Chiếc mắt kính đầu tiên ra đời vào năm nào năm 2024

hoặc chất dẻo (cứng hoặc dẻo), phần cuối được uốn cong để lên vành tai. Giá đỡ có hai miếng đệm cao su, để gác lên sống mũi.Tròng kính được làm bằng chất dẻo cứng, thay cho thủy tinh được sử dụng trước đó. Chất dẻo có các đặc tính tốt như tránh nguy hiểm do các mảnh vỡ, xác định được độ chính xác hơn (cho các tật khúc xạ), với tiêu chuẩn tốt hơn hầu hết các loại thủy tinh. Nhẹ hơn tròng bằng thủy tinh, có thể làm cho tròng kính mỏng hơn tùy kĩ thuật. Có nhiều loại plastic khác nhau. Có các loại: loại chống tia cực tím, loại chống trầy xước và loại có cả hai đặc tính trên. Tròng kính được gắn vào gọng nhờ một sợi dây cước trắng và gọng được xiết chặt giữ hai tròng kính nhờ hai con đinh vít.

Nguồn gốc Hình dạng ban đầu của kính mắt được xác định đơn giản chỉ là một thấu kính bằng thạch anh được tìm thấy trong di chỉ khảo cổ ở Iraq. Tuy nhiên, những chiếc kính mắt thực sự được ghi nhận đầu tiên vào năm 1260. Cuối thế kỉ 12, kính đã xuất hiện ở Trung Quốc và châu Âu. Thấu kính của Trung Quốc kích thước to hình tròn được lồng vào khung bằng mai rùa đen với chân gọng kính bằng đồng kẹp vào búi tóc.Thời kì đầu kính đeo mắt là loại kính đơn khi dùng thì cầm trên tay. Kính chỉ được dùng cho những người có địa vị trong xã hội chứ không nhằm mục đích để tăng thị lực.

Thế kỉ 13, kính mới được dùng rộng rãi ở châu Âu. Trong một bức vẽ của Tommaso da Modena vào năm 1352 có mô tả Hồng y Hugh de Provence đeo kính mắt. Bấy giờ, thiết kế của kính đeo mắt chỉ gồm 2 mắt kính nối với nhau bằng một gọng cứng đè lên đầu mũi, hai bên có dây đeo vào lỗ tai.Năm 1748, Benjamin Franklin phát minh ra loại kính có 2 tiêu điểm, mà ngày nay được biết đến với tên gọi kính 2 tròng (bifocal). Năm 1887, kính áp tròng ra đời.Năm 1730, một chuyên gia quang học ở Luân Đôn sáng chế ra hai càng (ngày nay gọi là gọng kính) để mắt kính gá vào một cách chắc chắn.

Các loại kính Có rất nhiều loại kính mắt: kính thuốc, kính râm, kính bơi, kính thợ hàn, kính trắng không số, kính thời trang v.v...

Kính thuốc: chỉ định cho người mắc tật khúc xạ (Cận thị, Viễn thị, Loạn thị, Lão thị). Đơn kính phải do thầy thuốc nhãn khoa chỉ định sau khi đã tiến hành khám mắt toàn diện.

Ngày nay chiếc kính đã trở lên quen thuộc với tất cả mọi người. Nó được dùng để hỗ trợ tầm nhìn cho những người bị tật về khúc xạ, một công cụ giúp hỗ trợ bảo vệ mắt hay cũng là một món phụ kiện thời trang không thể thiếu cho những tín đồ làm đẹp. Nhưng lịch sử của chiếc kính không phải lúc nào cũng theo cách nhìn này.

Sự phát triển của kính như một phương pháp điều trị phổ biến cho thị lực không hoàn hảo đã mất hàng thế kỷ, với nhiều nhà đổi mới xuất sắc đã mở đường cho thị lực hoàn hảo mà bạn có được ngày nay. Bạn đã bao giờ tự hỏi về công nghệ cơ bản đằng sau kính đeo mắt? Dưới đây là sơ lược về lịch sử hiện cho phép hàng triệu người đọc, lái xe, phẫu thuật và bắn súng chính xác.

Chiếc mắt kính đầu tiên ra đời vào năm nào năm 2024

CHIẾC KÍNH ĐẦU TIÊN

Còn nhiều điều chưa rõ về lịch sử cũng như ai là người phát minh ra chiếc kính đầu tiên. Tuy nhiên, người La Mã lần đầu tiên phát hiện ra khả năng sử dụng kính để nâng cao khả năng nhìn thấy văn bản nhỏ của họ, tạo ra kính lúp nhỏ có hình cầu.

Những chiếc kính đeo đầu tiên được biết đến trong lịch sử xuất hiện ở Ý vào thế kỷ 13. Các thấu kính thổi bằng thủy tinh ban đầu được đặt vào gọng gỗ hoặc da (hoặc đôi khi, gọng làm từ sừng động vật) và sau đó được giữ trước mặt hoặc đặt lên mũi. Chủ yếu được sử dụng bởi các nhà sư, chúng ngày càng phổ biến và công nghệ được cải thiện qua thời kỳ Phục hưng.

