậu Tuất [1598] đã chỉ rõ đây là khoa thi thứ 2 dưới thời Lê Trung hưng. Bia cũng ghi lại đầy đủ thành phần của ban giám khảo là các vị đại thần đầu triều như: Đề điệu là Thái úy Ngạn quận công Trịnh Đỗ, Tri cống cử là Ngự sử đài Đô Ngự sử Lê Trạc Tú, Giám thí là Lễ bộ Tả Thị lang Ngô Tháo, Đại lý tự khanh Trần Phúc Hựu là quan độc quyển. Hoàng thượng đích thân định thứ tự cao thấp. Nho sinh Nguyễn Duy Thì đã phải đem hết tài học sở trường của mình chứng minh trước ban giám khảo, những người lỗi lạc, uyên thâm cả về kiến thức và kinh nghiệm. Ông đã vượt qua rất nhiều thí sinh để là 1 trong 5 người có tên trên bảng vàng, bia đá của kỳ thi Đình năm Mậu Tuất [1598].

Những người cùng được khắc tên trên bia với Nguyễn Duy Thì gồm: Nguyễn Thứ: người xã Bột Thái, huyện Hoằng Hóa; Lê Bật Tứ: người xã Cổ Định, huyện Nông Cống; Nguyễn Khắc Khoan: người xã An Khang, huyện Yên Phong; Nguyễn Giới [Kiệm]: người xã Văn Lâm, huyện Nga Sơn.

Trong 5 vị Tiến sĩ khoa thi năm Mậu Tuất [1598] duy nhất Nguyễn Duy Thì sau này trở thành Tế tửu Quốc Tử Giám đúng như quan điểm của nhà nước đã nêu ở bài ký khoa thi này “chọn người tốt mà làm thầy” sau nhiều năm giữ chức Tư nghiệp đến năm Dương Hòa 6 [1640], ông giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám phụ trách việc đào tạo giáo dục nhân tài cho đất nước.

Bia  khoa thi năm Mậu Tuất [1598] dựng vào ngày 16 tháng 11 năm Thịnh Đức thứ nhất [1653] sau khi Nguyễn Duy Thì thi đỗ 55 năm và qua đời được 2 năm. Hàn lâm viện Hiệu thảo Trịnh Cao Đệ  là người soạn bài ký. Người nhuận lại bài ký là Lễ Bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Dương Trí Trạch. Họ là những người nổi tiếng văn hay chữ tốt, có uy tín và kinh nghiệm được triều đình giao cho trọng trách soạn văn ký, nhuận sắc bài ký trên bia Tiến sĩ để lưu danh muôn thủa.

Bia Tiến sĩ khoa thi năm Mậu Tuất [1598] là tấm bia ẩn chứa nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, giáo dục. Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Duy Thì khắc tên trên bia lưu danh muôn thuở, hậu thế nhìn vào ngưỡng vọng, công trạng của ông luôn được người đời sau ghi nhớ. Một người hết lòng vì dân vì nước như ông được các thế hệ người Việt Nam tri ân và tưởng nhớ.

Tấm bia khoa thi Mậu Tuất [1598] là một di sản tư liệu quý, tác phẩm nghệ thuật độc đáo của nền văn hóa dân tộc hiện còn được lưu giữ tại Khu di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội./.

Sưu tầm

Ngày nay, khi đến thăm khu di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám, du khách được chiêm ngưỡng khu vườn bia nơi lưu giữ 82 tấm bia Tiến sĩ. Bia Tiến sĩ được Vua Lê Thánh Tông [1442-1497] xuống chiếu cho dựng để tôn vinh những người đỗ đạt. Trên các tấm bia có khắc họ tên, quê quán của 1304 vị Tiến sĩ đỗ trong các khoa thi được tổ chức từ 1442 đến 1779 dưới triều Lê và triều Mạc. Năm 2011, bia Tiến sĩ đã được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu Thế giới.

Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, việc dạy và học Nho học ở nước ta bắt đầu từ triều Lý, phát triển qua các triều đại Trần, Hồ, đặc biệt phát triển dưới triều Lê, kết quả đã đào tạo ra hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Câu nói: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn” khắc trên tấm bia của khoa thi năm 1442 luôn được coi là kim chỉ nam cho giáo dục của nhiều triều đại. Không chỉ thể hiện đường lối trọng dụng nhân tài, nội dung những bài ký trên bia còn là những bài học răn dạy, nhắc nhở trách nhiệm của những người đỗ đạt đối với đất nước: “kẻ sĩ được khắc tên vào tấm đá này, thật may mắn biết bao! nên phải đem lòng trung nghĩa tự hẹn với mình, làm sao danh và thực hợp nhau ” [Văn bia khoa thi 1487]; và kẻ sĩ trên cơ sở đó “hãy làm mây lành sao tỏ nêu điểm tốt cho đời, làm ngọc sáng vàng ròng để làm kho báu cho nước” [Văn bia khoa thi 1514]; hoặc “thảng hoặc có kẻ mượn khoa danh để làm kế ấm no, mượn đường ấy để được giới sĩ hoạn kính trọng, người đời sau tất sẽ nhìn vào họ tên mà nói: kẻ kia là hạng tiểu nhân gian tà, làm xấu lây cho khoa mục” [Văn bia khoa thi 1577].

Ngoài ra, 82 tấm bia Tiến sĩ còn cho biết những thông tin rất cụ thể về các khoa thi, số lượng thí sinh, tên và quê quán người đỗ, tên các quan trông coi thi, chấm thi, ngày vào thi Đình, ngày yết bảng xướng danh…Căn cứ vào các thông tin đó, chúng ta có thể đánh giá về tình hình phát triển giáo dục triều Lê và triều Mạc.

