Đánh giá về thieennhieen trong truyệnkieefu năm 2024

Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một tác phẩm vô cùng xuất sắc trong văn học dân tộc Việt Nam, không chỉ thu hút độc giả nước nhà mà còn ghi điểm với độc giả quốc tế. Thành công của tác phẩm không chỉ ở việc phản ánh chân thực hiện thực xã hội, mà còn ở bản năng nghệ thuật tài tình của Nguyễn Du. Một trong những điểm nổi bật của nghệ thuật miêu tả trong Truyện Kiều là cách nhà thơ mô tả thiên nhiên. Trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, ta có thể thấy sự tài năng của Nguyễn Du hiện hóa qua bức tranh mùa xuân tươi đẹp, tràn ngập sức sống:

“Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Bức tranh mùa xuân được tạo ra bằng hình ảnh của “con én đưa thoi”. Đây không chỉ là hình ảnh đẹp mắt mà còn là biểu tượng của sự xuất hiện của mùa xuân. Khi đàn én bay lượn, mọi người biết rằng mùa xuân đã đến. Cánh én như những chiếc thoi vẽ nên những đường tơ mềm mại trên khung vải của bầu trời.

“Thiều quang” là ánh sáng đỏ hồng, tỏa sáng và đẹp mắt của mùa xuân. Trong không khí náo nức của én, bầu trời trở nên cao và rực rỡ hơn với ánh nắng xuân nhẹ nhàng, tinh khiết. Mọi thứ trở nên ấm áp với sắc màu tươi tắn, mới mẻ và đầy sức sống. Trên khung cảnh tuyệt vời đó, cỏ non xanh mướt trải dài vô tận, như những đường tơ mềm mại nối liền đất trời. Trong tầm nhìn của Nguyễn Du, đám cỏ này trải dài đến “chân trời”. Sự xuất hiện của sắc trắng của hoa lê làm cho bức tranh thêm phần hoàn mĩ, làm nổi bật vẻ đẹp của mùa xuân. Sự kết hợp tinh tế giữa hai màu xanh và trắng làm cho câu thơ trở nên sống động, đầy sức sống, làm nổi bật vẻ đẹp của hoa lá cỏ cây.

Không chỉ miêu tả không khí sôi động của ngày xuân, Nguyễn Du còn mô tả chiều tà, khi không khí dần trở nên trầm lặng. Mặc cho bóng tối giảm dần vào cuối ngày, Nguyễn Du vẫn sử dụng tài năng và tinh tế để tạo nên bức tranh chiều tà đẹp mắt:

“Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc qua”

Trái ngược với không khí sôi động của buổi sáng, chiều tà mang đến cảm giác trầm lặng, thanh tĩnh. Tuy nhiên, đẹp của nó không giảm đi. Nguyễn Du sử dụng các từ như “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ” để mô tả chiều tà, không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp của cảnh vật mà còn chứa đựng giá trị tâm lý sâu sắc. Đặc biệt, từ “nao nao” đặc biệt, không chỉ thể hiện sự chảy chậm của “dòng nước uốn quanh” mà còn truyền đạt tâm trạng mơ hồ buồn, có chút trống trải trong tâm hồn con người.

Bức tranh chiều tà mùa xuân của Nguyễn Du được khắc họa với vẻ đẹp trầm lặng, chậm rãi, nhưng vẫn thơ mộng. Cảnh vật vẫn giữ được vẻ nhẹ nhàng, tinh tế của mùa xuân, với ánh nắng nhạt nhòa, dòng suối nhỏ và nhịp cầu chênh vênh. Đặc biệt, Nguyễn Du đã kết hợp tâm trạng, cảm xúc của con người vào bức tranh thiên nhiên, tạo nên sự sống động, chân thực và đầy tình cảm.

Như vậy, thông qua sự nhạy bén của tâm hồn nghệ sĩ và nghệ thuật miêu tả xuất sắc, Nguyễn Du đã tái hiện một cách chân thực, tự nhiên bức tranh ngày xuân đầy đủ sắc thái, từ sự sôi động đến vẻ nhẹ nhàng, chậm rãi của cảnh vật, từ sự háo hức đến vẻ trầm tĩnh, nao nao của con người. Có thể khẳng định, bức tranh ngày xuân trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một kiệt tác tươi đẹp, sống động, thể hiện tài năng miêu tả xuất sắc cùng tâm hồn tinh tế của Nguyễn Du.

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

2. Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong 'Cảnh ngày xuân' số 3

Nguyễn Du, nhà thơ lớn của dân tộc, danh nhân văn hóa toàn cầu, trở nên vĩ đại qua tác phẩm 'Truyện Kiều' - tác phẩm xuất sắc nhất trong văn học trung đại Việt Nam. 'Truyện Kiều' là một hình ảnh lớn về nhân đạo, là tuyên ngôn nghiêm túc về cái ác và sự phản nhân bản, một kiệt tác về nghệ thuật văn chương. Phần 'Cảnh ngày xuân' trong 'Gặp gỡ và đính ước' của Thúy Kiều là một phần thành công nhất về mô tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du.