Tác phẩm nghệ thuật vẫn là minh chứng tốt nhất cho việc những chiếc kính này tồn tại, vì những bức tranh thời kỳ đầu thời Phục hưng đôi khi mô tả các học giả sử dụng khung cầm tay hoặc kính kiểu nửa viền.

Máy thổi thủy tinh sẽ tạo ra các thấu kính có độ dày khác nhau dựa trên việc kiểm tra thị lực thô sơ. Khi những chiếc kính này trở nên phổ biến hơn, những sáng tạo của người Ý đã lan rộng khắp châu Âu, hầu hết dành cho những người giàu có. Bởi vì học thức là một thuộc tính được đánh giá cao trong thời kỳ Phục hưng, kính là biểu tượng địa vị của sự thông minh và thịnh vượng.

Chiếc mắt kính đầu tiên ra đời vào năm nào năm 2024

Công nghệ có thể đã trì trệ trong vài thế kỷ, bức tranh lịch sử rõ ràng tiếp theo về kính đeo mắt xuất hiện trong những năm 1700. Kính ngày càng trở nên “tiện dụng” với sự phát triển của gọng kính để kéo dài qua tai.

Có lẽ nổi tiếng nhất trong số những chiếc kính hiện đại hơn này bao gồm “Martin’s Margins”, chiếc kính được phát triển bởi nhà phát minh Benjamin Martin. Ngày nay, những chiếc kính này được bán dưới dạng đồ sưu tập, nhưng chúng đã đi tiên phong trong việc theo đuổi sự phát triển thấu kính chính xác hơn và thấu kính mỏng hơn được hỗ trợ bởi gọng kính bền.

Chiếc mắt kính đầu tiên ra đời vào năm nào năm 2024

NHỮNG CỘT MỐC VỀ SỰ PHÁT TRIỂN

Sau sự đổi mới “qua tai”, những phát triển mới với kính bắt đầu tăng tốc. Benjamin Franklin đã thêm vào tính linh hoạt của kính bằng cách phát minh ra thấu kính hai tròng, cho phép một người bị cả cận và viễn thị có thể sử dụng một cặp kính thay vì hai kính. Lúc đầu, anh ấy làm điều này bằng cách cắt đôi ống kính và ghép chúng lại với nhau thành một khung hình.

Một phong cách khác nổi bật trong thời gian này là “kính cắt kéo.” Đây là những chiếc kính có thể được cất trong túi và lấy ra khi cần thiết để xem một điều gì đó quan trọng. Một số nam giới không thích đeo kính toàn thời gian, vì vậy đây là câu trả lời: kính bỏ túi có thể gấp lại trên bản lề như một chiếc kéo.

Khi thế kỷ 19 bắt đầu, kính vẫn được làm thủ công và không phải ai cũng có thể sử dụng được. Nhưng cuộc cách mạng công nghiệp đã đến gần, và việc sản xuất hàng loạt cả gọng kính và tròng kính đã giúp những người đàn ông và phụ nữ đi làm dễ dàng có được hiệu chỉnh mắt cần thiết.

Đầu những năm 1800 cũng chứng kiến ​​sự ra đời của thấu kính hình trụ đặc biệt để điều chỉnh chứng loạn thị.

Chiếc mắt kính đầu tiên ra đời vào năm nào năm 2024

NHỮNG ĐỔI MỚI HIỆN ĐẠI

Với công nghệ thấu kính và việc kê đơn chính xác ngày càng trở nên hợp lý hơn trong suốt những năm 1800, những năm 1900 đã chứng kiến ​​xu hướng làm cho kính thời trang và phong cách. Gọng kính với các hình dạng, chất liệu và màu sắc khác nhau đã có sẵn cho những ai muốn kính phù hợp với hình dạng khuôn mặt, màu mắt hoặc trang phục của họ.

Ví dụ, Theodore Roosevelt đeo kính pince-nez, không có tai nghe mà thay vào đó là cố định với một chiếc kẹp mũi. Những chiếc kính này khá phổ biến vào đầu thế kỷ này, nhưng đã không còn hợp thời khi chúng trở nên gắn liền với các thế hệ cũ.

Đáng chú ý nhất, phong cách thay đổi do sự sẵn có và phát triển của chất dẻo mạnh mẽ. Tất cả kính không còn cần phải được làm bằng gỗ, kim loại hoặc gọng sừng nữa. Nhựa có thể được đúc thành nhiều hình dạng và kích cỡ.

Thế kỷ 20 cũng chứng kiến ​​sự lên ngôi của kính râm. Mặc dù kính râm lần đầu tiên được đổi mới ở Trung Quốc vào thế kỷ 12, nhưng chúng không phải để bảo vệ thị lực hay ánh nắng mặt trời. Thay vào đó, chúng được sử dụng để che khuất mắt các thẩm phán trước tòa để không ai có thể xác định được biểu hiện của chúng.

Các nhà sản xuất kính khác đã thử nghiệm với các thấu kính màu, nhưng chúng lại không phải để bảo vệ. Chỉ vào những năm 1900, kính râm màu mới bắt đầu được sử dụng cho các trường hợp nhạy cảm với ánh sáng do các tình trạng bệnh lý gây ra. Mốt này lan rộng ra ngoài ứng dụng y tế, và bắt đầu từ năm 1929, kính râm được sản xuất hàng loạt để chống nắng và giảm độ chói.