10 tổ chức tài chính hàng đầu ở Mỹ năm 2022

Cục Dự trữ Liên bang (Hoa Kỳ)
10 tổ chức tài chính hàng đầu ở Mỹ năm 2022
10 tổ chức tài chính hàng đầu ở Mỹ năm 2022
Con dấu chính thức Lá cờ chính thức
Trụ sở Eccles Building, Washington, D.C.
Thành lập 23 tháng 12 năm 1913 (108 năm trước)
Thống đốc Jerome Powell
Ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ
Tiền tệ Đô la Mỹ
ISO 4217 Code USD
Lãi suất ngân hàng0.15% tới 1.25%[1]
Trang mạng http://www.federalreserve.gov/

10 tổ chức tài chính hàng đầu ở Mỹ năm 2022

Tòa nhà Marriner S. Eccles, trụ sở Cục Dự trữ Liên bang

Cục Dự trữ Liên bang (tiếng Anh: Federal Reserve System – Fed) hay Ngân hàng Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ là ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ. Bắt đầu hoạt động năm 1913 theo "Đạo luật Dự trữ Liên bang" của Quốc hội Hoa Kỳ thông qua ngày 23 tháng 12 năm 1913, chủ yếu là để phản ứng với một loạt các hoảng loạn tài chính, đặc biệt là đợt hoảng loạn nghiêm trọng năm 1907.[2][3][4][5][6][7]

Theo thời gian, các vai trò và nhiệm vụ của Fed đã được mở rộng và cấu trúc của nó đã thay đổi.[3][8] Các sự kiện như Đại suy thoái thập niên 1930 là các nhân tố chính dẫn đến các thay đổi hệ thống.[9]

Quốc hội Hoa Kỳ thiết lập 3 mục tiêu chính cho chính sách tiền tệ trong Đạo luật dự trữ Liên bang: Việc làm tối đa, giá cả ổn định, và lãi suất dài hạn vừa phải.[10] Hai mục tiêu đầu đôi khi được gọi là nhiệm vụ kép của Cục dự trữ liên bang.[11] Nhiệm vụ của cơ quan này đã được mở rộng trong những năm qua, và đến thời điểm năm 2009 cũng bao gồm việc giám sát và điều tiết ngân hàng, duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính và cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức lưu ký, Chính phủ Hoa Kỳ, và các tổ chức chính thức nước ngoài.[12] Fed tiến hành nghiên cứu nền kinh tế và phát hành các ấn phẩm, chẳng hạn như sách Beige.

Cục dự trữ liên bang (viết tắt là Fed) Hội đồng thống đốc hay Ban dự trữ Liên bang được Tổng thống Hoa Kỳ bổ nhiệm, một Ủy ban thị trường mở Liên bang được Tổng thống Mỹ bổ nhiệm một phần, 12 Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực tọa lạc ở các thành phố khác nhau ở Mỹ, một số ngân hàng thành viên Hoa Kỳ sở hữu tư nhân và nhiều hội đồng tư vấn.[13][14][15] Chính phủ liên bang ấn định mức lương của bảy thống đốc của Hội đồng. Các ngân hàng thương mại điều lệ quốc gia được yêu cầu phải nắm giữ cổ phiếu tại Ngân hàng Dự trữ Liên bang khu vực của họ, mà mang cho họ quyền được bầu một số thành viên hội đồng quản trị của họ. Ủy ban thị trường mỏ Liên bang hoạch định chính sách tiền tệ và Ủy ban này bao gồm tất cả bảy thành viên của Hội đồng thống đốc và mười hai Chủ tịch ngân hàng khu vực, mặc dù chỉ có năm Chủ tịch ngân hàng bỏ phiếu tại bất kỳ thời gian nhất định: chủ tịch của New York Fed và bốn người khác luân phiên các nhiệm kỳ một năm. Vì vậy, các hệ thống dự trữ liên bang có cả hai thành phần tư nhân và công cộng phục vụ lợi ích của công chúng và các ngân hàng tư nhân.[16][17][18][19] Cấu trúc này được xem là duy nhất trong số các ngân hàng trung ương. Cũng bất thường ở chỗ Bộ ngân khố Hoa Kỳ, một thực thể bên ngoài của các ngân hàng trung ương, tạo ra những tiền tệ được sử dụng.[20] Fed xem Hệ thống Dự trữ Liên bang là "một ngân hàng trung ương độc lập bởi vì các quyết định chính sách tiền tệ không cần phải phê chuẩn bởi Tổng thống hoặc bất cứ ai khác trong các ngành hành pháp hay lập pháp của chính phủ, nó không nhận được kinh phí được Quốc hội Hoa Kỳ phân bổ, và các nhiệm kỳ của các thành viên Hội đồng quản trị trải dài qua nhiều nhiệm kỳ Tổng thống và quốc hội."[21]

Chính phủ Hoa Kỳ nhận được tất cả các lợi nhuận hàng năm của hệ thống, sau khi chia cổ tức theo luật định là 6% trên vốn đầu tư ngân hàng thành viên được trả tiền, và thặng dư tài khoản được duy trì. Trong năm 2010, Fed đã lãi 82 tỷ $ và chuyển 79 $ tỷ cho Kho bạc Mỹ.[22]

Lịch sử ra đời và hình thành[sửa | sửa mã nguồn]

Trong khoảng thời gian từ 1862 đến 1913, hệ thống ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ được hình thành theo Đạo luật Ngân hàng quốc gia 1863. Một loạt các biến động trong lĩnh vực ngân hàng ở Hoa Kỳ vào các năm 1873, 1893 và 1907 cho thấy một hệ thống ngân hàng trung ương là cần thiết để điều phối thị trường.

