Bài tập làm văn kể chuyện lớp 4

Giải bài tập trang 124 SGK Tiếng Việt 4 tập 1 - Tuần 12

Tập làm văn lớp 4: Kể chuyện [Kiểm tra viết] giúp các em học sinh lớp 4 tham khảo, nhanh chóng trả lời câu hỏi SGK Tiếng Việt Lớp 4 tập 1 trang 124 để chuẩn bị cho bài kiểm tra viết thật tốt. Đồng thời, cũng giúp thầy cô tham khảo để soạn giáo án cho học sinh của mình.

Ngoài ra, có thể tham khảo thêm bài Tập đọc "Vua tàu thủy" Bạch Thái Bưởi, Vẽ trứng của Tuần 12. Vậy mời thầy cô cùng các em học sinh tham khảo nội dung chi tiết trong bài viết dưới đây của Download.vn nhé:

Tập làm văn: Kể chuyện - Tuần 12

Kể một câu chuyện em đã được nghe hoặc được đọc về một người có tấm lòng nhân hậu.

Trả lời:

Ngày xưa, không rõ vào thời nào, ở xã Nam Mẫu thuộc tỉnh Bắc Cạn, người ta mở hội cúng Phật để cầu phúc. Bỗng xuất hiện một bà lão ăn xin, thân thể gầy còm như que sậy, lại còn bị lở lói như người bị bệnh hủi. Đi đến đâu bà cũng bị xua đuổi.

May sao, bà gặp được hai mẹ con bà goá vừa đi chợ về. Hai mẹ con thương tình đưa cụ về nhà, lấy cơm cho ăn rồi nghỉ lại. Khuya hôm ấy, hai mẹ con bà goá chợt tỉnh dậy, thấy chỗ của bà lão ăn xin sáng rực lên. Một con giao long to lớn đang cuộn mình, đầu gác lên xà nhà, đuôi thò xuống đất. Hai mẹ con rụng rời kinh hãi, đành nằm im phó mặc cho số phận. Sáng hôm sau tỉnh dậy, họ không thấy giao long đâu. Trên giường vẫn là bà cụ ăn xin. Khi sửa soạn ra đi bà nói "vùng này sắp có lụt lớn, ta cho hai mẹ con chị gói tro này, nhớ rắc xung quang nhà mới tránh được nạn". Người mẹ liền hỏi: "Thưa cụ, vậy làm thế nào để cứu được mọi người khỏi chết chìm?" Bà cụ nhặt một hạt thóc cắn vỡ làm đôi đưa cho hai mẹ con vỏ trấu và bảo: "Cái này sẽ giúp hai mẹ con nhà chị làm việc thiện". Nói rồi cụ vụt biến mất.

Tối hôm đó, đám hội đang náo nhiệt bỗng có một cột nước từ dưới đất phun lên rất mạnh nhấn chìm tất cả trong biển nước. Chỉ có ngôi nhà của hai mẹ con là khô ráo. Hai mẹ con liền lấy hai mảnh vỏ trấu đặt xuống nước. Chúng biến thành hai chiếc thuyền để họ cứu người bị nạn. Ngày nay, chỗ đất bị sụt ấy là hồ Ba Bể, còn nền nhà của hai mẹ con thành hòn đảo giữa hồ. Người địa phương gọi là gò Bà Goá.

Qua câu chuyện trên em thấy hai mẹ con bà goá là người có tấm lòng thương người.

>> Tham khảo: Kể câu chuyện về người có tấm lòng nhân hậu

Kể lại câu chuyện Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca bằng lời của cậu bé An-đrây-ca.

Trả lời:

Ông tôi đã yên nghỉ lâu rồi nhưng tôi thì cứ nhớ mãi, nhớ về hình ảnh của ông từ những ngày nào. Và có lẽ, nhớ nhất trong tôi là những ngày cuối đời của ông, ngày ấy đã để lại trong lòng tôi một nỗi dằn vặt ray rứt khôn nguôi.

Hồi ấy, tôi sống với mẹ và ông. Năm tôi lên chín thì ông tôi đã chín mươi sáu tuổi.

Một buổi chiều nọ, ông tôi rất yếu. Ông nói với mẹ tôi:

- Bố khó thở lắm!

Nghe ông nói vậy, mẹ sai tôi đi mua thuốc, còn mẹ ở nhà canh chừng ông. Tôi vội chạy đi ngay nhưng dọc đường gặp mấy đứa bạn ở xóm chơi đá bóng rủ tôi nhập cuộc. Tôi thích quá nên quên hẳn lời mẹ dặn. Những pha bóng quyết liệt đã làm tôi không nhớ đến người ông đang bị bệnh. Chơi bóng một lúc, tôi chợt nhớ đến việc đi mua thuốc cho ông nên liền chạy đến cửa hàng mua thuốc, sau đó tôi chạy một mạch về nhà. Bước vào phòng ông nằm, tôi hoảng hốt thấy mẹ khóc nấc lên. Thì ra ông tôi đã tắt thở. Tôi nghẹn ngào nhìn ông rồi òa lên khóc. Tôi kể lại sự vô tâm của mình cho mẹ nghe. Mẹ an ủi tôi:

- Không, con không có lỗi, chẳng thuốc nào cứu ông được. Ông đã ngừng thở từ khi con ra khỏi nhà.