Bốn câu thơ đầu hòa quyện với vẻ đẹp của mùa xuân: tình, sắc, hương, thơ.

'Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”

Bằng bút pháp chấm phá kết hợp với mô tả, hai câu thơ đầu không chỉ mô tả không gian mà còn mô tả thời gian. 'Con én đưa thoi' là hình ảnh sống động, rộn ràng trong bầu trời. Đây không chỉ là hình ảnh thực tế mà còn là biểu tượng, ngụ ý về thời gian trôi nhanh, mùa xuân đi qua nhanh chóng. Mùa xuân chỉ kéo dài chín mươi ngày, và giờ đây đã sang tháng ba, gợi lên sự nuối tiếc. 'Con én đưa thoi' sau đó là thiều quang, biểu tượng của mùa hồng, ánh xuân ấm áp và sự mênh mông của đất trời. Đặc biệt, câu thơ tuyệt vời về mùa xuân là:

“Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa“

Nguyễn Du sáng tạo bằng cách áp dụng câu thơ cổ Trung Quốc 'cỏ thơm liền với trời xanh - trên cành lê có vài bông hoa', thay vì sử dụng từ 'cỏ thơm', ông chọn từ 'cỏ non' để tô bức tranh với màu xanh của cỏ non trải rộng đến chân trời. Màu sắc này tạo nên bức tranh xuân mới mẻ, tinh khôi, tràn đầy sức sống, nhẹ nhàng và thanh khiết. Tất cả kết hợp tạo ra một hòa quyện tuyệt vời. Từ 'điểm' làm cho bức tranh xuân sống động, không tĩnh lặng.

'Cảnh ngày xuân' là bức tranh tươi đẹp mà Nguyễn Du để lại, làm tô điểm cho cuộc sống của chúng ta. Tám câu thơ tiếp theo mô tả khung cảnh mùa xuân trong ngày thanh minh. Trong ngày thanh minh, hai hoạt động diễn ra đồng thời: lễ tảo mộ và hội đạp thanh:

“Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”

Hình ảnh hội đạp thanh mùa xuân mô tả hết sức sống động, trên đường phố, mọi người đang nô nức tham gia hội đạp thanh. Nhiều người, cả nam và nữ, đeo bộ trang phục mới, điệu đà như nhau nhảy múa.

“Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm”

Nguyễn Du tài tình mô tả lễ hội mùa xuân bằng cách sử dụng nhiều từ láy, từ ghép và danh từ, động từ, tính từ. Các danh từ như 'chị em, yến anh, tài tử, giai nhân' mô tả sự đông đúc, đám đông tham gia hội. Các động từ 'sắm sửa, dập dìu' mô tả sự náo nhiệt của ngày hội. Các tính từ 'gần, xa, nô nức' thể hiện tâm trạng của người tham gia. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nói ẩn dụ như 'yến anh', hoán dụ 'ngựa xe, áo quần'. Tất cả tạo nên không khí hội xuân trẻ trung, xinh đẹp, trang trọng và phong lưu. Ai đã tham gia hội Chùa Hương, hội Lim, hội Yên Tử... đều hiểu được cái đẹp và vui vẻ trong hội đạp thanh mà Nguyễn Du miêu tả.

Thời gian cùng với cuộc vui, sau đó sáu câu thơ cuối mô tả chị em Thúy Kiều du xuân trở về, vẻ đẹp thoáng buồn do tâm trạng con người.

“Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn đan tay ra về.

Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Cảnh xuân trong sáu câu thơ cuối và bốn câu thơ đầu có nét giống nhau nhưng cũng có sự khác biệt về không gian và thời gian. Quan trọng hơn, cảnh được nhìn nhận qua tâm trạng con người. Kết thúc một ngày vui, mặt trời dần nghiêng về phía Tây, chân người thơ thẩn, tuy nhiên, không khí hội hè đang nhạt nhòa, lặng lẽ.

Cảnh xuân trong sáu câu thơ cuối và bốn câu thơ đầu không chỉ là hình ảnh mà còn là tâm trạng con người. 'Ngày tàn sao chẳng buồn, hội tàn sao chẳng buồn?' Mỗi từ 'tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao' trong câu thơ 'Nao nao dòng nước uốn quanh' đều thể hiện cảnh đã được nhân hóa một cách tự nhiên, nhuộm màu tâm trạng con người. Sáu câu thơ cuối là bức tranh chiều xuân đẹp được nhìn nhận qua tâm trạng con người, Nguyễn Du đã viết 'tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này'.

Tóm lại, thông qua đoạn trích 'Cảnh ngày xuân', Nguyễn Du đã tạo ra một bức tranh về thiên nhiên, lễ hội xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Ông không chỉ là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc mà còn là nghệ sĩ ngôn từ tài tình. Hãy yêu quý thiên nhiên và giữ gìn những giá trị truyền thống của dân tộc 'Uống nước nhớ nguồn'.

Hình minh họa [Nguồn internet]

3. Phân tích tài nghệ miêu tả thiên nhiên trong 'Cảnh ngày xuân' số 2

Trong Truyện Kiều, đã có nhiều lần Nguyễn Du tận dụng kỹ thuật nghệ thuật để mô tả thiên nhiên với bốn mùa đầy cảm xúc, tình cảm.