Số liệu thí sinh tham dự các khoa thi Hội trung bình một năm hàng nghìn và gia tăng mạnh mẽ cho thấy sự quan tâm đến giáo dục của Nhà nước cũng như của xã hội. Nếu như trong khoa thi năm 1442 chỉ có 450 người dự thi thì khoa thi ngay năm sau đó [1448] đã có tới 750 thí sinh tham dự; đến khoa thi năm 1475 đạt con số về số lượng thí sinh là 3000 người và kỉ lục cao nhất là khoa thi năm 1640 với 6000 thí sinh tham dự.

Tuy nhiên, không vì số lượng thí sinh dự thi đông mà yêu cầu về chất lượng của thí sinh bị xem nhẹ. Cũng qua số liệu ghi trên bia Tiến sĩ cho biết: số lượng Tiến sĩ lấy đỗ trong một khoa thi nhiều nhất là 62 người [khoa thi 1478], và ít nhất có những khoa cả nước chỉ lấy đỗ có 3 người [khoa thi năm 1592, 1667].

Trên những tấm bia Tiến sĩ, truyền thống hiếu học còn được thể hiện qua những thông tin rất thú vị. Đó là sự xuất hiện của những làng khoa bảng, dòng họ Tiến sĩ hiển thị dưới danh sách của các Tiến sĩ đỗ đạt. Đơn cử, làng Mộ Trạch tỉnh Hải Dương có tới 25/36 vị Tiến sĩ có tên trên bia Tiến sĩ tại Văn Miếu. Các dòng họ nổi tiếng như dòng họ Ngô, họ Hà, họ Vũ... cũng có rất nhiều người đỗ Tiến sĩ, được ghi danh trên bia. Nhiều trường hợp cả cha con, anh em cùng được khắc tên lên bia [anh em Hà Sỹ Vọng, Hà Nhân Đại, cha con Ngô Thì Sỹ, Ngô Thì Nhậm...].

Trong số 1304 nhà khoa bảng được lưu danh trên bia Tiến sĩ, nhiều người sau này đã trở thành những nhà hoạt động chính trị xã hội, nhà văn hóa nổi tiếng có nhiều tác phẩm có giá trị để lại cho hậu thế như: Ngô Sỹ Liên, Lương Thế Vinh, Lê Quí Đôn, Ngô Thì Nhậm...Như vậy, 82 tấm bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám đó phản ánh sinh động lịch sử giáo dục của đất nước ta từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18. Đến tham quan vườn bia Tiến sĩ với 82 tấm bia đã được công nhận là Bảo vật quốc gia, chúng ta càng thêm tự hào về truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, tôn trọng nhân tài của cha ông ./.

N.H

Tháng 5-2011, UNESCO công nhận Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội là Di sản Tư liệu thế giới trong Danh mục ký ức thế giới toàn cầu. Ngày 14-1-2015, 82 bia Tiến sĩ được công nhận là Bảo vật Quốc gia.

Năm 1484 Hoàng đế Lê Thánh Tông [1460-1497] khởi xướng việc lập bia đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám thể hiện tinh thần đề cao Nho học, trọng hiền tài.

Khu vườn bia Tiến sĩ bên Tây

Hai bên giếng Thiên Quang là 82 tấm Bia Đề danh Tiến sĩ cho 82 khoa thi Tiến sĩ [từ năm 1442 đến năm 1779] đến nay vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn. Trên 82 tấm bia đề danh này khắc tên 1304 vị Tiến sĩ. Bia Tiến sĩ đã trở thành Di sản tư liệu thế giới bởi chứa đựng bề dày những giá trị văn hóa.

Tính nguyên vẹn và độc đáo

82 bia đá về các khoa thi Tiến sĩ [1442-1779] là những bản gốc duy nhất còn ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội. Trên bia lữu giữ những nét độc đáo về văn tự và nghệ thuật điêu khắc nguyên bản của thời kỳ tạo dựng bia. Đây là những bằng chứng có giá trị về văn bản học khi nghiên cứu mối tương quan đồng đại và lịch đại của lịch sử văn hoá Việt Nam. 82 bia đá về các khoa thi Tiến sĩ trong hơn 300 năm [1442 - 1779] là những trang sử đá về lịch sử văn hoá - giáo dục Việt Nam đến nay vẫn còn được bảo quản khá nguyên vẹn.

82 bia đá là nguồn sử liệu vô cùng quý giá giúp chúng ta nghiên cứu về con người và sự nghiệp của nhiều danh nhân văn hoá Việt Nam, góp phần bổ sung cho thư tịch đăng khoa lục viết bằng chữ Hán của Việt Nam. Tên một số danh nhân trên bia như: Nguyễn Trãi [với tư cách là quan chấm thi [độc quyển] được ghi trong bia khoa thi năm 1442, khắc năm 1448]. Tên của những người thi đỗ trở thành những nhân vật tiêu biểu như: Nguyễn Trực, Ngô Sĩ Liên, Lương Thế Vinh, Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Bá Lân, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm…

Giá trị tư liệu phong phú

Nội dung 82 văn bia được các nhà khoa học Việt Nam quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau: lịch sử, văn hoá, giáo dục, triết học, pháp luật, ngôn ngữ văn tự đương thời…

Nội dung bi ký khẳng định vai trò của Nho giáo trong đời sống tư tưởng, chính trị của nhân dân. 82 bài văn bia tập trung ca ngợi vai trò của nho giáo trong đời sống chính trị xã hội, ca ngợi chế độ quân chủ tập quyền và đề cao nhà vua. Chế độ đương thời trọng dụng nhân tài, coi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, là nguồn gốc sự hưng thịnh của đất nước. Trên tấm bia đầu tiên được khắc cho khoa thi Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 [1442], Đại học sỹ Thân Nhân Trung đã viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu  mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia là công việc trước nhất”. Quan điểm này luôn được nhắc đi nhắc lại trong 81 bài văn bia còn lại.