Nghe mẹ nói thế nhưng tôi luôn dằn vặt trong lòng. Chỉ vì tôi ham mê bóng đá, mua thuốc về chậm nên ông mất. Cả đêm đó, tôi ngồi khóc rấm rức dưới gốc cây táo do tay ông vun trồng. Mãi bây giờ, tôi đã lớn khôn và vẫn luôn tự trách mình:

- Giá như tôi đừng ham chơi, mua thuốc về kịp thì ông tôi còn sống thêm được ít năm nữa.

Dù dằn vặt và nghiêm khắc với lỗi lầm của bản thân mình thì ông tôi cũng không còn sống nữa. Tôi đã rút ra bài học đầu đời thật cay đắng.

>> Tham khảo: Kể câu chuyện Nỗi dằn vặt của An-drây-ca

Kể lại câu chuyện "Vua tàu thủy" Bạch Thái Bưởi bằng lời của một chủ tàu người Pháp hoặc người Hoa.

Trả lời:

Tôi là một chủ tàu người Pháp và đã từng có mệnh danh là “Vua tàu thủy" nhưng tôi đã nhường mệnh danh ấy cho một bậc “anh hùng kinh tế" cùng thời. Bậc anh hùng đó là Bạch Thái Bưởi - một con người giàu ý chí và nghị lực. Phẩm chất này đã tôn anh lên ngôi vua mà tôi đã ngưỡng mộ - “Vua tàu thủy” Bạch Thái Bưởi.

Anh mồ côi cha từ bé, phải theo mẹ quẩy gánh hàng rong. Nhờ khôi ngô tuấn tú nên đã được nhà họ Bạch nhận làm con nuôi và cho ăn học.

Năm 21 tuổi, Bạch Thái Bưởi làm thư kí cho một hãng buôn. Sau một thời gian ngắn, anh đứng ra kinh doanh độc lập. Anh mở tiệm buôn gỗ, buôn ngô, mở tiệm cầm đồ, lập nhà in, khai thác mỏ... Có lúc anh mất trắng tay, sản nghiệp không còn nhưng anh không nản chí. Anh tiếp tục làm lại. gây dựng lại cơ nghiệp của mình.

Bạch Thái Bưởi mở công ty vận tải đường thủy vào lúc những con tàu của người Hoa đã độc chiếm các đường sông miền Bắc.

Thấy vậy, tôi thầm nghĩ:

- Anh ta chỉ sống được non tháng thôi. Khách đâu mà chở?

Nhưng tôi đã nhầm. Bạch Thái Bưởi cho người đến các bến tàu diễn thuyết. Trên mỗi chiếc tàu, anh đều dán dòng chữ “Người ta thì đi tàu ta”. Anh còn treo một cái ống để khách nào đồng tình với anh thì vui lòng bỏ ống tiếp sức cho chủ tàu. Lúc ấy, tôi đã hình dung sự thất bại của mình. Đúng như dự đoán, khách đi tàu tôi mỗi ngày một ít. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc của khách đi tàu đã ủng hộ anh. Khách đi tàu của anh mỗi ngày một đông. Tiền đồng, tiền hào, tiền xu của khách đã tiếp sức ủng hộ anh. Còn tôi thì bị thua lỗ. Cuối cùng tôi phải bán tàu lại cho anh ấy. Anh đã phát triển thịnh vượng hơn. Anh có đến ba mươi chiếc tàu lớn nhỏ, mỗi chiếc tàu đều mang những cái tên lịch sử như Lạc Long, Hồng Bàng, Trưng Trắc, Trưng Nhị,... Anh còn mua nhiều xưởng sửa chữa tàu, mỗi xưởng đều có kĩ sư giỏi trông nom.

Với ý chí vươn lên, Bạch Thái Bưởi nhanh chóng trở thành bậc anh hùng kinh tế. Anh như một vị vua trong giới doanh nhân phục vụ đường biển.

Tôi thật khâm phục ý chí, nghị lực và cách làm việc của anh.

>> Tham khảo: Kể câu chuyện Vua tàu thủy

Cập nhật: 26/10/2021

Giải bài tập trang 53 SGK Tiếng Việt 4 tập 1 - Tuần 5

Tập làm văn lớp 4: Đoạn văn trong bài văn kể chuyện giúp các em học sinh tham khảo, trả lời câu hỏi SGK Tiếng Việt Lớp 4 tập 1 trang 53, 54 thật tốt.