Sau cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng năm 1907, Quốc hội Hoa Kỳ thành lập "Ủy ban tiền tệ quốc gia" với nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cải cách hệ thống ngân hàng. Nelson Aldrich – người đứng đầu đảng Cộng hòa ở quốc hội đồng thời là chuyên gia tài chính, được chỉ định là Chủ tịch Ủy ban. Ông chỉ đạo một cuộc khảo sát tường tận các ngân hàng trung ương Châu Âu và nhận thấy rằng Anh và Đức là hai nước có các ngân hàng trung ương ưu việt hơn hẳn. Năm 1910, Nelson Aldrich tìm kiếm sự giúp đỡ từ các ngân hàng hàng đầu của Hoa Kỳ với mong muốn dự thảo một kế hoạch hoàn chỉnh, xây dựng cho Hoa Kỳ một hệ thống tài chính tiên tiến như của Anh và Đức. Ông cùng các chuyên viên đại diện của các định chế tài chính lớn khi đó là J.P. Morgan, Rockefeller, và Kuhn, Loeb và Công ty, dành riêng một tuần thảo luận tại đảo Jekyll (ngoài khơi bang Georgia). Đại diện của Kuhn, Loeb và Công ty là Paul Warburg (chuyên gia tài chính gốc Đức) chủ trì việc xác lập những ý cơ bản của Đạo luật Dự trữ liên bang. Aldrich sau đó giới thiệu kế hoạch của ông về ngân hàng trung ương với tên "dự luật Aldrich", đề xuất thành lập "Tổ chức Dự trữ liên bang" (Federal Reserve Association). Dự luật này trở thành một phần trong chính sách của đảng Cộng hòa ở Quốc hội nhưng không được phê chuẩn năm 1911 khi đa số quốc hội thuộc về đảng Dân chủ.

Năm 1913, Tổng thống đảng Dân chủ Woodrow Wilson phải tác động để kế hoạch của Aldrich được thông qua dưới sự đỡ đầu của thế lực đảng Dân chủ với tên mới là "Đạo luật Dự trữ liên bang". Frank Vanderlip, người đã tham gia hội nghị ở đảo Jekyll và là chủ tịch National City Bank viết trong tự truyện của mình rằng "mặc dù kế hoạch về Quỹ dự trữ liên bang của Aldrich đã không được thông qua với cái tên của chính ông, nhưng những điểm cơ bản của nó đều nằm trong dự luật sau này được thông qua". Tổng thống Wilson đã giành ưu thế trước William Jennings Bryan, người đứng đầu phe ủng hộ nông nghiệp trong đảng. Những người thuộc phe này muốn có ngân hàng trung ương của chính phủ mang đặc quyền in ấn và phát hành giấy bạc mỗi khi Quốc hội cần. Woodrow Wilson thuyết phục rằng giấy bạc của Cục dự trữ liên bang chính là nghĩa vụ của chính phủ, do đó chương trình này phù hợp mong muốn của họ. Những nghị sĩ đại diện miền nam và miền tây được tổng thống thuyết phục rằng hệ thống mới ra đời sẽ phân tán ở 12 vùng và sẽ giảm quyền lực của New York, tăng quyền lực cho các vùng nội địa. (Trên thực tế, Ngân hàng dự trữ liên bang chi nhánh New York trở thành "số một" trong các Ngân hàng dự trữ liên bang. Ví dụ, nó có đặc quyền tiến hành các hoạt động trên thị trường (phát hành trái phiếu, v.v..) dưới sự chỉ đạo của Ủy ban thị trường của Fed). Carter Glass, nghị sĩ đảng Dân chủ ủng hộ nhiệt liệt dự luật và mang về cho Richmond, Virginia quê ông một Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Bang Missouri có tới hai Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực nhờ James A. Reed (đảng Dân chủ).

Quốc hội thông qua "Đạo luật Dự trữ liên bang" cuối năm 1913. Paul Warburg và các chuyên gia xuất sắc khác được chỉ định điều hành hệ thống non trẻ. Fed đi vào hoạt động năm 1915 và đóng vai trò chủ chốt tài trợ các nỗ lực chiến tranh của Mỹ và phe liên minh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Tháng 7 năm 1979, Paul Volcker được tổng thống Jimmy Carter chỉ định là Chủ tịch Hội đồng thống đốc của Cục dự trữ liên bang khi lạm phát đang gia tăng trầm trọng. Dưới sự lãnh đạo của Paul Volcker, các biện pháp kiểm soát lạm phát đã có hiệu quả và tỷ lệ lạm phát đã giảm nhanh chóng trước năm 1986.

Tháng 1 năm 1987, khi chỉ số lạm phát hàng tiêu dùng chỉ là 1%, Fed tuyên bố không còn sử dụng tổng cung tiền tệ M2 làm định hướng kiểm soát lạm phát nữa mặc dù phương pháp này đã rất thành công từ 1979. Trước 1980, lãi suất được sử dụng làm định hướng và lạm phát khi đó rất cao. Việc sử dụng chỉ số tổng cung tiền tệ M2 thay thế lãi suất làm định hướng rất thành công, nhưng Paul Volcker cho rằng nó dễ gây nhầm lẫn.

Tháng 8 năm 1987, 07 tháng sau khi thay đổi chính sách tổng cung tiền tệ, Alan Greenspan thay thế Volcker trên cương vị Chủ tịch Hội đồng thống đốc. Và rồi sau 19 năm lãnh đạo Fed rất thành công, huyền thoại của ngành tài chính thế giới, Alan Greenspan nghỉ hưu và chỉ định người kế tục mình, Ben Bernanke.

Tính pháp lý và vị trí trong chính quyền[sửa | sửa mã nguồn]

Các bộ phận của Cục dự trữ liên bang (Fed) có tư cách pháp lý khác nhau.

Hội đồng Thống đốc của Fed là cơ quan độc lập với chính phủ liên bang. Hội đồng không nhận tài trợ của Quốc hội và bảy thành viên của Hội đồng theo cơ chế dân chủ. Thành viên của Hội đồng là độc lập và không phải chấp hành yêu cầu của hệ thống lập pháp cũng như hành pháp. Tuy nhiên, Hội đồng phải gửi báo cáo tới Quốc hội theo định kỳ. Theo luật, thành viên của Hội đồng này chỉ rời chức vụ khi mãn hạn. Hội đồng Thống đốc chịu trách nhiệm việc hình thành và cụ thể hóa chính sách tiền tệ. Nó cũng giám sát và quy định hoạt động của 12 Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ nói chung.

Các Ngân hàng dự trữ liên bang (Federal Reserve Banks) về danh nghĩa sở hữu bởi các ngân hàng thành viên (mỗi ngân hàng thành viên giữ cổ phần không có khả năng chuyển nhượng). Theo Tòa án tối cao Mỹ, các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực không phải là công cụ của Chính phủ liên bang, chúng là các ngân hàng độc lập, sở hữu tư nhân và hoạt động theo luật pháp ở địa phương. Phán quyết trên cũng cho rằng, các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực có thể được coi là công cụ của Chính phủ liên bang theo một số mục đích nhất định. Trong một phán quyết khác ở tòa án cấp bang, sự khác biệt giữa Hội đồng thống đốc và các Ngân hàng được quy định rõ ràng.