Bia Tiến sĩ còn là những tư liệu rất có giá trị góp phần nghiên cứu lịch sử khoa cử Việt Nam, như: Chế độ thi cử, có quy định niên khoá thi [cứ 3 năm thi Tiến sĩ 1 lần. Tên gọi các khoa thi [Hội, Đình]. Cách gọi các thứ bậc những người đỗ Tiến sĩ được quy định rõ ràng [trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoá, hoàng giáp, tiến sĩ].

Khối di sản 82 bia Tiến sĩ dựng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội còn cho chúng ta hiểu được một vấn đề quan trọng khác là ý nghĩa giáo dục nhân cách con người, thông qua việc lập bia và khắc đá đề tên, nhắc nhở những người thi đỗ Tiến sĩ phải sống sao có ích với xã tắc, làm sao cho xứng danh kẻ sỹ, thì được hưởng ơn vua lộc nước, khi được người dân kì vọng.

82 bia đá đều được khắc bằng chữ Hán. Đây là những mẫu tự quan trọng, giúp cho việc nghiên cứu lịch sử phát triển chữ Hán từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII tại Việt Nam. Hàng chữ khắc niên đại tổ chức khoa thi của văn bia theo lối viết chữ Triện thư, một thể chữ của Trung Quốc hình thành thời Chiến Quốc [480 - 221 TCN] và ngày nay ít được sử dụng. Với 82 bia đá Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám có thể coi là những tư liệu nguyên bản, phản ánh truyền thống sáng tạo về Thư pháp học ở Việt Nam. Bia Đề danh Tiến sĩ bi kí ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám có niên đại sớm nhất Việt Nam của thể loại này.

Đa dạng hình thức và phong cách

82 Bia đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám được dựng trong 3 giai đoạn với 3 phong cách chính rõ nét của các thời Lê sơ, Mạc, Lê Trung Hưng.

Bia loại 1 có 14 tấm [từ khoa thi 1442 - 1529] có giá trị nghệ thuật lớn và đã xác lập vững chắc cho đời sau: hình ảnh “rùa đội bia Tiến sĩ”. Trán bia bé hẹp, phần đế [rùa] và phần thân hài hòa. Rùa được tạo tác tinh tế, dáng vẻ mềm mại, khoan hòa, trang nghiêm thể hiện cốt cách của kẻ sĩ. Trên bia của giai đoạn này chưa xuất hiện hình ảnh rồng.

Hàng chữ Triện dưới trán bia khắc chữ "Bia đề danh Tiến sĩ  khoa Kỷ Sửu niên hiệu Quang Hưng 12" [năm1589]

Bia loại 2 có 25 tấm bia [từ khoa thi 1554 đến khoa thi 1652]. Bia giai đoạn này cho thấy kĩ nghệ chạm khắc đạt đỉnh cao. Nét độc đáo của họa tiết trang trí càng tôn cao ẩn ý sâu xa cho từng bài ký răn dạy. Giai đoạn này cũng là giai đoạn bùng nổ các đồ án trang trí, xuất hiện hình ảnh của rồng uy nghi và trang trọng, cùng các linh vật như Nghê, Kì lân, Phượng… cùng với đó là các đề tài trang trí dân gian, muông thú, chim chóc, con người; hoa lá xuất hiện đa dạng hơn với tùng, mai, cúc, trúc, lan, lựu v.v.

Bia loại 3 gồm 43 tấm dựng năm 1713 đến năm 1780, trong đó có 21 tấm được dựng năm 1717 [từ khoa thi 1656 - 1715]. Bia giai đoạn này khá to lớn. Ở giai đoạn này bia được chú trọng chạm khắc phần chữ sao cho rõ nét, đẹp mắt. Phần trán bia, diềm bia, rùa cũng không còn là ưu điểm nổi trội. Rồng nguyên thể và các loại linh thú khác tuyệt nhiên không còn xuất hiện trong gia đoạn này.                                              

Rùa đội bia Tiến sĩ khoa thi năm 1448

Bia ghi danh tiến sĩ được dựng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám là nơi linh thiêng, cổ kính, ghi dấu nhiều sự kiện chính trị, văn hoá khoa học. Chính sách phát triển giáo dục, trọng dụng nhân tài, đào tạo nguồn lực cho đất nước là một chính sách quan trọng đối với bất kỳ thời đại nào để xây dựng và phát triển quốc gia cường thịnh - có thể đọc / và học được điều đó qua 82 tấm bia Di sản tư liệu thế giới ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội./.

                                                                                                          Anh Vân

82 bia Tiến sĩ là những di vật giá trị bậc nhất của di tích Văn Miếu- Quốc Tử Giám, niềm tự hào của nền văn hóa giáo dục dân tộc đã tạo nên và lưu giữ được một pho “sử đá” có giá trị về nhiều mặt.

Vuon bia bên đông

1.       Giá trị lịch sử

Nội dung những bài văn bia do phải tuân theo khuôn khổ, nội dung nhất định nên không tránh khỏi nhiều đoạn trùng lặp. Nhưng qua pho “sử đá” đồ sộ đó có thể thấy được quan điểm về giáo dục thời phong kiến được nói đến nhiều lần trong mục đích dựng bia đồng thời cho biết sự “náo nhiệt” của không khí học hành thi cử, họ tên của các bậc danh nho và các địa phương, các dòng họ có truyền thống khoa bảng.

Bia Tiến sĩ cho biết số người dự thi. Khoa 1442 có 450 người, khoa 1448 có 750 người, khoa 1463 có 1400 người, khoa 1466 có 1100 người, 1475 có 3000 người, khoa 1481 có 2000 người, khoa 1514 có 5700 người, khoa 1640 có 6000 người dự thi… Qua đó có thể thấy được số người đi học đậu thi Hương để vào thi Hội, thi Đình đông đến mức nào và cũng chứng tỏ việc học hành giáo dục của thời Lê phát triển rất cao.

Nhưng chẳng ai đi thi đều đỗ và đỗ cao cả. Với số lượng thí sinh đông như vậy mà có khoa thi chỉ lấy đỗ có 3 người [khoa Đinh Mùi niên hiệu Cảnh Trị 2 - 1667] và nhiều nhất là 62 người [khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9 – 1478].

 Các vị tân khoa sau khi thi đỗ được ban hưởng mọi ân huệ của nhà vua, nào mũ áo cân đai triều phục, nào ngựa quý cờ quạt nghi trượng phường trống vinh quy bái tổ, bổ dụng quan chức trong triều ngoài phủ…ngần ấy thứ vẫn chưa đủ, lại còn khắc đá đề tên đặt nơi cửa hiền tài khiến cho kẻ sĩ phu trông vào mà sinh lòng hâm mộ phấn chấn, tự biết rèn luyện lấy danh tiết. Người được khắc tên lên bia đá đầu tiên là Trạng nguyên Nguyễn Trực người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai [nay thuộc thôn Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây] đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo 3 [1442] đời Lê Thái Tông, làm quan chức Thủ trung thư lệnh, Tri tam quán sự, đại liên ban đặc thụ, Hàn lâm viện Thừa chỉ kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám, từng đi sứ nhà Minh. Ông là văn thần được Lê Thánh Tông rất kính trọng, thơ văn của ông sáng tác phần nhiều đều cho đưa đến để ông nhận xét, bình luận. Tác phẩm Bối Khê thi tập hiện chỉ còn 6 bài thơ chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục. Người cuối cùng được ghi tên lên bia đá là Tiến sĩ Phan Huy Ôn người xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An [nay thuộc tỉnh Nghệ An] khoa thi Kỷ Hợi [1779] và cũng là khoa thi cuối cùng được dựng bia tại Văn Miếu- Quốc Tử Giám, Hà Nội.

Qua văn bia còn có tìm thấy tên họ của nhiều vị đã từng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các sách sử Việt Nam đồng thời cũng là những người có công lao lớn đối với nước với dân như Nhà sử học Ngô Sĩ Liên, Tiến sĩ năm 1442, người xã Chúc Sơn, huyện Chương Đức [nay thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây] đã soạn bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư gồm 15 bộ. Hoàn chỉnh bộ sách này là nhà bác học Lê Quý Đôn người xã Diên Hà, huyện Diên Hà, tỉnh Thái Bình, đậu Bảng nhãn khoa thi 1752. Ông viết rất nhiều tác phẩm như: Đại Việt thông sử, Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục, Vân đài loại ngữ… bao gồm các mặt chính trị, triết học, quân sự, kinh tế, xã hội, lịch sử, thơ ca.. Ông là một nhà học thuật tài năng lỗi lạc. Ngô Thì Nhậm, người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội, đỗ Tiến sĩ khoa 1775, là nhà chính trị, ngoại giao lỗi lạc, đã giúp vua Quang Trung - Nguyễn Huệ chiến thắng quân Thanh trong trận Ngọc Hồi - Đống Đa lừng danh trong lịch sử. Ông là con của Ngô Thì Sĩ đỗ Hoàng giáp khoa thi năm 1766, cha con cùng đỗ đạt và làm quan một triều.

Truyền thống hiếu học còn thể hiện ở dòng họ khoa bảng, một xã một huyện có nhiều người đỗ đạt cùng được khắc tên, quê quán trên bia Tiến sĩ.

Nói đến truyền thống hiếu học khoa bảng phải nhắc đến Kinh Bắc. Với một vùng đất màu mỡ có sông Đuống, sông Cầu…chảy qua, bên cạnh những làn điệu quan họ, tranh vẽ Đông Hồ… là danh sách của hơn 430 vị đỗ đại khoa gồm có 15 Trạng nguyên, trong đó có Lê Văn Thịnh người làng Đông Cứu, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh], 15 Bảng nhãn, 19 Thám hoa, 90 Hoàng giáp và 291 Tiến sĩ, 10 Phó bảng, 98 vị được ghi tên lên bia đá dựng tại khu di tích Văn Miếu- Quốc Tử Giám.

Xã Mộ Trạch, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương cũng nổi tiếng khoa bảng, có 30 Tiến sĩ. Dòng họ Thân Nhân Trung ở xã Yên Ninh, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang mấy đời liền đỗ đại khoa, đều cùng làm quan một triều. Thân Nhân Trung đỗ Tiến sĩ năm 1469, làm quan Lại bộ Thượng thư Chưởng Hàn lâm viện kiêm Đông các Đại học sĩ, con là Nhân Vũ, Tiến sĩ năm 1481, và Nhân Tín, Tiến sĩ năm 1490, cháu ông là Thân Cảnh Vân, Thám hoa năm 1487.

Dòng họ Ngô xã Vọng Nguyệt, huyện Yên Phong 5 đời liền đỗ đại khoa: Ngô Nhân Triệt đỗ Tiến sĩ năm 1608 là cháu của Ngô Ngọc [Hoàng giáp 1487] và Ngô Hải [Hoàng giáp 1508] là con của Ngô Trừng [Hoàng giáp 1508], là cha của Nhân Tuấn [Tiến sĩ 1640].

Dòng họ Nguyễn xã Vân Điềm, huyện Đông Ngàn có Nguyễn Thực đỗ Hoàng giáp 1595 làm quan Tán trị công thần Tham tụng Lại Bộ thượng thư Chưởng Hàn lâm viện sự kiêm Đông các Đại học sĩ, tước Lan quận công, là cha của Nguyễn Nghi [Tiến sĩ 1620], tằng tổ của Nguyễn Khuê, Nguyễn Sĩ [Tiến sĩ 1670], cao cao tổ của Nguyễn Thẩm [Tiến sĩ 1760] và Nguyễn Thưởng [Tiến sĩ 1754].

Những dòng họ, xã có nhiều vị đỗ đạt cao đã tạo nên truyền thống hiếu học của địa phương.

2. Giá trị mỹ thuật của bia Tiến sĩ

82 tấm bia Tiến sĩ là 82 phong cách điêu khắc, nhưng có thể chia làm 3 loại theo thời gian dựng bia và đặc trưng nghệ thuật của bia:

Loại I: Gồm các bia dựng từ năm Hồng Đức thứ 15 [1484] đến năm Đại Chính thứ 7 [1536]

Loại II: Gồm các bia dựng cùng một năm Thịnh Đức thứ nhất [1653]

Loại III: Gồm các bia dựng từ năm Vĩnh Thịnh thứ 3 [1717] đến năm Cảnh Hưng thứ 41 [1780]

Theo nhiều nhà nghiên cứu đánh giá trong số 82 bia còn lại đến nay, có 25 bia loại II là những bia có nghệ thuật trang trí tiêu biểu, là những sản phẩm văn hóa quý giá nhất trong kho tàng sản phẩm văn hóa còn lại ngày nay ở Văn Miếu Hà Nội

Trán, diềm bia khoa thi 1589

a] Về hình dáng bia: Loại II đều cao to hơn loại I, thường cao từ 155cm đến  170cm, rộng từ 110cm đến 125cm và dày từ 20cm đến 30cm. Hình dáng của trán bia cong vút lên gần với hình bán nguyệt chứ không thấp bé như loại trước nữa.

b] Về nghệ thuật tạo rùa: Ở bia loại I thời Hồng Đức được thể hiện bằng những khối tròn, trơn nhẵn, đường nét tinh tế. Nhưng rùa loại II lại chỉ phác họa bằng những khối vuông, góc cạnh, đường nét đơn giản, dứt khoát. Rùa ở loại II cổ rụt, đầu chếch hoặc bằng ngang, mặt bẹt, sống mũi nở cao, thẳng, mắt tròn, nhỏ, lồi và sát gần nhau, hai hốc mày và toàn bộ trán đều nổi cao gắn liền với sống mũi, tạo nên một đường gần giống với chữ T; miệng rộng cong hình cung, không có răng nanh, mai cong đều có một gờ nhỏ ở giữa chạy giữa suốt sống lưng, vai rùa không rằn xuống mà gần như vuông hẳn lại, gáy có khớp dày và chân tạc sơ sài.

c] Về nghệ thuật trang trí trên bia: Trước hết hãy xem xét việc trang trí trên các trán bia, nơi vốn được coi là chỗ trang trọng nhất của một tấm bia. Ở đây chủ yếu đều chọn đề tài hai rồng chầu mặt nguyệt. Cách bố cục mang nhiều nét đẹp của loại đề tài này là cách bố cục hình rồng uốn khúc từ trên vòng xuống, đầu quay ngẩng lên trong tư thế rất khỏe. Đầu rổng ngẩng cao, mặt nghiêm chỉnh hướng về phía các viên ngọc đang bay lơ lửng trong viền mây lửa của mặt nguyệt. Thân rồng cuộn khúc vòng ngược trở lên, đuôi lượn sóng chạy song song với diềm bia. Hình rồng ở đây có dáng mập, thân nổi lên cuồn cuộn với những hình khối tròn, chắc nịnh và đường chạm sâu. Đặc điểm của hình rồng này là : Đầu to, trán tròn, mũi cũng rất to và phồng cao, mồm rộng có răng nhọn và đặc biệt có răng nanh mọc dài ra ngoài, mắt nhỏ có viền lông mày hình mây lửa, hai râu chảy từ mắt xuống vòng dài ra phía sau, gáy có bờm ngắn và trên đó là đôi sừng nhỏ, toàn thân có vảy, được viền bằng một lớp vây sắc, càng về cuối càng to. Đây là một loại rồng mang nhiều đặc trưng của những hình rồng đầu thế kỷ 17 nói chung.

Diềm bia

Một thể loại khác là trán bia có hình phượng chầu mặt nguyệt. Hai bên mặt nguyệt là hai hình chim phượng to lớn xòe rộng cánh trong tư thế đang bay.

Nghệ thuật chạm khắc trên các bia loại II nhìn chung đã đạt đến một trình độ tinh xảo. Về bố cục điểm chung là tính cân xứng đăng đối. Tính sinh động đa dạng của bố cục cũng là một đặc điểm nổi bật trên các trang trí của diềm bia. Nghệ nhân không chịu gò bó trong một vài hình mẫu khác biệt nhau.

Từ năm 1442 đến năm 1787 dưới triều Lê đã tổ chức được 124 khoa thi Tiến sĩ. Nhưng hiện nay ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám chỉ có lưu giữ 82 tấm bia được xếp thành 2 khu vực Đông, Tây bên giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 bia dựng thành 2 hàng. Cách sắp xếp bia không theo thứ tự thời gian, triều đại, hoặc kích cỡ lớn nhỏ mà đan xen lẫn nhau. Nhà che bia lúc đầu đã có và được tu sửa nhiều lần nhưng đến cuối thế kỷ XVIII bị tàn phá hết. Đến năm 1994 mới được làm lại.

Nhà bia Tiến sĩ bên Tây

Về chủ trương, bia được dựng sau mỗi kỳ thi nhưng không mấy khi được dựng ngay mà làm tập trung vào từng đợt.

- Đợt 1: Năm 1484 dựng 10 bia cho các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1484.

- Đợt 2: Năm 1653 dựng 25 bia cho các khoa từ năm 1554 đến năm 1652.

- Đợt 3: Năm 1717 dựng 21 bia cho các khoa từ năm 1656 đến năm 1712.

Còn 26 bia được dựng ngay sau các khoa thi.

Lễ dựng bia Tiến sĩ đầu tiên được tổ chức trọng thể ngày rằm tháng Tám, năm Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức 15[đời Lê Thánh Tông] được ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư: “ Vua cho là từ năm Đại Bảo thứ 3 triều Thái Tông [năm sinh vua Lê Thánh Tông] đến giờ việc dựng bia đề tên Tiến sĩ các khoa vẫn chưa làm được, sai Lễ bộ Thượng thư Quách Đình Bảo biên rõ họ tên, thứ bậc các Tiến sĩ từ khoa Nhâm Tuất Đại Bảo thứ 3, khoa Mậu Thìn năm Thái Hòa thứ 6, khoa Quý Mùi năm Quang Thuận thứ 4, khoa Bính Tuất năm thứ 7, khoa Kỷ Sửu năm thứ 10, khoa Mậu Thìn năm Hồng Đức thứ 3, khoa Ất Mùi năm thứ 6, khoa Mậu Tuất năm thứ 9, khoa Tân Sửu năm thứ 12, khoa Giáp Thìn năm nay [1484] khắc vào đá”.

Bia Tiến sĩ

Khu vườn bia Tiến sĩ 

Theo sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776 thì lúc đó có 124 khoa thi Tiến sĩ nhưng nay chỉ còn 82 bia. Như vậy 42 khoa thi có bao nhiêu khoa không được dựng bia, bao nhiêu khoa có dựng nhưng đã mất?

Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì 9 khoa thi những năm 1469, 1472, 1484,  1490,1493, 1499, 1505, 1508 và 1634 đều được dựng bia nhưng nay không thấy có.

Di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám hiện nay còn lưu giữ được 82 tấm bia Tiến sĩ, trên đó khắc ghi họ tên và quê quán của 1307 lượt người  đỗ của 82 khoa thi được tổ chức dưới triều Lê- Mạc [1442-1779]. Bia Tiến sĩ được khởi dựng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám vào năm 1484 dưới triều vua Lê Thánh Tông [1460-1497].

Sự kiện này được Đại Việt sử ký toàn thư chép như sau: "Năm Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 [1484]... Mùa thu, tháng 8, ngày 15, dựng bia có bài ký ghi tên các Tiến sĩ từ khoa NhâmTuất năm Đại Bảo thứ 3 [1442] đời vua Thái Tông triều ta đến nay…". Đây là sự kiện đặc biệt, tạo thêm giá trị tinh thần lớn lao cho Văn Miếu - Quốc Tử Giám.

82 tấm bia hiện còn tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám được dựng trong thời gian gần 300 năm, từ 1484 đến 1780. Mỗi tấm bia được dựng cho một khoa thi. Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – QuốcTử Giám được dựng trong nhiều đợt khác nhau. Năm 1484, vua Lê Thánh Tông cho dựng cho 10 tấm bia các khoa thi tiến sĩ được tổ chức từ 1442 đến 1484. Hiện chỉ còn 7 bia. Sau đó từ 1487 đến năm 1529 có 5 tấm bia được dựng vào các năm1487, 1496, 1513, 1521, 1529 và 2 tấm bia được dựng vào năm 1536 thuộc triều Mạc. Đợt dựng bia nhiều nhất vào năm 1653, với 25 tấm bia được dựng cho các khoa thi từ năm 1554 đến 1653. Đợt dựng bia thứ 3 vào năm 1717 với 21 bia cho các khoa thi được  tổ chức từ năm 1656 đến 1717. 22 tấm bia còn lại được dựng trong thời gian từ năm 1721 đến 1780. Tấm bia cuối cùng được dựng vào năm 1780 cho khoa thi năm 1779.

Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám do các nghệ nhân, nhà khoa bảng nổi tiếng đương thời tạo tác. Tất cả 82 bia Tiến sĩ hiện còn ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám đều được chế tác theo cùng một phong cách, thuộc loại bia dẹt, gồm 2 phần: Bia và đế bia.

+ Bia: Được chia làm 2 phần chính gồm:

- Trán bia: Trán bia hình vòm, khắc các họa tiết trang trí, bờ mi trán bia có tiêu đề bia, thường viết theo lối chữ triện.

- Thân bia: Thân bia bình chữ nhật, hai bên diềm bia và chân bia trang trí hoa văn, lòng bia khắc bài văn bia bằng chữ Hán cổ gồm bài ký, danh sách các vị đỗ Tiến sĩ, cuối cùng là họ tên, chức vụ của người soạn văn bia, người nhuận sắc, người viết chữ, năm dựng bia.

+ Đế bia: Đế bia được tạo dáng hình rùa với những đặc điểm nghệ thuật trang trí khác nhau. Đế bia hình rùa thể hiện sự trường tồn, bền vững của hiền tài, giáo dục và của bia Tiến sĩ.

Bia có kích thước to nhỏ khác nhau. Những bia được dựng cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI có kích thước nhỏ bé, càng về sau kích thước bia càng lớn. Hình thức trang trí phong phú trải qua các giai đoạn phát triển gần 300 năm. Tấm bia lớn nhất cao 1,75m [chưa kể đế bia] rộng 1,3m, còn tấm bia nhỏ nhất cao 1,1m, rộng 0,7m,độ dày của bia trung bình là 0,25m. Hình trang trí trên bia cũng vậy. Giai đoạn thế kỷ XV-XVI, hình trang trí đơn giản, nghèo nàn, trán bia chỉ có hình mặt trời, mây xoắn. Diềm bia chủ yếu trang trí hoa dây. Sang thế kỷ XVII-XVIII,hình trang trí trên bia rất phong phú. Trán bia trang trí các hình rồng, phượng, mặt nguyệt. Diềm bia trang trí các hình hoa lá, hình người, thú, chim hết sức sinh động.

Trang trí trên bia đa dạng, phản ánh sự phát triển hình tượng nghệ thuật theo thời gian. Mỗi tấm bialà một tác phẩm nghệ thuật độc đáo bởi chúng là kết tinh trí tuệ, bàn tay khéoléo của những nhà văn hoá, thư pháp, nghệ nhân hàng đầu Việt Nam qua các thời kỳ và được làm hoàn toàn thủ công.

Giá trị đặc biệt của biaTiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám chính là bài văn bia bằng chữ Hán. Nội dungvăn bia ghi về khoa thi Tiến sĩ được dựng bia. Mỗi bài văn bia thường có 2 phần: phần ký và phần ghi danh sách những người  đỗ của khoa thi theo thứ tự từ cao đến thấp: Đệ nhất giáp, đệ nhị giáp, đệ tam giáp... Phần ký của văn bia cung cấp nhiều thông tin quan trọng về lịch sử của nền giáo dục, thi cử nước nhà và quan điểm của nhà nước về đào tạo và sử dụng nhân tài. Tư tưởng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” đã được thể hiện rõ trong nội dung các bài văn bia với ý nghĩa:

-Vạch ra được lối chiến lược cho các nhà cầm quyền [xưa và nay] trong quản lý và xây dựng đất nước là phải coi trọng nhân tài.

-Xác định và định hướng rõ trách nhiệm của các nhà trí thức đối với đất nước, đó là: Đem tài năng ra phục vụ đất nước, đào tạo đội ngũ nhân tài kế tiếp cho đất nước.

Những bài ký trên bia là kết tinh trí tuệ của nhiều thế hệ trí thức, là kinh nghiệm về đạo làm người ,đạo trị quốc của dân tộc Việt Nam. Hơn thế, văn bia còn cho chúng ta biết những bài học vô giá về đạo trị quốc, xây dựng và phát triển đất nước luôn phải quan tâm, đào tạo nhân tài. Ngay từ bài ký soạn cho khoa thi đầu tiên được dựng bia, khoa thi năm Đại Bảo 3 [1442], Hàn lâm viện Thừa chỉ, Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung đã khẳng định: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, hoặc “Sự lớn lao của nền chính trị bậc đế vương không gì quan trọng bằng việc trọng dụng nhân tài…”. [Bài ký khoa thi năm 1448]. Trải qua thời gian, đường lối trị quốc dựa vào nhân tài luôn được khẳng định, và luôn đúng. Lễ bộ thương thư Đông các đại học sĩ kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu Lê Tung trong bài ký soạn cho khoa thi năm Hồng Thuận thứ 3[1511] viết: “Vua nào muốn có trị bình, ắt phải coi việc dùng hiền kén sĩ làm việc đầu tiên”; “Đạo trị nước không gì quan trọng hơn nhân tài”. Ngay cả vào giai đoạn cuối của triều Lê Trung hưng, vai trò của nhân tài vẫn được nhắc đến “Nhân tài chính là cây trăn, cây hộ của nước nhà vậy” [bài ký khoa thi năm 1763].

Vai trò của hiền tài đối với quốc gia được khẳng định, nhắc đi nhắc lại trong hầu hết các bài ký, chothấy đây là một quốc sách, là điểm cốt lõi trong đạo trị quốc. Đây chính là bài học quý cho đương thời và hậu thế.

Để có được nhân tài thì phải chăm lo, gây dựng nhân tài. Cách thức gây dựng, thu hút nhân tài cũng được các bài ký chỉ ra, để từ đó làm cho đất nước hưng vượng.

Trước hết, để đào tạo nhân tài, thì nhà nước phải tạo điều kiện tốt cho việc dạy và học, cụ thể là phải xây dựng trường học, chọn thầy giỏi, tìm nhiều cách động viên khích lệ học trò: “Xuống chiếu cho các nơi trong nước dựng nhà học để bồi dưỡng nhân tài. Tại kinh đô có Quốc Tử Giám, ngoài phủ có học đường.. đặt thầy dạy dỗ, in kinh sách ban phát…”

Tuy nhiên, để có được hiền, tài thực, thì nhà nước phải tổ chức các khoa thi đích thực, những người  thi đỗ được trọng dụng, được vinh danh: “Nghĩ việc đặt khoa thi kén chọn kẽ sĩ là chính sự cần trước nhất…” [Bài ký bia Tiến sĩ khoa thi năm1442]; Cách thức này thường xuyên được nhắc đi nhắc lại, đến nỗi có thể coi như là điều hiển nhiên, phải làm. Có đến 60/82 bài ký nói đến điều này: “Nhân tài cao thấp cốt do nơi khoa mục” hoặc“chọn kẻ sĩ phải do con đường khoa mục..” [Bài ký khoa thi năm 1703]; “Nuôi dưỡng nhân tài ở trường học, dùng khoa mục để kén chọn kẻ sĩ…” [Bài ký khoa thi năm 1772]

Cách thức vinh danh,khuyến khích sĩ tử “sôi kinh nấu sử” để trở thành nhân tài rất đa dạng, là gợi ý, bài học của người  trước cho người sau trong trị quốc, dùng người  như miễn phu phen, lao dịch cho người  có thành tích trong học tập, thi cử; ghi tên Bảng vàng treo cổng kinh thành, cửa nhà Thái học, bổ nhiệm trọng trách, ban mũ áo, ghi tên vào sách đăng khoa lục…“Cốt để cho bọn cài hốt bên lưng, ra vào nơi cung điện, mắt nhìn,miệng đọc, bồi hồi, ngóng trông, kính mến mà ao ước. Đó là bộ máy để kích động lòng người  và là một việc hay có ý nghĩa trọng đạo của đời thịnh đối với nền chính trị và phong hoá quan hệ rất lớn ” [Văn bia Bia Tiến sĩ khoa thi năm1481].

Những bài ký trên bia cònchỉ ra những bài học, cách thức tu dưỡng để trở thành những con người  có ích cho quê hương, đất nước. Lẽ thường, khi đạt được mục đích, được vinh danh, người  ta thường sao nhãng việc rèn luyện, tu dưỡng;khi đã ở ngôi cao thường sinh lòng kiêu hoặc coi thường ngừời dưới. Thực tế, có người  đã mất hết ý chí phấn đấu, thậm chí sa ngã, đánh mất mình, đến khi sực tỉnh thì đã quá muộn. Những bài ký trên bia là những tâm sự, những lời khuyên, thậm chí cảnh báo rất kịp thời với nhữngngười  đang sống, và với thế hệ tiếp theo. Trước hết, dù đã thành đạt, đã được đề cao vẫn “phải trọng thân danh mình mà lo báo đáp”, phải làm việc sao cho đúng với sự đề cao, danh hiệu đó, để “danh đứng với thực”. Muốn làm được điều đó, người  làm quan phải tận tâm, tận lực lo cho dân, cho nước, phải biết “dâng mưu hay”, phải biết khẳng khái khuyên can việc tốt, “phải gắng rèn mài liêm cần, trau dồi tiết hạnh, cứng rắn như vàng ngọc,…làm việc phải đồng tâm hiệp lực, thờ vua thì phải giữ gìn chính đạo, …” [Văn bia khoa thi năm 1706];

Những lời khuyên về lối sống, tu dưỡng rất cụ thể, chân thành, bởi đó chính là kết tinh, trải nghiệmcủa người i viết, là tâm huyết đối với hậu thế, với giang sơn đất nước: “Theo hầu trong cung phải giúp đức cho vua, giúp ơn cho dân; trấn nhậm một phương phải làm bình phong phên dậu. Người giữ chức cao phải đem khả năng bàn nói để hết chức phận can gián của mình…” [Văn bia khoa thi năm 1691], “tuổi già tiết cứng, nêu gương cho phường hậu tiến, hun đúc nên tập tục trung tín liêm sĩ, chớ cậy may mắn lợi dụng vơ vét” [Văn bia khoa thi năm 1760].

Những bài học, kinh nghiệm sống cha ông, của thế hệ trí dũng, tài đức lưu lại trên đá được kiểm nghiệm, minh chứng qua thời gian, Những bài học đó vô cùng quý cho mọi thời đại, đặc biệt là hiện nay, khi đất nước đang trong thời kỳ thay đổi lớn trên mọi mặt, và nền giáo dục đang trải qua nhiều cải cách, thử nghiệm. Trong mọi hoàn cảnh, để phát triển bền vững đất nước, điều quan trọng nhất vẫn là đào tạo, bồi dưỡng được những con người  thực sự “hiền”, “tài”, những người  không chỉ lo cho thế hệ mình, mà còn nghĩ đến thế hệ sau, tương lai của đất nước.

Việc dựng bia Tiến sĩ đã tác động to lớn đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo nhân tài của đất nước. BiaTiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám còn có tác động xã hội to lớn đối với người  đương thời và hậu thế. Được ghi tên trên bia là niềm khích lệ lớn trong việc học tập, rèn luyện để trở thành người  có ích cho đất nước và xã hội. Bia Tiến sĩ cùng là biểu tượng và niềm tự hào của sự thành đạt và trí tuệ.

Ngày nay bia Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn có sức hút mạnh mẽ đối với các học giả, du khách,chính khách trong và ngoài nước. Rất nhiều nguyên thủ quốc gia, chính kháchquan trọng của các nước trên thế giới đã đến đây và đánh giá cao giá trị và ý nghĩa của những tấm bia Tiến sĩ.

Tháng 3 năm 2010, Uỷ ban Ký ức thế giới Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã công nhận bia Tiến sĩ là Di sản tư liệu - Ký ức thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, và tháng 5 năm 2011, Tổng giám đốc UNESCO đã công nhận 82 bia Tiến sĩ là Di sản tư liệu và ghi vào danh mục Ký ức thế giới toàn cầu. Ngày 14 tháng 1 năm 2015, Thủ tướng chínhphủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã công nhận 82 bia Tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám là Bảo vật quốc gia. Đây chính là sự đánh giá, công nhận giá trị đặc biệt của bia Tiến sĩ tại Văn Miếu- Quốc Tử Giám đối với nền văn hóa, giáo dục của dân tộc Việt Nam nói riêng, của toàn nhân loại nói chung./.

Một số hình ảnh:

Video liên quan

Chủ Đề