Qua đó thầy cô cũng dễ dàng tham khảo để soạn bài cho học sinh của mình. Vậy mời thầy cô và các em cùng theo dõi nội dung chi tiết trong bài viết dưới đây của Download.vn:

Tập làm văn: Đoạn văn trong bài văn kể chuyện - Tuần 5

Hãy nêu những sự việc tạo thành cốt truyện Những hạt thóc giống. Cho biết mỗi sự việc được kể trong đoạn văn nào.

Trả lời:

* Những sự việc tạo thành cốt truyện Những hạt thóc giống.

  • Nhà vua muốn tìm người trung thực để truyền cho ngôi báu mới nghĩ ra kế: luộc kĩ thóc giống rồi phát cho dân chúng, giao hẹn: ai thu hoạch được nhiều thóc thì sẽ truyền cho ngôi báu
  • Chú bé Chôm dốc nhiều công sức chăm sóc mà thóc chẳng nảy mầm đã dám tâu sự thật trước sự kinh ngạc của mọi người.
  • Nhà vua khen ngợi chú bé Chôm trung thực và dũng cảm nên đã quyết định truyền ngôi báu cho Chôm

* Những sự việc đó tương ứng với các đoạn văn như sau:

  • Sự việc 1 được kể trong đoạn 1 [3 dòng đầu].
  • Sự việc 2 được kể trong đoạn 2 [10 dòng tiếp]
  • Sự việc 3 được kể trong đoạn 3 [4 dòng cuối].

Câu 2

Dấu hiệu nào giúp em nhận ra chỗ mở đầu và chỗ kết thúc của đoạn văn?

Trả lời:

Dấu hiệu giúp em nhận ra chỗ mở đầu và kết thúc đoạn văn.

  • Chỗ mở đầu đoạn văn là chỗ đầu dòng, viết lùi vào một ô.
  • Chỗ kết thúc đoạn văn là chỗ chấm xuống dòng.

Câu 3

Từ hai bài tập trên, hãy rút ra nhận xét:

a] Mỗi đoạn văn trong bài văn kể chuyện kể điều gì?

b] Đoạn văn được nhận ra nhờ dấu hiệu nào?

Trả lời:

Từ hai bài tập trên, rút ra nhận xét.

  • Mỗi đoạn văn trong bài văn kể chuyện kể một sự việc trong một chuỗi sự việc làm nòng cốt cho diễn biến của truyện.
  • Hết một đoạn văn cần chấm xuống dòng.

Hướng dẫn giải phần Luyện tập SGK Tiếng Việt 4 tập 1 trang 54

Dưới đây là ba đoạn văn được viết theo cốt truyện Hai mẹ con và bà tiên, trong đó hai đoạn đã hoàn chỉnh, còn một đoạn mới chỉ có phần mở đầu và phần kết thúc. Hãy viết tiếp phần còn thiếu.

a] Ngày xưa, ở làng kia, có hai mẹ con cô bé sống trong một túp lều.

Họ phải làm lụng vất vả quanh năm mới đủ ăn.

b] Một hôm, người mẹ không may bị bệnh nặng. Cô bé ngày đêm chăm sóc mẹ, nhưng bệnh mẹ mỗi ngày một nặng thêm. Có người mách :

- Ở vùng bên có ông thầy thuốc giỏi chữa được bệnh này.

Cô bé nhờ bà con hàng xóm trông nom mẹ, ngày hôm ấy lên đường.

c] Vừa đi, cô bé hiếu thảo vừa lo mấy đồng bạc mang theo không đủ trả tiền thuốc cho mẹ. Bỗng cô thấy bên đường có vật gì như chiếc tay nải ai bỏ quên.

....

Bà lão cười hiền hậu :

- Khen cho con đã hiếu thảo lại thật thà. Ta chính là tiên thử lòng con đấy thôi. Con thật đáng được giúp đỡ. Hãy đưa ta về nhà chữa bệnh cho mẹ con.

Trả lời:

Phần còn thiếu viết tiếp:

Có thể bổ sung phần còn thiếu vào đoạn văn cho hoàn chỉnh như sau:

Vừa đi, cô bé hiếu thảo vừa lo mấy đồng bạc mang theo không đủ trả tiền thuốc cho mẹ. Bỗng cô thấy bên đường có vật gì như chiếc tay nải ai bỏ quên. Chiếc tay nải có vẻ nặng lại mở miệng. Ôi! Những thỏi vàng lấp lánh bên trong chiếc tay nải. Cách đó không xa có một bà lão đang bước vội. Cô bé đoán bà là chủ chiếc tay nải nên chạy theo gọi và hỏi:

- Bà ơi! Bà đánh rơi chiếc tay nải này. Nó rơi xuống đường mà bà không hay phải không?

Bà lão cười hiền hậu:

- Khen cho con đã hiếu thảo lại thật thà. Ta chính là tiên thử lòng con đấy thôi. Con thật đáng được giúp đỡ. Hãy đưa ta về nhà chữa bệnh cho mẹ con.

Cập nhật: 13/08/2021

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề