Xử hướng thầy đối của văn hóa giao tiếp trong nhà trường hiện nay

Xây dựng văn hóa ứng xử sư phạm trong nhà trường Trung học Phổ thông

  • doc
  • 35 trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Giáo dục luôn đóng một vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển
của đất nước và sự tiến bộ xã hội. Mục tiêu của giáo dục là dạy làm người,
nghĩa là rèn luyện đạo đức và nhân cách con người. Giáo dục đồng thời cung
cấp kiến thức, kỹ năng để con người xây dựng cuộc sống hạnh phúc, văn
minh.
Trong đó, nhà trường Trung học Phổ thông luôn nhận được nhiều sự
quan tâm hơn cả của cộng đồng xã hội, bởi lẽ đối tượng giáo dục trong môi
trường Trung học Phổ thông chính là những chủ nhân tương lai của đất nước,
trực tiếp giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng, phát triển xã hội. Đặc
điểm ở lứa tuổi này là cái tôi được hình thành, rất năng động, nhanh nhẹn,
sáng tạo nhưng cũng đồng thời thích tự khẳng định mình, nhạy bén với cái
mới... Bởi vậy, để đạt được chất lượng giáo dục tối ưu, không chỉ quan tâm
tới phương pháp dạy học mà đồng thời, đối với người dạy- giáo viên, còn cần
thỏa mãn yêu cầu về phong cách ngôn ngữ và năng lực sư phạm, mà chủ yếu
là khả năng ứng xử trước các tình huống sư phạm.
Do vậy, xây dựng văn hóa ứng xử sư phạm trong nhà trường Trung học
Phổ thông có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình giáo dục. Qua việc
nhìn nhận, đánh giá chính xác được tầm quan trọng của kỹ năng này, người
làm công tác giáo dục cũng như học sinh, sinh viên sẽ tham gia vào xây dựng
hoạt động giáo dục trong thực tiễn một cách có hiệu quả hơn.
2. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU:
Mục đích: Giúp mọi người hiểu rõ hơn về bản chất của ứng xử trong
giao tiếp giữa thầy và trò theo quan điểm hoạt động và giáo dục, đồng thời
cũng chỉ ra một số khó khăn mà giáo viên thường gặp phải khi giải quyết các
tình huống sư phạm trong hoạt động ứng xử ở phạm vi nhà trường Phổ thông
Trung học.
Yêu cầu: Nắm vững được nội dung, lý thuyết về giao tiếp và ứng xử
sư phạm.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Người dạy- giáo viên, người học- học sinh, cùng các thành viên có liên
quan đến việc dạy và học trong môi trường Phổ thông Trung học.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Kết hợp phương pháp logic với so sánh, phương pháp điều tra, phỏng
vấn, phương pháp tổng hợp, phân tích, chứng minh...
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
1

Một số trường Trung học Phổ thông thuộc thành phố Hà Nội: THPT
Phan Đình Phùng, THPT Kim Liên.
6. KẾT CẤU ĐỀ TÀI:
Gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về văn hóa ứng xử sư phạm trong môi trường
trung học phổ thông.
Chương 2. Cơ sở lý thuyết trong giao tiếp và ứng xử sư phạm
Chương 3. Quy trình ứng xử sư phạm và một số nguyên nhân dẫn tới
khó khăn trong ứng xử sư phạm
7. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Nhận thức tầm quan trọng của giao tiếp và ứng xử sư phạm trong môi
trường dạy- học. Từ đó có kiến thức, có ý thức xây dựng môi trường giáo dục
có văn hóa, bảo vệ và khẳng định những cái tiến bộ, đẹp đẽ, phù hợp với thời
đại, đồng thời đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực...

2

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.
TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA ỨNG XỬ SƯ PHẠM
Không phải đến bối cảnh đất nước ta phát triển theo con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, văn hóa học đường nói chung và văn hóa
ứng xử sư phạm nói riêng mới được quan tâm, chú trọng, mà ngay từ thời xa
xưa, ông cha ta đã có câu: Tiên học lễ, hậu học văn. Con người ta, muốn trở
thành hiền tài, trước hết phải học cái lễ, học cách đối nhân xử thế, ứng xử sao
cho có đạo lý trong các mối quan hệ xã hội: gia đình, thầy trò, bạn bè... Và
mối quan hệ giữa thầy và trò là yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành
và xây dựng văn hóa học đường.
Trong hoạt động giáo dục và giáo dưỡng luôn có những tình huống nảy
sinh, yêu cầu người làm công tác giáo dục lẫn được giáo dục trong nhà trường
phải có những cách thức, phương thức giải quyết đó chính là ứng xử sư
phạm. Ứng xử sư phạm được coi là một dạng hoạt động giao tiếp giữa thầy và
trò, với mục đích giáo dục nói chung. Họ là những con người cụ thể, ở những
vị trí xã hội khác nhau, có trách nhiệm quyền hạn và lợi ích xác định, đồng
thời ở mỗi người trong họ có một hoàn cảnh về gia đình, đời sống tâm lý và
những mối quan hệ riêng biệt; bởi vậy không phải lúc nào lý thuyết cũng áp
dụng chính xác được trong thực tiễn.
Do đó, vấn đề đặt ra trước hết là xây dựng hệ thống lý thuyết cơ bản về
ứng xử sư phạm, sau đó vận dụng vào hoạt động thực tiễn sao cho phù hợp,
dựa trên cả nhận thức lý tính lẫn cảm tính, kinh nghiệm... ở cả hai phía người
dạy và người học; từ đó nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục.