Các ngân hàng sở hữu Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực là của tư nhân và rất nhiều trong số đó có cổ phiếu phát hành trên thị trường.

Giấy bạc do Fed phát hành là nguồn cung tiền tệ và chúng được đưa vào lưu thông qua các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực.

Vai trò và nhiệm vụ[sửa | sửa mã nguồn]

Jerome Powell - Chủ tịch thứ 16 của Hội đồng thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ từ 02/05/2018

Theo Hội đồng thống đốc, Fed có các nhiệm vụ sau:

  1. Thực thi chính sách tiền tệ quốc gia bằng cách tác động các điều kiện tiền tệ và tín dụng với mục đích tối đa việc làm, ổn định giá cả và điều hòa lãi suất dài hạn
  2. Giám sát và quy định các tổ chức ngân hàng đảm bảo hệ thống tài chính và ngân hàng quốc gia an toàn, vững vàng và bảo đảm quyền tín dụng của người tiêu dùng
  3. Duy trì sự ổn định của nền kinh tế và kiềm chế các rủi ro hệ thống có thể phát sinh trên thị trường tài chính
  4. Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức quản lý tài sản có giá trị, các tổ chức chính thức nước ngoài, và chính phủ Hoa Kỳ, đóng vai trò chủ chốt trong vận hành hệ thống chi trả quốc gia.

Tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]

Cấu trúc cơ bản gồm

  • Hội đồng thống đốc
  • Các Ngân hàng của Fed
  • Các ngân hàng thành viên (có cổ phần tại các chi nhánh)

Mỗi ngân hàng Fed khu vực và ngân hàng thành viên của Cục dự trữ liên bang tuân thủ sự giám sát của Hội đồng thống đốc. Bảy thành viên của Hội đồng thống đốc được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ và phê chuẩn bởi Quốc hội. Các thành viên được lựa chọn cho nhiệm kỳ 14 năm (trừ khi bị phế truất bởi Tổng thống) và không phục vụ quá một nhiệm kỳ. Tuy nhiên, một thành viên nếu được chỉ định để phục vụ nốt phần chưa hoàn tất của thành viên khác có thể phục vụ tiếp một nhiệm kỳ 14 năm nữa, ví dụ cựu chủ tịch Hội đồng là Alan Greenspan đã phục vụ 19 năm từ 1987 đến 2006.

Những thành viên hiện thời của Hội đồng thống đốc là:

  • Jerome Powell, Chủ tịch
  • Lael Brainard
  • Michael S. Barr
  • Michelle Bowman
  • Christopher J. Waller
  • Jerome H. Powell
  • Philip N. Jefferson

(vào ngày 2022)

Ủy ban thị trường gồm 5 thành viên của Hội đồng thống đốc và 5 đại diện từ các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Luôn có một đại diện của ngân hàng Fed tại Quận 2, thành phố New York là thành viên trong Ủy ban này. Thành viên từ các ngân hàng khác được luân phiên theo thời gian 2 hoặc 3 năm.

Kiểm soát cung ứng tiền tệ[sửa | sửa mã nguồn]

Cục dự trữ liên bang kiểm soát quy mô nguồn cung ứng tiền tệ bằng các hoạt động thị trường mà qua đó Fed mua hoặc cho mượn các loại trái phiếu, giấy tờ có giá. Những tổ chức tham gia mua bán với Fed gọi là người giao dịch ưu tiên (primary dealers). Tất cả hoạt động thị trường của Fed ở Hoa Kỳ đều tiến hành tại bàn giao dịch thị trường của Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực New York với mục đích là đạt được tỷ lệ lãi suất trái phiếu liên bang gần mới tỷ lệ mục tiêu.

Lạm phát ở Hoa Kỳ thời gian 1914-2006

Thỏa thuận mua lại[sửa | sửa mã nguồn]

Thực chất của hoạt động này là cho vay hoặc đi vay có thế chấp. Để đảm bảo những thay đổi nguồn cung tiền tệ theo chu kỳ hoặc tạm thời, bàn giao dịch thị trường của Ngân hàng dự trữ liên bang New York tham gia các thỏa thuận mua lại với những nhà giao dịch ưu tiên. Các mua bán chủ yếu là các khoản cho vay ngắn hạn, có đảm bảo của Fed. Trong ngày giao dịch, Fed sẽ đặt tiền vào tài khoản của người giao dịch và nhận thế chấp (là các giấy tờ chứng nhận sở hữu như cổ phiếu, trái phiếu, v.v..). Khi hết hạn giao dịch, quá trình diễn ra ngược lại Fed hoàn lại chứng khoán và nhận lại tiền cùng lãi. Thời hạn giao dịch có thể thay đổi từ 1 ngày (cho vay qua đêm) tới 65 ngày, phần lớn giao dịch là cho vay qua đêm và 14 ngày.

Bởi các giao dịch làm tăng quỹ dự trữ của ngân hàng trong thời gian ngắn, chúng tăng nguồn cung tiền tệ. Hiệu quả của hoạt động này là tạm thời bởi các giao dịch sẽ đáo hạn, tác động dài hạn là dự trữ ngân hàng giảm đi bởi lãi suất của giao dịch (lãi suất một ngày của tỷ lệ 4,5%/năm là 0,0121%). Fed tiến hành giao dịch này hàng ngày trong 2004-2005, ngoài ra giao dịch thu hút vốn cũng tiến hành nhằm tạm thời giảm nguồn cung tiền tệ.

Trong giao dịch thỏa thuận bán lại (reverse repo), Fed sẽ vay tiền từ các người giao dịch ưu tiên bằng cách đặt cọc các chứng khoán chính phủ. Khi giao dịch đáo hạn, Fed sẽ hoàn trả tiền và các khoản lãi.

