Chính phủ có tham gia thị trường tiền tệ liên ngân hàng

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng: Việc thị trường TPDN phát triển minh bạch, hiệu quả giúp cân bằng, hài hòa theo hướng vốn ngắn hạn. - Ảnh: VGP

Đây là ý kiến của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng tại Hội nghị phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, chiều 22/4.

Đầy đủ quy định cho thị trường vốn

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng khẳng định: Thị trường vốn và thị trường tiền tệ là hai phân khúc quan trọng của thị trường tài chính, trong đó thị trường tiền tệ [ngắn hạn] thuộc chức năng tổ chức, điều hành của NHNN.

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN với vai trò cơ quan quản lý nhà nước đã kịp thời triển khai các biện pháp quản lý, tạo lập môi trường cho các TCTD tham gia thị trường vốn, bảo đảm an toàn hoạt động. Trên thực tế, khi các TCTD tham gia vào thị trường vốn, ngoài việc phải tuân thủ các quy định pháp luật về lĩnh vực chứng khoán, còn phải tuân thủ các quy định pháp luật chuyên ngành trong lĩnh vực ngân hàng nhằm bảo đảm an toàn hoạt động của các TCTD.

Theo số liệu của UBCKNN, TCTD là nhà đầu tư lớn thứ 2 sau Bảo hiểm xã hội đối với trái phiếu Chính phủ [TPCP], đến cuối năm 2021 tổng quy mô TPCP được hệ thống TCTD nắm giữ khoảng 793.000 tỷ đồng, chiếm 41,86% tổng giá trị TPCP đang được giao dịch trên thị trường. Mặt bằng lãi suất thị trường thấp để hỗ trợ phát hành thành công TPCP.

Tính đến cuối năm 2021, có 41 TCTD tham gia với tổng dư nợ TPDN của hệ thống TCTD là 274.000 tỷ đồng, chiếm 2,63% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống, qua đó, góp phần gia tăng thanh khoản, thúc đẩy thị trường TPDN phát triển. NHNN đã kiểm soát rất chặt chẽ việc TCTD mua TPDN.

Theo đó, quy định TCTD mua, bán TPDN phải có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chỉ được mua TPDN khi TCTD có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%; TCTD chỉ được mua TPDN khi phương án phát hành, sử dụng vốn khả thi, DN phát hành trái phiếu có khả năng tài chính để bảo đảm thanh toán đủ gốc và lãi, DN phát hành không có nợ xấu tại các TCTD trong vòng 12 tháng gần nhất.

Lãnh đạo NHNN: TCTD không được mua TPDN phát hành có mục đích cơ cấu lại các khoản nợ của chính DN phát hành hoặc có mục đích để góp vốn, mua cổ phần tại DN khác - Ảnh: VGP

NHNN cũng quy định rõ: TCTD không được mua TPDN phát hành có mục đích cơ cấu lại các khoản nợ của chính DN phát hành hoặc có mục đích để góp vốn, mua cổ phần tại DN khác, có mục đích để tăng quy mô vốn hoạt động...

Người đứng đầu ngành ngân hàng cho hay: Để đảm bảo phù hợp với Luật Chứng khoán năm 2019 và các Nghị định 153/2020/NĐ-CP, Nghị định 155/202/NĐ-CP của Chính phủ về phát hành TPDN, thời gian qua NHNN đã hoàn thiện cơ sở pháp lý về phát hành trái phiếu của các TCTD. Đồng thời để kiểm soát TCTD đầu tư quá mức vào trái phiếu do TCTD khác phát hành, NHNN cũng bổ sung quy định giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn, áp dụng hệ số rủi ro đối với khoản phải đòi các TCTD.

Ngoài việc tham gia trực tiếp trên thị trường vốn với vai trò nhà đầu tư và nhà phát hành, TCTD còn cho vay đối với các chủ thể tham gia thị trường vốn. Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định: NHNN bám sát chủ trương và chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, luôn quan tâm theo sát diễn biến thị trường chứng khoán [TTCK], ban hành nhiều văn bản chỉ đạo TCTD kiểm soát chặt chẽ việc cấp tín dụng đối với mục đích đầu tư, kinh doanh chứng khoán. 

Sớm khắc phục hạn chế để trở thành kênh vốn trung và dài hạn

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng đánh giá: Thị trường TPDN của Việt Nam có quy mô còn nhỏ so với các nước trong khu vực. Bởi vậy, DN dựa rất nhiều vào vốn tín dụng ngân hàng, kể cả vốn trung, dài hạn.

Thực trạng này đã và đang tạo sức ép và rủi ro lớn cho hệ thống TCTD khi nguồn vốn huy động chủ yếu là ngắn hạn [chiếm khoảng 82% tổng huy động vốn].

Do đó, việc thị trường TPDN phát triển minh bạch, hiệu quả giúp cân bằng, hài hòa theo hướng vốn ngắn hạn, DN sẽ dựa vào hệ thống ngân hàng, vốn trung, dài hạn dựa vào thị trường vốn.

Từ đó giảm rủi ro chênh lệch kỳ hạn, tạo thuận lợi cho hệ thống TCTD phát triển lành mạnh, hiệu quả. DN sẽ chủ động hơn trong việc đầu tư, sản xuất kinh doanh với nguồn vốn trung dài hạn".

Bên cạnh đó, các nhà đầu tư TPDN như các DN bảo hiểm, quỹ đầu tư chứng khoán chưa khẳng định vai trò chủ đạo trên thị trường; hệ thống quỹ hưu trí tự nguyện, các quỹ tương hỗ chưa phát triển, sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường TPDN còn hạn chế.

Trong khi đó, nhà đầu tư cá nhân có xu hướng gia tăng mua, nắm giữ TPDN nhưng khả năng phân tích, đánh giá và quản trị rủi ro khi mua TPDN. Đặc biệt trong bối cảnh thị trường thiếu vắng các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín nên cũng hạn chế đáng kể việc đánh giá và ra quyết định của các nhà đầu tư.

Trong điều kiện thị trường hiện nay, hầu hết TPDN chưa được niêm yết, phát hành riêng lẻ, nhà đầu tư khó nắm bắt thông tin, khả năng thanh khoản thấp, giao dịch trên thị trường thứ cấp còn hạn chế.

Việt Nam chưa có thị trường TPDN chuyên biệt nên khi phát sinh nhu cầu mua, bán TPDN trên thị trường thứ cấp nhà đầu tư và nhà phát hành phải chào mua, chào bán tới từng tổ chức, cá nhân.

Việc xây dựng được thị trường TPDN chuyên biệt theo thông lệ quốc tế đòi hỏi phải hình thành đồng bộ được các yếu tố cấu thành bao gồm cơ sở pháp lý, cơ sở hạ tầng, hệ thống thanh toán, bù trừ chuyên biệt…, từ đó, giúp thị trường TPDN có thể phát triển bền vững trong thời gian tới và hoàn thành mục tiêu cân đối vốn trung dài hạn cho nền kinh tế.

Để phát triển đồng bộ, minh bạch và bền vững thị trường tài chính theo hướng hoạt động an toàn, hiệu quả, có cơ cấu hợp lý, cân đối giữa thị trường tiền tệ, tín dụng với thị trường vốn, lãnh đạo NHNN kiến nghị triển khai một số giải pháp trọng tâm.

Trước tiên, cần phát triển đồng bộ các phân khúc của thị trường tài chính [thị trường trái phiếu, cổ phiếu, chứng khoán phái sinh...] theo hướng tập trung hiện đại hóa công nghệ thông tin và cơ sở hạ tầng phục vụ giao dịch thị trường, đa dạng hóa các nhà đầu tư tham gia thị trường, khuyến khích các quỹ, công ty bảo hiểm tham gia sâu và rộng hơn vào thị trường; thành lập các công ty xếp hạng tín nhiệm uy tín, nâng cao tính công khai, minh bạch của thị trường.

Rà soát, hoàn thiện hành lang pháp lý và triển khai các giải pháp tạo điều kiện phát triển thị trường vốn [trong đó có thị trường TPDN], giảm áp lực tới nguồn vốn tín dụng từ hệ thống các TCTD, nhất là vốn trung, dài hạn. Tăng cường công tác quản lý, thanh tra, giám sát hoạt động của TTCK, trong đó có thị trường TPDN.

Cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ, tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào TTCK.

Về phía DN, cần tiếp tục nâng cao năng lực tài chính, năng lực điều hành, áp dụng chuẩn mực quốc tế về quản trị, hạch toán, kế toán và công bố thông tin trong hoạt động... để tăng niềm tin cho nhà đầu tư, gia tăng mức độ hấp dẫn của trái phiếu, cổ phiếu được phát hành, từ đó nâng cao khả năng huy động vốn trên TTCK.

"Thị trường vốn có sự phát triển tích cực nhưng vẫn còn một số khó khăn, thách thức cần được giải quyết để phát triển bền vững hơn, NHNN sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành để có giải pháp thúc đẩy thị trường phát triển lành mạnh, minh bạch, hiệu quả", Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định.

Tại Hội nghị, ông Phạm Quang Dũng, Chủ tịch HĐQT Vietcombank cho hay: Danh mục đầu tư TPDN chỉ chiếm 1 tỷ trọng nhỏ trong danh mục tín dụng của ngân hàng này. Tại thời điểm 31/3/2022, dư nợ TPDN của ngân hàng này ở mức 11.400 tỷ đồng [khoảng 1% tổng dư nợ cho vay]. Việc đầu tư, giao dịch TPDN của Vietcombank tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật, được quản trị với cùng chuẩn mực như hoạt động cho vay [bao gồm các khâu kiểm soát trước, trong và sau đầu tư], nhằm đảm bảo kiểm soát được dòng tiền và mục đích sử dụng vốn. Toàn bộ dư nợ TPDN của Vietcombank hiện đều được phân loại nợ nhóm 1, các DN phát hành đều kinh doanh hiệu quả và thanh toán đúng hạn. PGS.TS Trần Hoàng Ngân, Đại biểu Quốc hội [TPHCM] cho rằng, cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp huy động vốn qua thị trường chứng khoán sẽ tăng tích tụ vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, giảm áp lực cho hệ thống ngân hàng thương mại, bởi độ sâu tài chính, trong đó vốn tín dụng trên GDP Việt Nam đã đạt đến mức 124% của GDP, cho nên chúng ta cần chia sẻ rủi ro trong cho vay trung và dài hạn của hệ thống ngân hàng thương mại.

Huy Thắng


Thị trường tiền tệ là nơi trao đổi những công cụ tài chính giúp cho các nhà đầu tư tạo điều kiện cho mình phát triển, thanh toán quốc tế, lưu thông hàng hóa.

Thị trường tiền tệ được biết là một trong những thị trường hấp dẫn nhất, tạo điều kiện cho việc chuyển giao các nguồn vốn ngắn hạn từ các đại lý với nguồn vốn dư thừa [tổng công ty, các tổ chức tài chính, cá nhân, chính phủ] tới với những người tham gia trên thị trường mà thiếu vốn có thể nhận được với nhu cầu trong ngắn hạn. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về thị trường tiền tệ.

Thị trường tiền tệ là gì?

Theo Wikipedia, thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, là nơi diễn ra những hoạt động cung - cầu về vốn ngắn hạn. Trong vốn ngắn hạn có cả các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, có kỳ hạn tức là mua bán những món nợ ngắn hạn, mang tính rủi ro thấp, tính thanh khoản cao.

Đọc thêm: Quy định về mua bán ngoại tệ

Đặc điểm

  • Thị trường tiền tệ tồn tại trong các phòng giao dịch, trong các ngân hàng thương mại và ngân hàng trung ương trên thế giới.
  • Thị trường này có tính toàn cầu hóa cho nên hình thức giao dịch của nó thông qua mạng là chính.
  • Thị trường tiền tệ không có quy định, không bị giám sát của bất kỳ những cơ quan, tổ chức nào.
  • Những nghiệp vụ cơ bản trên thị trường tiền tệ: Quyền chọn kỳ hạn, đáo hạn, hoán đổi… Bên cạnh đó còn có những nghiệp vụ khác.
  • Giai đoạn luân chuyển vốn ngắn hạn [không quá một năm]. Công cụ của thị trường tiền tệ là các khoản vay hay các chứng khoán đáo hạn trong vòng một năm.
  • Hình thức tài chính đặc trưng là hình thức tài chính gián tiếp.
  • Đóng vai trò trung gian tài chính giữa người vay và người cho vay là các ngân hàng thương mại.
  • Các công cụ của thị trường tiền tệ có tính thanh khoản cao, cung cấp lợi tức tiết kiệm cho các nhà đầu tư.

Thị trường tiền tệ - vốn ngắn hạn

Chức năng của thị trường tiền tệ

  • Thị trường tiền tệ là một nơi được xem như là “sân chơi” để các nhà đầu tư tạo điều kiện tài chính phát triển, tạo điều kiện cho thuận lợi thanh toán quốc tế, lưu thông hàng hóa. Trọng tâm là cung cấp phương tiện giúp cá nhân và doanh nghiệp nhanh chóng điều chỉnh tình hình thanh khoản thực của họ theo số lượng tiền mong muốn.
  • Thị trường tiền tệ là kênh huy động, đáp ứng được nhu cầu vốn ngắn hạn của các chủ thể trong nền kinh tế.
  • Thông qua việc mua bán các chứng khoán ngắn hạn, ngân hàng Trung Ương điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhằm thực thi chính sách thắt chặt hay nới lỏng tiền tệ để kìm hãm lạm phát hay thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
  • Góp phần ổn định nền tài chính quốc gia.

