Khiến vì sao trở nên kém lung ling

Năm 2006, một phân tích gộp [từ Vương quốc Anh] về trẻ em và thanh thiếu niên đang được điều trị trầm cảm [3 Tài liệu tham khảo Rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi nỗi buồn hoặc khó chịu nghiêm trọng hoặc dai dẳng, đủ để ảnh hưởng đến chức năng hoặc gây ra phiền toái đáng kể. Chẩn đoán dựa vào bệnh sử và thăm khám.... đọc thêm ] thấy rằng so với bệnh nhân dùng giả dược, những người dùng thuốc chống trầm cảm có một sự gia tăng nhỏ trong tự gây tổn thương hoặc các sự kiện liên quan đến tự tử [4,8% so với 3,0% những người được điều trị bằng giả dược]. Tuy nhiên, liệu sự khác biệt có ý nghĩa thống kê hay không khác nhau tùy thuộc vào loại phân tích [phân tích tác động cố định hoặc phân tích tác động ngẫu nhiên]. Có xu hướng không đáng kể trong việc tăng ý tưởng tự sát [1,2% so với 0,8%], tự gây tổn thương [3,3% so với 2,6%] và tự sát [1,9% so với 1,2%]. Có vẻ như đã có một số khác biệt về nguy cơ giữa các loại thuốc khác nhau; tuy nhiên, không có nghiên cứu đối chứng trực tiếp nào được thực hiện, và rất khó để kiểm soát mức độ trầm cảm và các yếu tố nguy cơ gây nhiễu khác.

Nói chung, mặc dù các thuốc chống trầm cảm có hiệu quả hạn chế ở trẻ em và vị thành niên, nhưng lợi ích có vẻ vượt trội hơn các nguy cơ. Cách tiếp cận tốt nhất dường như kết hợp điều trị bằng thuốc với liệu pháp tâm lý và giảm thiểu rủi ro bằng cách theo dõi chặt chẽ việc điều trị.

Cho dù sử dụng thuốc hay không, tự tử luôn là mối quan tâm của trẻ em hoặc thanh thiếu niên bị trầm cảm. Cần làm những điều dưới đây để giảm rủi ro:

  • Các bậc cha mẹ và những người hành nghề chăm sóc sức khoẻ tâm thần nên thảo luận kỹ những vấn đề này một cách sâu sắc.

  • Trẻ hay vị thành niên nên được giám sát ở mức thích hợp.

  • Trị liệu tâm lý với các cuộc hẹn đều đặn nên được nằm trong kế hoạch điều trị.

  • Nguy cơ tự tử luôn là mối quan tâm của trẻ em và vị thành niên bị trầm cảm dù chúng có đang dùng thuốc chống trầm cảm hay không.

Nguyên nhân chính xác gây các rối loạn trầm cảm là không rõ ràng, nhưng có sự đóng góp bởi yếu tố di truyền và môi trường.

Tính di truyền chiếm khoảng một nửa bệnh nguyên [ít hơn trong trầm cảm khởi phát muộn]. Do đó, trầm cảm phổ biến hơn trong số các thân nhân bậc 1 của bệnh nhân trầm cảm, và phù hợp với các cặp song sinh cùng trứng. Cùng với đó, các yếu tố di truyền có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của phản ứng trầm cảm đối với các sự kiện bất lợi.

Các lý thuyết khác tập trung vào sự thay đổi nồng độ các chất dẫn truyền thần kinh, bao gồm sự điều hòa bất thường về dẫn truyền thần kinh hệ cholinergic, catecholaminergic [noradrenergic hoặc dopaminergic], và serotonergic [5-hydroxytryptamine]. Rối loạn điều chỉnh các nội tiết tố thần kinh có thể là một yếu tố, đặc biệt nhấn mạnh đến 3 trục: dưới đồi-tuyến yên-tuyến thượng thận, dưới đồi-tuyến yên-tuyến giáp, và hormon tăng trưởng.

Các yếu tố tâm lý xã hội dường như cũng có liên quan. Những stress lớn trong cuộc sống, đặc biệt là sự chia rẽ và mất chủ yếu, thường đi trước những giai đoạn trầm cảm lớn; tuy nhiên, các sự kiện như vậy thường không gây trầm cảm kéo dài, trầm trọng trừ những người có xu hướng rối loạn khí sắc.