Tuy nhiên, có một lần Nguyễn Du tạo ra một bức tranh thơ vĩ đại về mùa xuân bằng sắc xanh tươi tắn của cỏ non kết hợp với vẻ thanh nhã của hoa lê trắng. Trên nền xuân mênh mồng và êm đềm, những trang giai nhân tuyệt vời xuất hiện. Giai nhân, tài tử, mùa xuân và tình yêu đôi lứa nở rộ, mang lại vẻ đẹp cho đời và khiến cảm xúc thẩm mỹ của người yêu thơ Việt Nam bùng nổ qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân”.

Bốn dòng thơ đầu mô tả cảnh mùa xuân. Xuân đã đến tháng ba - thời kỳ thanh minh, những con én vui mừng dưới ánh nắng ấm. Bức tranh tuyệt đẹp về mùa xuân được tạo nên bằng sự kết hợp hoàn hảo giữa thảm cỏ xanh non trải dài tận chân trời. Điểm nhấn trên bức tranh xanh mênh mông đó là những bông hoa lê trắng thanh nhã. Tác giả sử dụng từ “điểm” một cách tinh tế, tạo ra nét thanh nhã, phản ánh tình cảm trong sáng của “nam thanh nữ tú” đang du xuân. Đó là màu sắc trong trẻo, tinh tế, đầy sức sống và quyến rũ, là đặc trưng của mùa xuân. Bức tranh xuân đã làm lay động lòng người.

Tám dòng tiếp theo mô tả cảnh lễ hội trong dịp thanh minh. Nét văn hoá tảo mộ phong phú, trở thành nét đẹp tâm hồn truyền thống. Hội Đạp thanh gợi lên không khí thanh tao và thân thiện. Có gì bằng việc dạo chơi trên cánh đồng quê khi cỏ non vươn lên sau cơn mưa xuân nhẹ nhàng. Mùi hương trầm thoảng từ những ngôi mộ hòa quyện vào tâm hồn du xuân, trở thành điều thiêng liêng khó diễn đạt.

Đoạn thơ chứa đựng giá trị biểu cảm qua các danh từ như yến anh, chị em, tài tử, giai nhân... mọi người đều trong tâm trạng “nô nức” sắm sửa, dập dìu đến hội. Ngoài những động từ, danh từ được sử dụng đầy đủ, Nguyễn Du còn sử dụng các tính từ như nô nức, gần xa và ẩn dụ “nô nức yến anh”, tạo ra một hình ảnh sôi động của ngày xuân và tâm trạng hồi hộp của những người tham gia. Điểm nhấn trên bức tranh đó là những đám thoi vàng bay vút, khiến cho khung cảnh trở nên sâu sắc. Điều đó làm nổi bật nét đẹp văn hoá truyền thống có tính nhân văn trong dịp thanh minh.

Sáu câu cuối miêu tả cảnh chị em Kiều trở về nhà. Cảnh tắm trong ánh chiều tàn, không còn sự nhộn nhịp mà giống như lặng dần và ẩn hiện nét buồn. Những từ như “tà tà, thanh thanh, nao nao” thể hiện sự đa dạng của cảnh vật và tâm trạng con người cũng “nao nao” như dòng nước. Nghệ thuật nhân hoá độc đáo khiến cho cảnh vật như có tâm hồn. Cảm giác vui tươi của xuân vẫn còn đọng lại, nhưng tác giả đã thêm vào một chút buồn qua hình ảnh “Nao nao dòng nước” và ngọn “tiểu khê” như một dự báo cho một sự kiện không mong muốn, tiên đoán cho một tương lai đầy khó khăn...

Đoạn thơ có cấu trúc hợp lý và ngôn ngữ phong phú; nghệ thuật nhân hoá độc đáo và từ ngữ giàu cảm xúc. Với mười tám dòng thơ, tác giả đã tạo ra một bức tranh xuân tươi đẹp với nét độc đáo và đầy đủ tâm trạng con người, đồng thời dự báo sự đau buồn đã được cảm nhận.

Hình minh họa [Nguồn internet]

4. Phân tích tài nghệ miêu tả thiên nhiên trong 'Cảnh ngày xuân' số 5

Trong văn hóa Việt Nam, 'Truyện Kiều' được biết đến như một kiệt tác. Điều này do bút pháp tinh tế của đại thi hào Nguyễn Du trong sử dụng ngôn ngữ. Tác phẩm không chỉ được đánh giá cao về nội dung mà còn để lại nhiều dấu ấn nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Trong dòng chảy đó, đoạn 'Cảnh ngày xuân' là minh chứng tiêu biểu cho tài năng của tác giả trong việc miêu tả thiên nhiên.

Đầu tiên, tác giả mô tả cảnh thiên nhiên qua khung cảnh mùa xuân tươi đẹp và đầy sức sống:

'Ngày xuân con én mang thoi

Thiều quang chín chục đã vượt sáu mươi

Cỏ non xanh dọc chân trời

Cành lê trắng điểm vài bông hoa'

Bút pháp miêu tả thiên nhiên dưới ngòi bút của nhà thơ hiện lên đậm chất nghệ thuật với hình ảnh, đường nét, màu sắc tinh tế, nhẹ nhàng. Khung cảnh mùa xuân quen thuộc được miêu tả qua hình ảnh những cánh én rợp trời, tạo nên bước chân không ngừng của thời gian. Ánh sáng xuân được mô tả qua cụm từ 'thiều quang' mang đến sắc màu tươi mới, dịu dàng, ấm áp và rực rỡ của tiết trời xuân. Bức tranh thiên nhiên tiếp tục được làm nổi bật bởi những gam màu hội họa. Màu xanh tươi của cỏ non trải dài tận chân trời tạo ra không gian rộng lớn, mở cửa sổ và hùng vĩ. Sự xuất hiện của vài bông hoa lê điểm xuyết màu trắng trong sự kết hợp đảo ngữ, sử dụng cách nói 'trắng điểm' thay cho 'điểm trắng' để làm nổi bật màu sắc tinh khôi, sáng tạo và bút pháp chấm phá quen thuộc trong thơ ca trung đại:

'Phương thảo liên thiên bích

Lê chi sổ điểm hoa'

[Cỏ thơm liền với trời xanh

Trên cành lê có mấy bông hoa]

Nếu trong những câu thơ trên, người viết miêu tả hình ảnh 'cỏ thơm' gợi hương vị thì tác giả Nguyễn Du lại sử dụng màu sắc 'Cỏ xanh' với sự non tươi để gợi lên sức sống và sắc xuân tràn trề, đồng thời tạo nên sự hài hòa trong vẻ đẹp tươi mới, tinh khôi. Rồi thời gian di chuyển khiến cho lễ hội kết thúc, ánh 'thiều quang' biến mất và thay vào đó là không gian buồn của bóng chiều tà:

'Tà tà bóng ngả về tây

Chị em thơ thẩn với tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lặng lẽ xem phong cảnh bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Dòng cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang'

Khung cảnh thiên nhiên vẫn giữ vẻ đẹp dịu dàng của mùa xuân qua hình ảnh 'bóng tả về tây' ánh nắng nhạt dần và mặt trời lặn xuống cùng chi tiết về khe nước nhỏ - nơi con người đi cùng chậm rãi, 'thơ thẩn' và dòng nước uốn quanh 'nao nao' tạo ra không gian nhỏ bé, thân thuộc khác với không gian rộng lớn, bát ngát ở khổ thơ đầu. Ngôn từ giàu giá được sử dụng để miêu tả không gian yên bình trong tâm trạng buồn bã, luyến tiếc và tiếc nuối.

Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn thơ rất đặc sắc thông qua việc tác giả sử dụng một hệ thống từ láy và bút pháp tả cảnh ngụ tình. Các từ láy thường được đặt ở đầu câu thơ để nhấn mạnh tâm trạng của con người - ý của nhà thơ. Đặc biệt, qua cách sử dụng từ láy 'nao nao', sắc thái của cảnh vật hiện lên qua vẻ đẹp lững lờ trôi xuôi của dòng nước trong bóng chiều tà; đồng thời, đó cũng là sự 'nao nao' trong tâm trạng của con người. Đó là sự luyến tiếc, bâng khuâng và xao xuyến về một buổi du xuân trong cảm xúc của Thúy Kiều, đồng thời là sự linh cảm về những điều sắp xảy ra - Kiều sẽ gặp nấm mộ Đạm Tiên, gặp Kim Trọng.

Nhìn nhận qua trích đoạn 'Cảnh ngày xuân', ta có thể thấy tài năng của tác giả Nguyễn Du trong việc miêu tả thiên nhiên. Để vẽ bức tranh mùa xuân tươi đẹp và chiều tà lặng lẽ, đại thi hào dân tộc đã chọn những hình ảnh thơ độc đáo và tinh tế, sử dụng thành công ngôn từ để chứng minh sự thống nhất giữa 'cảnh' và 'tình' như ông từng nói:

'Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'

Minh họa [Nguồn ảnh từ internet]

5. Phân tích nghệ thuật mô tả thiên nhiên trong tác phẩm 'Cảnh ngày xuân' số 4

Đoạn trích từ 'Cảnh ngày xuân' là một tác phẩm xuất sắc, độc đáo, thực sự là biểu tượng của nghệ thuật mô tả vẻ đẹp thiên nhiên của đại thi hào Nguyễn Du. Ngay sau đoạn tả tài năng và vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã tạo nên bức tranh về thiên nhiên và lễ hội mùa xuân trong tiết Thanh minh thật tươi sáng, sống động. Nhà thơ đã khéo léo kết hợp bút pháp mô tả và kích thích với những chi tiết mang tính ước lệ mà vẫn vô cùng chân thực, giàu tính chất tạo hình và biểu cảm, ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt để mô tả khung cảnh ngày xuân.

Trước hết là bốn câu thơ đầu, với nghệ thuật chấm phá độc đáo, Nguyễn Du đã khắc họa một bức tranh về mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy năng lượng:

Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã vượt sáu mươi

Cỏ non xanh dọc chân trời

Cành lê trắng điểm vài bông hoa.

Hai câu đầu tiên vừa nhấn mạnh về thời gian, vừa làm tăng cường không gian. Ngày xuân trôi qua như chong chóng thoi đưa. Cả mùa xuân, chín chục ngày, giờ đã vượt qua tháng giêng, tháng hai và chuyển sang tháng ba. Ánh sáng của mùa xuân nhẹ nhàng, trong veo, lan tỏa khắp nơi. Trên bầu trời là đàn én mùa xuân bay lượn. Phía dưới là thảm cỏ xanh non mênh mông. Động từ 'tận' mở rộng không gian mùa xuân, tạo ra cảm giác ngày càng mở ra và bao phủ không gian xuân với màu xanh biếc của cỏ lá. Trên thảm cỏ xanh ấy, những bông hoa lê trắng điểm làm tôn lên vẻ tinh khôi, mới mẻ. Kỹ thuật đảo ngữ làm nổi bật sự trắng của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, dưới bút và cách mô tả sáng tạo, Nguyễn Du đã tạo ra bức tranh xuân tươi trẻ, trong trẻo, thanh khiết và tràn đầy năng lượng, mang đậm hơi thở của hồn xuân Việt Nam.

Và đến sáu câu thơ cuối, thông qua nghệ thuật 'mô tả cảnh ngụ tình', Nguyễn Du đã mô tả khoảnh khắc cuối cùng của ngày hội xuân, nổi bật tâm trạng của nhân vật một chút buồn bã. Điều này vừa là sự mô tả thực, vừa làm dậy lên màu sắc tâm trạng trữ tình trong thơ.

Bóng tối bóng tối nhấc lên về phía tây

Chị em thơ thẩn dan tay ra về

Bước dần theo đường mòn

Làm nổi bật cảnh đẹp vô song

Dòng nước uốn quanh

Dưới ánh chiều tàn cuối ghềnh.

Cảnh vẫn giữ nguyên vẻ dịu dàng, êm đềm của ngày xuân nhưng bóng tối đã 'tà tà nghiêng về phía tây'. Cảnh vật dường như trở nên nhạt nhòa, khung cảnh náo nhiệt, sôi động lúc bình minh đã nhường chỗ cho sự yên bình, lặng lẽ. Không gian xuân co lại theo ánh sáng hoàng hôn, không mở ra như ban đầu, mênh mông và vô tận như bốn câu thơ đầu. Tất cả thu nhỏ trong bước chân của những người rời đi. Phong cảnh trở nên 'thanh thanh' nhẹ nhàng, dòng nước tiểu khê uốn quanh 'nao nao' và chiếc cầu 'nho nhỏ' đứng cuối ghềnh. Cảnh đẹp, đậm chất thơ, chất họa, phảng phất nỗi buồn lưu luyến, bình yên, bí ẩn trong trái tim người đọc. Đồng thời truyền đạt linh cảm về một điều gì đó sắp xảy ra, như là một dự báo cho cuộc gặp gỡ giữa Thúy Kiều và Kim Trọng, hai linh hồn tài năng. Tóm lại, với bút pháp mô tả cảnh ngụ tình, kết hợp với việc sử dụng hệ thống từ láy, hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã tạo ra bức tranh của buổi chiều tà trong ngày hội xuân, đầy tâm trạng của nhân vật. Điều này thể hiện rõ tài năng nghệ thuật mô tả thiên nhiên và tâm trạng con người của Nguyễn Du.

Nếu so sánh với bốn câu thơ đầu, bức tranh về thiên nhiên mùa xuân vào buổi sáng hiện lên rực rỡ, tràn đầy sức sống, mở rộng và vô tận trong màu sắc xanh non, biếc của cỏ cây, thì sáu câu thơ cuối cùng, bức tranh xuân kết thúc trong ánh sáng nhạt nhòa của ánh nắng chiều yếu ớt, nghiêng về phía tây, thu nhỏ lại và tô điểm màu sắc tâm trạng con người. Cảnh chuyển động này diễn ra tự nhiên và hợp lý.

Tóm lại, thông qua phân tích ở trên, chúng ta nhận thấy nghệ thuật mô tả thiên nhiên rất độc đáo, sáng tạo của nhà thơ. Đây là một bức tranh mùa xuân phong phú, đậm chất thơ, tràn đầy năng lượng, nhịp nhàng.

Làm ngắn gọn lại nội dung...

Hình minh họa [Nguồn trên internet]

6. Phân tích nghệ thuật mô tả thiên nhiên trong 'Cảnh ngày xuân' số 7

Khi nhắc đến cách Nguyễn Du sử dụng bút trong Truyện Kiều, nhiều người thường nhớ đến cách ông tài tình miêu tả tâm lý mỗi nhân vật. Nhưng mỗi khi chạm đến đoạn trích 'Cảnh ngày xuân', ta không khỏi kinh ngạc trước nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên sống động, tươi đẹp, và trong sáng mà ông đã sử dụng để vẽ nên bức tranh xuân tuyệt vời. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân ấy thực sự rực rỡ dưới bàn tay tài năng của Nguyễn Du.

Nguyễn Du, người được mệnh danh là đại thi hào của Việt Nam, khiến chúng ta không thể không nghĩ đến kiệt tác Truyện Kiều. Trong tác phẩm này, một nét đặc sắc và quyến rũ là:

“Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh rợn chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Trong đoạn thơ, bức tranh thiên nhiên mùa xuân được mô tả sống động và thơ mộng. Nguyễn Du đã tận dụng một cách thành công biện pháp nhân hóa để làm cho cảnh vật trở nên sống động. Mùa xuân được khởi đầu với cảnh én bay như sáo nhạc, đều đặn và nhịp nhàng. Cảm giác nhìn từ dưới lên cao tạo ra ấn tượng như cánh én đang nhẹ nhàng đưa thoi. Điều đặc biệt hơn là cách miêu tả cỏ xuân của Nguyễn Du:

“Cỏ non xanh rợn chân trời.”

Trong thơ Việt, có nhiều câu thơ tả cỏ rất độc đáo: “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi.”

[Bến đò xuân đầu trại – Nguyễn Trãi]

hoặc:

“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ.”

[Chiều xuân – Anh Thơ,]

Cách Nguyễn Du miêu tả cỏ mang một vẻ đẹp rất riêng, tạo hình độc đáo. “Xanh rợn” như là một bức tranh xanh vô cùng rộng lớn mở ra trong không gian. Bằng từ “xanh rợn,” người đọc cảm nhận được một màu xanh bát ngát trải dài đến tận chân trời. Cảm giác của mùa xuân xanh mát, nhẹ nhàng và mênh mông. Ngay cả trong khoảnh khắc đơn giản này, Nguyễn Du đã tạo ra một không gian rộng lớn với màu xanh của cỏ lá. Còn trên mảng cỏ xanh, những bông hoa lê trắng điểm tô điểm vẻ trong trắng và mới mẻ. Kỹ thuật đảo ngữ tạo nên sự nổi bật của màu trắng của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân. Chỉ với bốn dòng thơ ngắn, qua bút pháp tinh tế và sáng tạo, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh mùa xuân tươi trẻ, thanh khiết và đầy năng lượng, chứa đựng hơi thở tinh tế của xuân Việt Nam.

Và cuối cùng, sáu dòng thơ kết thúc thông qua nghệ thuật 'mô tả cảnh ngụ tình', Nguyễn Du đã mô tả khoảnh khắc cuối cùng của ngày hội xuân, nổi bật tâm trạng một chút buồn bã. Điều này không chỉ là một miêu tả chân thực mà còn tạo ra màu sắc tâm trạng trong thơ.

Bóng tối bóng tối nhấc lên về phía tây

Chị em thơ thẩn dan tay ra về

Bước dần theo đường mòn

Làm nổi bật cảnh đẹp vô song

Dòng nước uốn quanh

Dưới ánh chiều tàn cuối ghềnh.

Cảnh vật vẫn giữ nguyên vẻ dịu dàng, êm đềm của ngày xuân, nhưng bóng tối đã 'tà tà nghiêng về phía tây'. Cảnh vật dường như trở nên mờ nhạt, sự náo nhiệt, sôi động của buổi bình minh nhường chỗ cho sự yên bình và lặng lẽ. Không gian xuân co lại theo ánh sáng hoàng hôn, không mở ra như lúc đầu, mà thay vào đó, mênh mông và vô tận như bốn câu thơ đầu. Tất cả rơi vào bước chân của những người rời đi. Phong cảnh trở nên 'thanh thanh' nhẹ nhàng, dòng nước tiểu khê uốn quanh 'nao nao', và chiếc cầu 'nho nhỏ' đứng cuối ghềnh. Bức tranh đẹp, đậm chất thơ, chất họa, phảng phất nỗi buồn lưu luyến, bình yên và bí ẩn trong trái tim của người đọc. Đồng thời truyền đạt linh cảm về sự kiện sắp xảy ra, như là một dự báo cho cuộc gặp giữa Thúy Kiều và Kim Trọng, hai tâm hồn tài năng. Tóm lại, với bút pháp mô tả cảnh ngụ tình, kết hợp với việc sử dụng từ láy, hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu cảm, Nguyễn Du đã tạo ra một bức tranh của buổi chiều tà trong ngày hội xuân, đầy tâm trạng của nhân vật. Điều này thể hiện rõ tài năng nghệ thuật mô tả thiên nhiên và tâm trạng con người của Nguyễn Du.

So sánh với bốn câu thơ đầu, bức tranh về thiên nhiên mùa xuân vào buổi sáng hiện lên rực rỡ, tràn đầy sức sống, mở rộng và vô tận trong màu sắc xanh non, biếc của cỏ cây. Ngược lại, sáu câu thơ cuối cùng, bức tranh xuân kết thúc trong ánh sáng nhạt nhòa của ánh nắng chiều yếu ớt, nghiêng về phía tây, thu nhỏ lại và tô điểm màu sắc tâm trạng con người. Chuyển động này diễn ra tự nhiên và hợp lý.

Tổng cộng, qua phân tích trên, ta nhận thấy nghệ thuật mô tả thiên nhiên rất độc đáo và sáng tạo trong tác phẩm của nhà thơ. Đây là một bức tranh mùa xuân phong phú, đậm chất thơ và tràn đầy năng lượng, nhịp nhàng.

Hình minh họa [Nguồn trên internet]

7. Phân tích nghệ thuật mô tả thiên nhiên trong 'Cảnh ngày xuân' số 6

Đoạn trích “Cảnh ngày xuân’’ lấy từ Truyện Kiều của Nguyễn Du, đưa chúng ta đến với không khí ngập tràn của ngày xuân trong lễ hội Thanh minh và hình ảnh đẹp như tranh về cảnh du xuân của chị em Kiều.

Bức tranh thơ mô tả không gian và thời gian, sử dụng thi pháp cổ điển với những nét độc đáo, điểm xuyết tinh tế, tập trung vào sự tinh tế:

Ngày xuân con én vút cánh,

Thiều quang chín chục đã vượt qua sáu mươi.

Cỏ non xanh mát đến chân trời,

Cành lê trắng tinh khôi với vài bông hoa.

Mùa xuân đang thoắt ẩn nấp đi nhanh chóng, bước chuyển sang tháng ba, cùng với đó là những chú én hòa nhạc rộn ràng bay phấp phới như thoi đưa. Thảm cỏ non trải rộng tận chân trời, nhấn nhá bởi những bông hoa lê trắng tinh khôi. Sự mơ mới, tươi tắn, tràn ngập sức sống được diễn đạt qua cỏ non, sự thuần khiết và thanh nhã trong màu xanh tận chân trời, cùng với vẻ tinh tế của những bông hoa trắng như điểm nhấn.

Thanh minh, trong tiết tháng ba,

Lễ là dịp tảo mộ, hội là lúc đạp thanh.

Ở gần hay xa, tiếng yến anh vang vọng nồng nàn,

Chị em tự trang hoàng bộ đồ đi chơi xuân.

Đám đông tài tử và giai nhân,

Ngựa xe nổi bật như dòng nước, áo quần như là hoa nêm.

Còn đám đông còn nô nức đếch lẽ gì,

Mọi người đều sẵn sàng, chuẩn bị cưới lễ hội vui xuân.

Cảnh lễ hội sôi động hiện lên qua những từ ngữ tinh tế, từ láy: gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, nô nức, sắm sửa, dập dìu... mô tả hình ảnh của một ngày hội sôi động, sự náo nhiệt và hạnh phúc của những tài tử và giai nhân. Truyền thống lễ hội thường thấy trong ngày Thanh minh được tả mô hình: mọi người chuẩn bị lễ vật đi tảo mộ, trang hoàng quần áo mới đi chơi hội ở quê, rắc thoi vàng vó, đốt tiền giấy bay để tưởng nhớ đến người thân đã khuất.

Thanh minh, trong tiết tháng ba,

Lễ là dịp tảo mộ, hội là lúc đạp thanh.

Ở gần hay xa, tiếng yến anh vang vọng nồng nàn,

Chị em tự trang hoàng bộ đồ đi chơi xuân.

Đám đông tài tử và giai nhân,

Ngựa xe nổi bật như dòng nước, áo quần như là hoa nêm.

Còn đám đông còn nô nức đếch lẽ gì,

Mọi người đều sẵn sàng, chuẩn bị cưới lễ hội vui xuân.

Mặt trời nhạt nhòa, nắng nhẹ nghiêng về phía tây, tạo nên bức tranh thanh dịu, tinh tế, bước chân nhẹ nhàng theo nhịp cầu nhỏ cuối ghềnh, dòng nước uốn quanh. Những từ ngữ tà tà, thanh thanh, nao nao không chỉ mô tả cảnh vật mà còn bày tỏ tâm trạng bất an, xao xuyến trước một ngày vui sắp tan và linh cảm về điều sắp xảy ra.

Đoạn thơ Cảnh ngày xuân là một bức tranh tươi đẹp của thiên nhiên, lễ hội mùa xuân, được tô điểm bằng những từ ngữ và bút pháp mô tả sắc nét, đậm chất của thi pháp văn học trung đại.

Hình minh họa [Nguồn trên internet]

8. Phân tích nghệ thuật mô tả thiên nhiên trong 'Cảnh ngày xuân' số 8

Trong nghệ thuật tả cảnh, 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du đã đạt được thành công rực rỡ. Đoạn thơ 'Cảnh ngày xuân' là ví dụ điển hình cho khả năng miêu tả tuyệt vời của nhà thơ. Bốn câu đầu đã vẽ lên bức tranh tươi đẹp của ngày xuân, chọn lựa những chi tiết đặc trưng nhất để khắc họa.

'Ngày xuân con én đưa thoi,

Thềm quang chín chục đã ngoài sáu mươi.'

Dưới bầu trời rộng lớn, những cánh én bay qua như đưa thoi. 'Đa thoi' như một hình ảnh sống động, miêu tả thời gian xuân trôi nhanh. Nhà thơ sử dụng ngôn ngữ dân gian để thể hiện thời gian như một cơn gió nhẹ, tạo nên cảnh xuân bình dị và sống động. Ánh xuân sau cánh én đưa thoi, là 'thiều quang', khi mùa xuân đã bước sang sáu mươi.

Nguyễn Du sử dụng 'Thiều quang' để diễn đạt sự sang tháng ba của mùa xuân, với màu hồng của ánh xuân, không khí ấm áp và sự rộng lớn của đất trời. Câu thơ tạo ra bức tranh mùa xuân với sắc xanh tươi mơn mởn, cỏ non lan tỏa như một tấm thảm tới chân trời:

'Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.'

Độc giả cảm nhận được sự kế thừa từ thơ cổ Trung Quốc, nhưng Nguyễn Du tạo điểm độc đáo bằng cách miêu tả sắc trắng của bông hoa lê. Màu sắc tinh tế này, khi xen kẽ trên nền xanh của cỏ, tạo nên một bức tranh như gấm thêu.

Nghệ thuật phối hợp màu sắc của Nguyễn Du thật tài tình. Màu xanh - trắng kết hợp tạo nên cảm giác mênh mông, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết. Bốn câu thơ đầu tiên như một bức tranh ngôn từ về ngày xuân, với sự hài hoà, dịu dàng và tươi tắn. Màu xanh của cỏ và màu trắng của hoa lê tạo nên không gian mênh mông, thoải mái. Có những cánh én bay chao lượn, màu hồng của ánh thiều quang.

Vẽ nên bức tranh xuân hoa lê như vậy, Nguyễn Du đã thể hiện tình yêu với thiên nhiên, sự kết nối với cảnh xuân. Mô tả lễ hội mùa xuân, nhà thơ viết:

'Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.'

'Lễ là, hội là' liệt kê cảnh lễ hội dân gian, một truyền thống liên tục qua thời gian. Mô tả chi tiết cảnh hội đông vui, tưng bừng và náo nhiệt:

'Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.'

Trên khắp nẻo đường, người ta đang tham gia lễ hội, với yến anh, tài tử, giai nhân, tạo nên hình ảnh náo nhiệt, ngựa xe cuồn cuộn. Nhà thơ tinh tế sử dụng từ ngữ như 'nô nức', 'dập dìu', cùng với so sánh 'như nước, như nêm', tạo ra hình ảnh tưng bừng của lễ hội mùa xuân trên khắp quê hương.

Đoạn thơ còn là bức tranh về đời sống tâm linh, phong tục dân gian trong lễ tảo mộ:

'Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.'

Bằng phép đảo ngữ, nhà thơ tạo hình cho những ngôi mộ liền kề, kết nối giữa thế giới âm và dương, người sống và người đã khuất, hiện tại và quá khứ. 'Thoi vàng vó' bay lả tả bao phủ không gian, biểu tượng cho tâm hồn thanh khiết, niềm tin và tình cảm sâu sắc. Tài tử, giai nhân và ba chị em Kiều không chỉ cầu nguyện cho linh hồn đã khuất mà còn truyền đi niềm tin, hy vọng cho tương lai, hạnh phúc trong tuổi xuân của mùa xuân sắp về.

Giá trị nhân văn của đoạn thơ khiến người đọc cảm động. Sáu câu thơ cuối ghi lại hình ảnh chị em Thuý Kiều trở về từ lễ tảo mộ. Khi đó, mặt trời đã nằm góc núi, ngày hội, niềm vui đã trôi qua.

'Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dan tay ra về.'

Nhịp thơ chậm rãi, diễn tả cuộc sống như dừng lại. Tâm trạng của chị em Thuý Kiều thơ thẩn, cử chỉ nhẹ nhàng, nhịp chân bước dần, không gian yên bình. Công việc tại hoàng hôn trở nên nhỏ bé.

'Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.'

Khe suối chỉ là 'ngọn tiểu khê', phong cảnh thanh thanh, dòng nước 'nao nao uốn quanh'. Sự 'nao nao' không chỉ miêu tả sự nhẹ nhàng của dòng nước mà còn thể hiện tâm trạng bâng khuâng, nuối tiếc, rung động của tâm hồn giai nhân khi hội tan, ngày tàn.

Đoạn thơ được kết cấu theo trình tự thời gian, bốn câu đầu mô tả khung cảnh ngày xuân. Tám câu tiếp theo là về lễ hội. Sáu câu cuối miêu tả cảnh chị em Thuý Kiều trở về. Kết cấu này phản ánh rõ diễn biến tâm trạng của nhân vật trong cảnh xuân. Nhờ đó, người đọc cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên đẹp, là một nét đẹp truyền thống của văn hóa dân tộc Việt Nam.

Hình ảnh minh họa [Nguồn: Internet]

Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc và tăng trải nghiệm khách hàng. Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng liên hệ tổng đài chăm sóc: 1900 2083 hoặc email: [email protected]

Chủ Đề