Giao dịch mua đứt[sửa | sửa mã nguồn]

Một công cụ khác của bàn giao dịch thị trường là mua đứt. Trong giao dịch này, Cục dự trữ liên bang mua lại trái phiếu chính phủ và cung cấp giấy bạc mới vào tài khoản của người giao dịch đặt tại Fed. Bởi hoạt động này là mua đứt nên tăng cung tiền tệ lâu dài nhưng khi trái phiếu hết hạn khoản lãi vẫn được thu, thông thường là 12-18 tháng.

Từ những năm 1980, Cục dự trữ liên bang cũng bán quyền mua trái phiếu chính phủ ở mức lãi suất cao. Việc bán quyền mua này giảm nguồn cung tiền tệ bởi các nhà giao dịch ưu tiên sẽ bị khấu trừ tài khoản dự trữ của họ đặt tại Fed, do đó mà quá trình tạo ra tiền lưu thông bị hạn chế.

Thực hiện chính sách tiền tệ[sửa | sửa mã nguồn]

  • Mua và bán trái phiếu chính phủ: Khi Cục dự trữ liên bang (Fed) mua trái phiếu chính phủ, tiền được đưa thêm vào lưu thông. Bởi có thêm tiền trong lưu thông, lãi suất sẽ giảm xuống và chi tiêu, vay ngân hàng sẽ gia tăng. Khi Fed bán ra trái phiếu chính phủ, tác động sẽ diễn ra ngược lại, tiền rút bớt khỏi lưu thông, khan hiếm tiền sẽ làm tăng lãi suất dẫn đến vay nợ từ ngân hàng khó khăn hơn. (Xem thêmNghiệp vụ thị trường mở)
  • Quy định lượng tiền mặt dự trữ: Ngân hàng thành viên cho vay phần lớn lượng tiền mà nó quản lý. Nếu Fed yâu cầu các ngân hàng này phải dự trữ một phần lượng tiền này, khi đó phần cho vay sẽ giảm đi, vay mượn khó hơn và lãi suất tăng lên. (Xem thêm Tỷ lệ dự trữ bắt buộc)
  • Thay đổi lãi suất của khoản vay từ Fed: Các ngân hàng thành viên của Fed vay tiền từ Fed để trang trải các nhu cầu ngắn hạn. Lãi suất mà Fed ấn định cho các khoản vay này gọi là lãi suất chiết khấu. Hoạt động này có ảnh hưởng, tuy nhỏ hơn, về số lượng tiền các thành viên sẽ được vay. (Xem thêm Lãi suất chiết khấu)

Tỷ lệ chiết khấu[sửa | sửa mã nguồn]

Cục dự trữ liên bang thực hiện chính sách tiền tệ chủ yếu bằng cách định hướng "lãi suất quỹ vốn tại Fed". Đây là tỷ lệ các ngân hàng ấn định với nhau cho khoản vay qua đêm các quỹ đặt cọc tại Cục dự trữ liên bang. Tỷ lệ này do thị trường quyết định chứ Fed không ép buộc. Tuy vậy, Fed sẽ cố gắng tác động tỷ lệ này ở con số phù hợp với tỷ lệ mong muốn bằng cách bổ sung hoặc hạn chế nguồn cung tiền tệ thông qua hoạt động của nó trên thị trường.

Cục dự trữ liên bang còn ấn định tỷ lệ chiết khấu – lãi suất mà các ngân hàng thương mại phải trả khi vay tiền từ Fed. Tuy nhiên, các ngân hàng thường lựa chọn cách vay quỹ đặt cọc tại Fed từ một ngân hàng khác mặc dù lãi suất này cao hơn tỷ lệ chiết khấu của Fed. Lý do của cách lựa chọn này là việc vay tiền từ Fed mang tính công khai rộng rãi, nó sẽ đưa đến chú ý của công chúng về khả năng thanh khoản và mức độ tin cậy của ngân hàng đang đi vay.

Cả hai tỷ lệ trên chi phối lãi suất ưu đãi, là tỷ lệ thường cao hơn 3% so với "lãi suất quỹ vốn tại Fed". Lãi suất ưu đãi là tỷ lệ mà các ngân hàng tính lãi đối với khoản vay của những khách hàng tin cậy nhất.

Ở mức lãi suất thấp, các hoạt động kinh tế được thúc đẩy vì chi phí đi vay thấp, do đó mà người tiêu dùng và các doanh nghiệp tăng cường mua bán. Ngược lại, lãi suất cao đưa đến kìm hãm kinh tế vì chi phí đi vay cao hơn. (Xem thêm bài chính sách tiền tệ).

Cục dự trữ liên bang thường điều chỉnh "lãi suất quỹ vốn tại Fed" mỗi lần ở mức 0,25% hoặc 0,5%. Từ năm 2001 đến giữa năm 2003, Fed hạ lãi suất 13 lần, từ 6,25% xuống 1% nhằm chống lại xu hướng suy thoái kinh tế. Tháng 11 năm 2002, lãi suất do Fed điều chỉnh chỉ còn 1,75% và nhiều mức thấp hơn cả tỷ lệ lạm phát. Ngày 25/03/2003, "lãi suất quỹ vốn tại FED" tụt xuống mức 1%, con số thấp nhất kể từ tháng 7 năm 1958 – 0,68%. Bắt đầu từ giữa tháng 6/2004, Cục dự trữ liên bang bắt đầu nâng lãi suất định hướng 17 lần liên tục lên 5,25% ngày 08/08/2006.

Có thể, Fed cũng đã nỗ lực các hoạt động mua bán trên thị trường nhằm thay đổi tỷ lệ cho vay dài hạn, tuy nhiên năng lực của nó yếu hơn rất nhiều các định chế tài chính tư nhân.

Các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và ngân hàng thành viên[sửa | sửa mã nguồn]

10 tổ chức tài chính hàng đầu ở Mỹ năm 2022

Bản đồ các khu vực quản lý của các ngân hàng Fed khu vực

Các ngân hàng khu vực dự trữ liên bang khu vực được thành lập bởi Quốc hội là các chi nhánh của hệ thống ngân hàng trung ương, có tổ chức giống một tổ chức tư nhân. Ví dụ, cổ phần của ngân hàng dự trữ liên bang khu vực do các ngân hàng thành viên sở hữu. Việc sở hữu cổ phần này khác với sở hữu cổ phần công ty thông thường. Các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực hoạt động không vì lợi nhuận và việc sở hữu cổ phần của nó là điều kiện để trở thành ngân hàng thành viên. Cổ phần không thể mua bán hay thế chấp. Cổ tức ấn định là 6% một năm. Đứng về mặt tài sản, ngân hàng Fed New York là ngân hàng lớn nhất với phạm vi hoạt động là quận 2 tiểu bang New York, thành phố New York, Puerto Rico và quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ.

Cổ tức được trả dưới dạng khoản bù vào lãi suất cho phần dự trữ thiếu hụt được giữ tại Fed. Theo quy định của luật pháp, mỗi ngân hàng phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà phần lớn đặt tại Fed. Cục dự trữ liên bang không trả lãi suất cho các khoản dự trữ này.

Các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực[sửa | sửa mã nguồn]

Mỗi ngân hàng Fed khu vực được ký hiệu bằng chữ cái. Những chữ cái này in trên giấy bạc mà chúng phát hành

Ngân hàngKý hiệuSốCác chi nhánhWebsiteChủ tịch
Boston A 1 http://www.bos.frb.org/ Lưu trữ 2013-10-05 tại Wayback Machine Eric S. Rosengren
New York City B 2 Buffalo (per 31. Oktober 2008 geschlossen), New York[23] http://www.newyorkfed.org/ William C. Dudley
Philadelphia C 3 http://www.philadelphiafed.org/ Patrick T. Harker
Cleveland D 4 Cincinnati, Ohio / Pittsburgh, Pennsylvania http://www.clevelandfed.org/ Loretta J. Mester
Richmond E 5 Baltimore, Maryland / Charlotte, North Carolina http://www.richmondfed.org/ Jeffrey M. Lacker
Atlanta F 6 Birmingham, Alabama / Jacksonville, Florida / Miami, Florida / Nashville, Tennessee / New Orleans, Louisiana http://www.frbatlanta.org/ Dennis P. Lockhart
Chicago G 7 Detroit, Michigan / Des Moines, Iowa http://www.chicagofed.org/ Charles L. Evans
St. Louis H 8 Little Rock, Arkansas / Louisville, Kentucky / Memphis, Tennessee http://www.stlouisfed.org/ James B. Bullard
Minneapolis I 9 Helena, Montana http://www.minneapolisfed.org/ Narayana R. Kocherlakota
Kansas City J 10 Denver, Colorado / Oklahoma City, Oklahoma / Omaha, Nebraska http://www.kansascityfed.org/ Esther George
Dallas K 11 El Paso, Texas / Houston, Texas / San Antonio, Texas http://www.dallasfed.org/ Robert S. Kaplan
San Francisco L 12 Los Angeles, Kalifornien / Portland, Oregon / Salt Lake City, Utah / Seattle, Washington http://www.frbsf.org/ John C. Williams

Quy định về tỷ lệ dự trữ[sửa | sửa mã nguồn]

Cục dự trữ liên bang ấn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc - phần trăm số tiền ký gửi tại ngân hàng mà ngân hàng phải giữ lại hoặc gửi tại Fed để sẵn sàng chi trả các nhu cầu rút tiền. Quy định này trực tiếp giới hạn khả năng cho vay của các ngân hàng vì khoản dự trữ này phải luôn được duy trì. Trong trường hợp khoản dự trữ này tụt xuống, ngân hàng phải tiến hành vay lẫn nhau hoặc vay của Fed để đảm bảo tỷ lệ dự trữ.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “The Federal Reserve Bank Discount Window & Payment System Risk Website”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2016.http://www.frbdiscountwindow.org/
  2. ^ “Born of a panic: Forming the Federal Reserve System”. The Federal Reserve Bank of Minneapolis. tháng 8 năm 1988. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2015.
  3. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên initial
  4. ^ BoG 2005, tr. 1–2
  5. ^ “Panic of 1907: J.P. Morgan Saves the Day”. US-history.com. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.
  6. ^ “Born of a Panic: Forming the Fed System”. The Federal Reserve Bank of Minneapolis. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.
  7. ^ Abigail Tucker (ngày 29 tháng 10 năm 2008). “The Financial Panic of 1907: Running from History”. Smithsonian Magazine. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.
  8. ^ BoG 2005, tr. 1 "It was founded by Congress in 1913 to provide the nation with a safer, more flexible, and more stable monetary and financial system. Over the years, its role in banking and the economy has expanded."
  9. ^ Patrick, Sue C. (1993). Reform of the Federal Reserve System in the Early 1930s: The Politics of Money and Banking. Garland. ISBN -0-8153-0970-3.
  10. ^ 12 U.S.C. § 225a
  11. ^ “The Congress established two key objectives for monetary policy-maximum employment and stable prices-in the Federal Reserve Act. These objectives are sometimes referred to as the Federal Reserve's dual mandate”. Federalreserve.gov. ngày 25 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2012.
  12. ^ “FRB: Mission”. Federalreserve.gov. ngày 6 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2011.
  13. ^ BoG 2005, tr. v (Xem cấu trúc)
  14. ^ “Federal Reserve Districs”. Federal Reserve Online. 8 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2011.
  15. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2015.
  16. ^ “FAQ – Who owns the Federal Reserve?”. Federal Reserve website.
  17. ^ Lapidos, Juliet (ngày 19 tháng 9 năm 2008). “Is the Fed Private or Public?”. Slate. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2011.
  18. ^ Toma, Mark (ngày 1 tháng 2 năm 2010). “Federal Reserve System”. EH. Net Encyclopedia. Economic History Association. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2011.
  19. ^ “Who owns the Federal Reserve Bank?”. FactCheck. ngày 31 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2014.
  20. ^ “Coins and Currency”. US Dept of Treasury website. ngày 24 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2011.
  21. ^ From "Who owns the Federal Reserve?", Current FAQs, Board of Governors of the Federal Reserve System, at [1].
  22. ^ Appelbaum, Binyamin (ngày 22 tháng 3 năm 2011). “Fed Had Profit From Investments of $82 Billion Last Year”. The New York Times. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2011.
  23. ^ New York Fed Announces Closing of Buffalo Branch, Effective October 31 - Federal Reserve Bank of New York

Hiển thị 10 trong số 25 công ty. Đăng ký để mở khóa nhiều hơn.

JPMorgan Chase & Co, Bank of America Corp, Wells Fargo & Co, Citigroup Inc và Goldman Sachs Group Inc là 5 ngân hàng hàng đầu tại Mỹ vào năm 2021 theo doanh thu. Nói chung, 10 ngân hàng hàng đầu của Hoa Kỳ đã tăng doanh thu thêm 607.947 triệu đô la trong đó JPMorgan Chase & Co có trụ sở tại Hoa Kỳ là cao nhất (127.202 triệu đô la), tiếp theo là Bank of America Corp (93.851 triệu đô la), Wells Fargo & Co (82.407 triệu đô la) và Tập đoàn Dịch vụ Tài chính PNC là người thấp nhất ($ 19,698 triệu). Tăng trưởng doanh thu trung bình của 10 ngân hàng hàng đầu đứng ở mức 1,7%và 4 trong số 10 ngân hàng hàng đầu đã giảm doanh thu vào năm 2021, với mức tăng trưởng doanh thu cao nhất được đăng ký bởi Morgan Stanley (16,2%), theo dõi Goldman Sachs Group Inc (15,3%), trong khi mức tăng trưởng doanh thu thấp nhất được đăng ký bởi Bank of America Corp (0,1%). 10 ngân hàng hàng đầu đã sử dụng tổng cộng 1.318.515 người vào năm 2021. JPMorgan Chase & Co có trụ sở tại Hoa Kỳ là ngân hàng hàng đầu tại Hoa Kỳ bởi doanh thu vào năm 2021. Ngân hàng đã báo cáo doanh thu 127.202 triệu đô la cho năm tài chính kết thúc vào tháng 12 năm 2021, kỷ luật tài chính, kỷ luật tài chính, Đầu tư liên tục vào đổi mới, và sự phát triển liên tục của mọi người là những gì cho phép họ kiên trì trong sự cống hiến kiên định của họ để giúp đỡ khách hàng, cộng đồng và các quốc gia trên toàn thế giới. 2021 là một năm mạnh mẽ khác cho JPMorgan Chase, với doanh thu kỷ lục tạo ra công ty, cũng như thiết lập nhiều hồ sơ khác trong mỗi ngành kinh doanh của họ. JPM phân loại hoạt động kinh doanh của mình thành năm phân khúc: Ngân hàng Người tiêu dùng & Cộng đồng, Ngân hàng doanh nghiệp & Đầu tư, Quản lý tài sản & tài sản, Ngân hàng Thương mại và Công ty. Nó hoạt động tại hơn 62 quốc gia trên khắp Bắc Mỹ, Châu Âu, Trung Đông, Châu Phi, Châu Á-Thái Bình Dương: Châu Mỹ Latinh và Caribbean.

  • Đuổi
  • Ngân hàng Mỹ
  • Wells Fargo
  • Citi
  • Ngân hàng Hoa Kỳ
  • PNC
  • Truist
  • Goldman Sachs
  • Ngân hàng td
  • Vốn một

10 tổ chức tài chính hàng đầu ở Mỹ năm 2022

Sue Hwang / Gankingrates

Hoa Kỳ có một hệ thống ngân hàng cao phát triển và phức tạp, và các tổ chức tài chính lớn nhất của nó đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế của đất nước. Điều đó không có gì ngạc nhiên khi bốn trong số các ngân hàng lớn nhất của Hoa Kỳ - JPMorgan Chase, Bank of America, Wells Fargo và Citi - đã kết hợp nắm giữ gần 9,5 nghìn tỷ đô la tài sản vào năm 2022.

Dưới đây là 10 ngân hàng lớn nhất ở Hoa Kỳ dựa trên các tài sản hợp nhất được nắm giữ, với những hiểu biết quan trọng về những gì tạo nên từng người và cách họ phát triển đến nơi chúng ngày nay.

1. Chase JPMorgan

Trụ sở: New York, N.Y. New York, N.Y.

Tài sản: 3,48 nghìn tỷ đô la $3.48 trillion

JPMorgan Chase là ngân hàng lớn nhất ở Hoa Kỳ, với khoảng 3,48 nghìn tỷ đô la tài sản hợp nhất. Được thành lập hơn 220 năm trước tại thành phố New York, JPMorgan Chase - thường được gọi là Chase - có sự hiện diện trên toàn quốc, với hơn 4.800 chi nhánh ở 48 tiểu bang và 16.000 ATM, khiến nó trở thành một trong những ngân hàng dễ tiếp cận nhất trong cả nước.

JPMorgan Chase đã sử dụng thành công chiến lược kỹ thuật số để thu hút khách hàng, cung cấp một trong những ứng dụng ngân hàng di động tốt nhất hiện nay. Nó cũng đã quản lý để hợp nhất thương mại & nbsp; ngân hàng & nbsp; và đầu tư & nbsp; ngân hàng, cung cấp một loạt các sản phẩm và dịch vụ cho khách hàng của mình. Điều này, cùng với quy mô lớn của nó, đã khiến JPMorgan đuổi theo ngân hàng cho nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư.

2. Ngân hàng Mỹ

Trụ sở chính: Charlotte, N.C. Charlotte, N.C.

Tài sản: $ 2,51 nghìn tỷ $2.51 trillion

Là một trong những tổ chức tài chính hàng đầu thế giới, Bank of America cung cấp các doanh nghiệp nhỏ và thị trường trung bình, cá nhân, chính phủ và các tập đoàn lớn với quản lý đầu tư, ngân hàng và các giải pháp quản lý tài chính và rủi ro khác. Nó có gần 4.000 chi nhánh và 16.000 máy ATM, đảm bảo rằng khách hàng của họ có thể ngân hàng khi nào và nơi họ muốn.

Điều khiến Bank of America khác biệt với các đối thủ cạnh tranh trong những năm qua là tập trung vào việc thúc đẩy các tài khoản khách hàng cá nhân thay vì chỉ là thương mại. Cung cấp mức tối thiểu thấp để kiểm tra mở hoặc tài khoản tiết kiệm với lãi suất cạnh tranh, Bank of America cũng mở rộng giảm giá cho vay cho khách hàng của mình thông qua phần thưởng ưu tiên.

3. Wells Fargo

Trụ sở chính: San Francisco, Calif. San Francisco, Calif.

Tài sản: $ 1,76 nghìn tỷ $1.76 trillion

Mặc dù xếp thứ ba về tài sản hợp nhất, Wells Fargo cung cấp một mạng lưới rộng lớn các chi nhánh ngân hàng - hơn 4.700 địa điểm trên khắp Hoa Kỳ - đứng đầu hầu hết các đối thủ cạnh tranh. Ngân hàng đã khai thác thành công các phân khúc khách hàng mới và các doanh nghiệp nhỏ thông qua mạng lưới chi nhánh và mạng ATM mở rộng của mình. & NBSP;

Điều khiến Wells Fargo khác biệt là sự tham gia tối thiểu của nó vào các hoạt động ngân hàng giao dịch và đầu tư và các hoạt động bán lẻ và ngân hàng thương mại chính của nó. Nó cũng là một trong những người cho vay thế chấp lớn nhất cho chủ nhà Mỹ. Chiến lược này đã cho phép Wells Fargo trở thành một trong những ngân hàng ổn định và có lợi nhuận cao nhất trong cả nước.

4. Citi

Trụ sở: New York, N.Y. New York, N.Y.

Tài sản: 3,48 nghìn tỷ đô la $1.72 trillion

JPMorgan Chase là ngân hàng lớn nhất ở Hoa Kỳ, với khoảng 3,48 nghìn tỷ đô la tài sản hợp nhất. Được thành lập hơn 220 năm trước tại thành phố New York, JPMorgan Chase - thường được gọi là Chase - có sự hiện diện trên toàn quốc, với hơn 4.800 chi nhánh ở 48 tiểu bang và 16.000 ATM, khiến nó trở thành một trong những ngân hàng dễ tiếp cận nhất trong cả nước.

JPMorgan Chase đã sử dụng thành công chiến lược kỹ thuật số để thu hút khách hàng, cung cấp một trong những ứng dụng ngân hàng di động tốt nhất hiện nay. Nó cũng đã quản lý để hợp nhất thương mại & nbsp; ngân hàng & nbsp; và đầu tư & nbsp; ngân hàng, cung cấp một loạt các sản phẩm và dịch vụ cho khách hàng của mình. Điều này, cùng với quy mô lớn của nó, đã khiến JPMorgan đuổi theo ngân hàng cho nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư.

2. Ngân hàng Mỹ

Trụ sở chính: Charlotte, N.C. Minneapolis, Minn.

Tài sản: $ 2,51 nghìn tỷ Nearly $577.54 billion

Là một trong những tổ chức tài chính hàng đầu thế giới, Bank of America cung cấp các doanh nghiệp nhỏ và thị trường trung bình, cá nhân, chính phủ và các tập đoàn lớn với quản lý đầu tư, ngân hàng và các giải pháp quản lý tài chính và rủi ro khác. Nó có gần 4.000 chi nhánh và 16.000 máy ATM, đảm bảo rằng khách hàng của họ có thể ngân hàng khi nào và nơi họ muốn.

Điều khiến Bank of America khác biệt với các đối thủ cạnh tranh trong những năm qua là tập trung vào việc thúc đẩy các tài khoản khách hàng cá nhân thay vì chỉ là thương mại. Cung cấp mức tối thiểu thấp để kiểm tra mở hoặc tài khoản tiết kiệm với lãi suất cạnh tranh, Bank of America cũng mở rộng giảm giá cho vay cho khách hàng của mình thông qua phần thưởng ưu tiên.

6. Dịch vụ tài chính PNC

Trụ sở chính: Pittsburgh, PA. Pittsburgh, Pa.

Tài sản: Hơn 534,9 tỷ đô la More than $534.9 billion

Sản phẩm của vụ sáp nhập năm 1983 giữa Tập đoàn Quốc gia Pittsburgh và Tập đoàn Quốc gia Provident, PNC Financial Services nằm trong số các ngân hàng hàng đầu ở Hoa Kỳ do các đặc quyền và dịch vụ chuyên môn của nó cho khách hàng. Nó cũng là một trong những tổ chức dịch vụ tài chính đa dạng lớn nhất trong cả nước.

PNC đã cam kết với sự hài lòng của khách hàng từ khi bắt đầu, tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp nhỏ, người tiêu dùng và các công ty hạng trung. Ngân hàng cung cấp đầy đủ các dòng sản phẩm và dịch vụ, bao gồm ngân hàng bán lẻ, ngân hàng doanh nghiệp và tổ chức, quản lý tài sản và quản lý tài sản.

7. Truist Financial Corp.

Trụ sở chính: Charlotte, N.C. Charlotte, N.C.

Tài sản: Hơn 531 tỷ đô la More than $531 billion

Vào cuối năm 2019, BB & T và SunTrust đã hợp nhất để thành lập Truist. Ngày nay, ngân hàng tương đối mới này có hơn 2.100 chi nhánh và gần 4.000 ATM tại Hoa Kỳ ngoài ngân hàng tiêu dùng và thương mại, Truist cung cấp kết hợp các dịch vụ tài chính khác, bao gồm cho vay thế chấp, tài khoản môi giới, quản lý tài sản và các sản phẩm bảo hiểm.

Mô hình ngân hàng cộng đồng của Truist, nhằm mục đích trao quyền cho những người có thu nhập thấp và trung bình và người vay thiểu số bằng cách giúp họ xây dựng tài sản và đạt được thành công về tài chính. Nó đã làm cho sự tập trung này vào sự đa dạng và bao gồm một sự khác biệt quan trọng giữa các đối thủ cạnh tranh.

8. Nhóm Goldman Sachs

Trụ sở: New York, N.Y. New York, N.Y.

Tài sản: Gần 474,64 tỷ đô la Nearly $474.64 billion

Goldman Sachs là một ngân hàng đầu tư đa quốc gia hàng đầu cung cấp một loạt các dịch vụ tài chính cho các chính phủ, tập đoàn, cá nhân và tổ chức. Ngày nay, Goldman Sachs là một trong những ngân hàng đầu tư lớn nhất và thành công nhất trên toàn cầu, với sự hiện diện tại hơn 60 thành phố & NBSP; trên toàn thế giới. Bởi vì nó chủ yếu hoạt động như một ngân hàng trực tuyến, Goldman Sachs không có mạng lưới chi nhánh hoặc ATM, nhưng nó có văn phòng ở một số tiểu bang trên khắp Hoa Kỳ.

Được thành lập vào năm 1869, Goldman Sachs đã đi đầu trong tài chính và đã giúp định hình nền kinh tế thế giới bằng cách cung cấp cho khách hàng tư vấn tài chính hợp lý và các sản phẩm sáng tạo. Công ty là một trong số ít các tổ chức tài chính đã sống sót sau cuộc Đại suy thoái và đã vượt qua mọi cuộc khủng hoảng tài chính lớn kể từ đó.

9. Ngân hàng TD

Trụ sở chính: & NBSP; Cherry Hill, N.J. Cherry Hill, N.J.

Tài sản: Gần $ 417,36 tỷ Nearly $417.36 billion

Một công ty con của Ngân hàng Toronto-Dominion đa quốc gia Canada, TD Bank hoạt động hơn 1.100 & NBSP; Stores & NBSP; và 700 ATM tại Hoa Kỳ và cung cấp đầy đủ các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng thương mại và bán lẻ, doanh nghiệp nhỏ.

Tự gọi mình là Ngân hàng tiện lợi nhất của Mỹ, Ngân hàng TD của TD cam kết cung cấp cho khách hàng của mình quyền truy cập dễ dàng và thuận tiện vào tiền của họ. Sự hợp tác của nó với & NBSP; Công ty Fintech Moven, một nhà cung cấp phần mềm quản lý tiền hiện tại và Neobank hiện tại, là một minh chứng cho cam kết đó.

10. Thủ đô một

Trụ sở chính: & nbsp; McLean, Va. & Nbsp; McLean, Va. 

Tài sản: $ 385,3 tỷ $385.3 billion

Cam kết của một cam kết về chuyển đổi kỹ thuật số là một yếu tố lớn trong sự tăng trưởng và thành công của công ty. Công ty được thành lập vào năm 1994 với tư cách là công ty phát hành thẻ tín dụng và kể từ đó đã mở rộng các dịch vụ của mình để bao gồm các khoản vay tự động, thế chấp, ngân hàng và đầu tư sản phẩm và dịch vụ.

Một nhà phát hành thẻ tín dụng hàng đầu ở Hoa Kỳ, Capital One là nhà cung cấp hàng đầu các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng kỹ thuật số. Việc mua lại thu nhập FinTech United gần đây của nó cũng đã giúp Ngân hàng cung cấp các dịch vụ quản lý tài sản cho kế hoạch hưu trí. FinTech kết hợp cả hai khía cạnh công nghệ với các khía cạnh của con người, cho phép trải nghiệm cá nhân hóa hơn cho khách hàng.

Lấy đi

Các ngân hàng lớn nhất ở Hoa Kỳ cung cấp một loạt các sản phẩm và dịch vụ cho người tiêu dùng, doanh nghiệp và tổ chức. Với lịch sử rộng lớn và sự cống hiến cho chuyển đổi kỹ thuật số, các ngân hàng này được định vị tốt để tiếp tục phục vụ nhu cầu tài chính của người Mỹ trong những năm tới.

Câu hỏi thường gặp về các ngân hàng lớn nhất ở Mỹ

Dưới đây là một số câu hỏi phổ biến nhất mà mọi người hỏi về các ngân hàng lớn nhất ở Hoa Kỳ

  • Ngân hàng số 1 ở Mỹ là gì?
    • JPMorgan Chase là ngân hàng hàng đầu tại Hoa Kỳ vào năm 2022, dựa trên tài sản hợp nhất.
  • Điều gì khác biệt giữa một ngân hàng thương mại và một ngân hàng bán lẻ?
    • Các ngân hàng thương mại cung cấp đầy đủ các sản phẩm và dịch vụ cho các doanh nghiệp và tập đoàn, trong khi các ngân hàng bán lẻ cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho người tiêu dùng cá nhân.
  • Điều gì khác biệt giữa một ngân hàng và một liên minh tín dụng?
    • Các ngân hàng là các tập đoàn vì lợi nhuận, trong khi các công đoàn tín dụng là các tổ chức phi lợi nhuận. Các công đoàn tín dụng thường có ít phí hơn và cung cấp lãi suất thấp hơn cho các khoản vay và tiền gửi so với các ngân hàng.
  • Bốn ngân hàng lớn ở Hoa Kỳ là gì?
    • JPMorgan Chase, Bank of America, Wells Fargo và Citi là bốn ngân hàng hàng đầu ở Mỹ vào năm 2022.

Daria Uhlig đã đóng góp cho báo cáo cho bài viết này.

Thông tin là chính xác kể từ ngày 27 tháng 7 năm 2022.

Lưu ý biên tập: Nội dung này không được cung cấp bởi bất kỳ thực thể nào được đề cập trong bài viết này. Bất kỳ ý kiến, phân tích, đánh giá, xếp hạng hoặc đề xuất nào được thể hiện trong bài viết này là những người của một mình và chưa được xem xét, phê duyệt hoặc chứng thực bởi bất kỳ thực thể nào có tên trong bài viết này.

Lưu ý biên tập: Nội dung này không được cung cấp bởi Chase. Bất kỳ ý kiến, phân tích, đánh giá, xếp hạng hoặc đề xuất nào được thể hiện trong bài viết này là những người của một mình và chưa được xem xét, phê duyệt hoặc chứng thực bởi Chase.

9 tổ chức tài chính lớn là gì?

Ngân hàng trung ương ..
Ngân hàng bán lẻ và thương mại ..
Ngân hàng Internet ..
Hiệp hội tín dụng..
Hiệp hội tiết kiệm và cho vay ..
Ngân hàng đầu tư và các công ty ..
Công ty môi giới..
Các công ty bảo hiểm..

Ngân hàng mạnh nhất ở Mỹ là gì?

Danh sách các ngân hàng lớn nhất ở Hoa Kỳ.JPMorgan Chase. Chase Bank is the consumer banking division of JPMorgan Chase.

7 loại tổ chức tài chính chính là gì?

Các loại tổ chức tài chính khác nhau..
Ngân hàng trung ương ..
Ngân hàng bán lẻ và thương mại ..
Ngân hàng Internet ..
Hiệp hội tín dụng..
Hiệp hội tiết kiệm và cho vay ..
Ngân hàng đầu tư và các công ty ..
Công ty môi giới..
Các công ty bảo hiểm..

Ngân hàng mạnh nhất ở Mỹ là gì?

Danh sách các ngân hàng lớn nhất ở Hoa Kỳ.