Chủ thể tham gia thị trường tiền tệ

  • Chính phủ: Tham gia với tư cách là nhà phát hành [KBNN phát hành tín phiếu], nhà quản lý.
  • Ngân hàng Trung Ương: Điều tiết thị trường.
  • Ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính: Vừa thu nhận luồng tiền từ dân cư thông qua kênh tiết kiệm và tiền gửi của khách hàng, phát hành và mua bán lại các giấy tờ có giá, hoặc trên kênh thị trường mở. Đồng thời, chuyển hóa nguồn tiền này cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ gia đình, các cá nhân có nhu cầu vốn kinh doanh dưới hình thức cấp tín dụng. 
  • Doanh nghiệp và tổ chức kinh tế: Tham gia thị trường với tư cách là người có nhu cầu về vốn kinh doanh.
  • Cá nhân, tổ chức đoàn thể xã hội: Các chủ thể hội đủ điều kiện pháp nhân và có thu nhập cũng tham gia thị trường tiền tệ nhằm thỏa mãn các nhu cầu về vốn, giao dịch tiền tệ, mua bán giấy tờ có giá với các ngân hàng thương mại cùng những điều kiện nhất định.

Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ

Tín phiếu kho bạc [Treasury Bills]

Đây là loại chứng khoán nợ ngắn hạn do Nhà nước phát hành nhằm mục đích điều hòa lưu thông tiền tệ, hỗ trợ cho việc cân đối thu chi ngân sách, bù đắp những thiếu hụt tạm thời hoặc mục đích chống lạm phát hay khuyến khích phát triển sản xuất. Đặc điểm của loại chứng khoán ngắn hạn là thời gian đáo hạn dưới một năm, lãi và vốn được trả một lần khi đáo hạn.

Các khoản vay liên ngân hàng

Theo quy định của ngân hàng trung ương, các tổ chức nhận tiền gửi phải có một tỷ lệ dự trữ bắt buộc để đáp ứng nhu cầu rút tiền của những người gửi tiền. Một số tổ chức có thể thừa dự trữ, một số khác lại thiếu. 

Các tổ chức nhận tiền gửi có thể mua bán các khoản dự trữ này trên thị trường liên ngân hàng, bằng cách này có thể tối thiểu hóa được lượng tài sản có tính thanh khoản cao nhưng khả năng sinh lời thấp, như tín phiếu kho bạc.

Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ

Giấy chấp nhận thanh toán của ngân hàng

Đây là giấy bảo đảm rằng một ngân hàng sẽ thanh toán vô điều kiện số tiền mà các nhà nhập khẩu còn thiếu các nhà xuất khẩu. Đến ngày đáo hạn nhà nhập khẩu sẽ trả cho ngân hàng số tiền ghi trên giấy cộng với một khoản phí. Nhà xuất khẩu không nhất thiết phải giữ giấy này cho tới khi đáo hạn mà có thể bán đi với giá chiết khấu để thu tiền trước. Lãi suất của công cụ này tương đối thấp do tính an toàn cao.

Kỳ phiếu thương mại

Kỳ phiếu thương mại sẽ do doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát hành, dùng thay thế cho giấy nợ trả cho các đơn vị hoặc cá nhân cung cấp hàng hóa hay dịch vụ cho doanh nghiệp. Trong thương phiếu có quy định thời hạn trả nợ và lãi suất đến kỳ hạn sẽ được đơn vị trả cả vốn lẫn lãi.

Tìm hiểu thêm: Kỳ phiếu là gì?

Kỳ phiếu ngân hàng [Bank Bills], Tín phiếu công ty tài chính, Chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm

Đây là các loại chứng khoán ngắn hạn thường từ 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng đến 12 tháng, được ngân hàng thương mại và công ty tài chính phát hành nhằm huy động vốn, rồi dùng vốn đó cho vay [chủ yếu là ngắn hạn].

Xem thêm: Điều kiện phát hành chứng chỉ tiền gửi

Những công cụ trên thị trường tiền tệ đều có đặc điểm có tính rủi ro, mức độ dao động giá thấp và do đó đầu tư vào các công cụ này sẽ có ít rủi ro hơn.

Nhìn vào quá trình phát triển thì ta có thể thấy thị trường tiền tệ biểu hiện mối quan hệ điều tiết vốn giữa các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng. Nơi mà mọi người có thể trao đổi, mua bán, đóng vai trò trung tâm trong hệ thống tài chính của đất nước.

Video liên quan

Chủ Đề