Những người có một giai đoạn trầm cảm lớn có nguy cơ cao hơn của các giai đoạn tiếp theo. Những người ít hồi phục và / hoặc những người có khuynh hướng lo lắng có thể sẽ có nguy cơ phát triển chứng rối loạn trầm cảm. Những người như vậy thường không phát triển các kỹ năng xã hội để thích nghi với áp lực cuộc sống. Trầm cảm cũng có thể phát triển ở những người có rối loạn tâm thần khác.

Phụ nữ có nguy cơ cao hơn, nhưng không có lý thuyết giải thích tại sao. Các yếu tố có thể bao gồm:

  • Phơi nhiễm nhiều hơn hoặc đáp ứng mạnh với stress hàng ngày

  • Nồng độ monoamine oxidase cao hơn [enzym có vai trò làm giảm các chất dẫn truyền thần kinh được coi là quan trọng đối với khí sắc]

  • Tỷ lệ rối loạn chức năng tuyến giáp cao hơn

  • Sự thay đổi nội tiết xảy ra với kinh nguyệt và mãn kinh

Trong rối loạn cảm xúc theo mùa, các triệu chứng phát triển theo mùa, điển hình là vào mùa thu hoặc mùa đông; rối loạn có xu hướng xảy ra trong khí hậu với mùa đông dài hoặc khắc nghiệt.

Triệu chứng hoặc rối loạn trầm cảm có thể đi kèm với các rối loạn cơ thể khác, bao gồm rối loạn về tuyến giáp Tổng quan về chức năng tuyến giáp Tuyến giáp, nằm ở vùng cổ trước, ngay dưới sụn nhẫn, gồm 2 thùy được nối bởi một eo tuyến giáp. Các tế bào nang trong tuyến sinh ra 2 hoóc môn tuyến giáp chính: Tetraiodothyronine [thyroxine... đọc thêm , rối loạn về tuyến thượng thận Tổng quan về chức năng tuyến thượng thận Tuyến thượng thận nằm ở cực trên của mỗi thận [xem hình: Tuyến thượng thận.], bao gồm phần vỏ phần tủy Vỏ thượng thận và tủy thượng thận có chức năng nội tiết riêng biệt. Vỏ thượng thận sản xuất đọc thêm , u não lành tính hoặc ác tính Tổng quan về các khối u trong sọ Các khối u nội sọ có thể tại não hoặc các cấu trúc khác [ví dụ, dây thần kinh sọ, màng não]. Các khối u thường phát triển ở tuổi thanh niên hoặc trung niên nhưng có thể phát triển ở mọi lứa... đọc thêm , đột quỵ Tổng quan về Đột quỵ Đột quỵ là một nhóm bệnh không đồng nhất liên quan đến sự gián đoạn đột ngột và cục bộ của dòng máu não gây ra tổn thương thần kinh. Đột quỵ có thể là Thiếu máu cục bộ [80%], điển hình là do... đọc thêm , AIDS Nhiễm trùng HIV / AIDS ở người Nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người[HIV] là hậu quả của nhiễm 1 trong số 2 retrovirus tương tự nhau[HIV-1 và HIV-2] chúng phá hủy tế bào lympho CD4 + và làm giảm khả năng miễn dịch qua... đọc thêm , bệnh Parkinson Bệnh Parkinson Bệnh Parkinson là một rối loạn thoái hóa chậm tiến triển, được đặc trưng bởi run tĩnh trạng, tăng trương lực cơ, giảm vận động và vận động chậm, và mất ổn định tư thế và/hoặc dáng đi. Chẩn đoán... đọc thêm , và xơ cứng rải rác Xơ cứng rải rác [MS] Xơ cứng rải rác [MS] được đặc trưng bởi mất các mảng myelin ở não và tủy sống. Các triệu chứng thường gặp gồm những bất thường về vận nhãn, dị cảm, yếu cơ, co cứng, rối loạn tiểu tiện và rối... đọc thêm [xem Bảng: Một số nguyên nhân của triệu chứng trầm cảm và hưng cảm Một số nguyên nhân của triệu chứng trầm cảm và hưng cảm Các rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi buồn trầm trọng hoặc dai dẳng đủ để ảnh hưởng vào hoạt động chức năng và thường là do giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong các hoạt động. Nguyên nhân... đọc thêm ].

Video liên quan

Chủ Đề