3

CHƯƠNG 2.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT TRONG GIAO TIẾP
VÀ ỨNG XỬ SƯ PHẠM
1. GIAO

TIẾP VÀ GIAO TIẾP SƯ PHẠM:
1.1. Khái niệm giao tiếp:
Giao tiếp là một trong những đặc trưng nổi bật, cơ bản tạo nên tính
người, phản ánh bản chất của con người, vừa như là phương thức liên kết giữa
con người với con người, giữa con người với tự nhiên, vừa như là kết quả của
sự phát triển thế giới vật chất và của các mối quan hệ xã hội. Với ý nghĩa như
vậy, hoạt động giao tiếp là nhu cầu tất yếu của mỗi người và toàn thể xã hội.
Thông qua hoạt động giao tiếp mỗi cá nhân biểu hiện mình như một chủ thể, bộc
lộ tính cách, kinh nghiệm sống và rộng hơn là cả nhân cách của một chủ thể.
Xét theo nghĩa rộng, giao tiếp là sự tiếp xúc giữa những cá thể trong
cộng đồng để truyền đạt nội dung nào đó. Bởi vậy giao tiếp chính là một đặc
trưng của xã hội, phân biệt xã hội với những quần thể không phải xã hội.
Còn nghĩa hẹp của giao tiếp, theo Berge, là quá trình thông tin diễn ra
giữa ít nhất 2 người, trao đổi với nhau, gắn với một ngữ cảnh và một tình
huống nhất định. Trong đó, ngữ cảnh là thời gian, không gian, môi trường văn
hóa mà ở đó người nói lấy sự việc, hiện tượng, cách thức để thực hiện giao
tiếp; tình huống là khung sự việc được lặp đi lặp lại nhiều lần theo kịch bản
cho sẵn.
Thêm vào đó, theo cách hiểu tin học, giao tiếp là sự truyền thông tin từ
điểm này đến điểm khác.

4

1.2. Mô hình của giao tiếp:
Theo Jacobson, mô hình của giao tiếp được xây dựng như sau:
Ngữ cảnh

Thông điệp

Người phát

Người
nhận

Tiếp xúc

trong đó:
Tiếp xúc : là đường kênh vật lý hoặc tâm lý giữa người phát và người
nhận. Có thể là sự tiếp xúc trực tiếp [ như chào, bắt tay, ôm...] hay tiếp xúc
gián tiếp [ như qua email, tivi, báo chí... ]
- Mã : là hệ thống kí hiệu được quy ước giữa hai người [ như bộ quy
tắc ngữ pháp, hệ thống từ vựng, cử chỉ...]
-

1.3. Khái niệm giao tiếp sư phạm:
Giao tiếp sư phạm là giao tiếp có tính chất nghề nghiệp giữa giáo viên
với học sinh trong quá trình giảng dạy và giáo dục, có chức năng sư phạm
nhất định, tạo ra các tiếp xúc tâm lý, xây dựng không khí tâm lý thuận lợi,
cùng các quá trình tâm lý khác [chú ý, tư duy] có thể tạo ra kết quả tối ưu
của quan hệ thầy trò, trong nội bộ tập thể học sinh và trong hoạt động dạy
cũng như hoạt động học.
Giao tiếp sư phạm là một thành phần cơ bản của hoạt động sư phạm vì
những hình thức cơ bản của dạy học và giáo dục như giảng bài trên lớp, phụ
đạo, thi cử đều diễn ra trong điều kiện giao tiếp. Nếu không có giao tiếp thì
mối quan hệ thầy trò sẽ xa cách, rời rạc, khó đạt được mục đích giáo dục.
Có thể hiểu rằng giao tiếp giữa con người với con người trong hoạt
động sư phạm được gọi là giao tiếp sư phạm. Vậy, hoạt động nào được gọi là
hoạt động sư phạm ? Chúng ta biết rằng giáo dục là sự nghiệp của quần
chúng, nó được tiến hành ở mọi ngành, mọi cấp, trong từng khu phố, thôn
xóm và gia đình, ở tất cả các cơ sở kinh tế và văn hóa... bên cạnh nhà trường,
5

giáo dục còn được diễn ra ngoài xã hội, trong gia đình, tất nhiên giáo dục nhà
trường quyết định chiều hướn phát triển nhân cách học sinh. Vì nhà trường là
cơ quan chuyên trách công tác giáo dục, là tổ chức xã hội dẫn đầu với những
phương pháp giảng dạy khoa học nhằm xây dựng cho con người một nhân
cách phát triển toàn diện. Như vậy, hoạt động giáo dục rộng lớn bao hàm
trong đó cả hoạt động sư phạm. Hoạt động giáo dục chỉ diễn ra trong nhà
trường, trong đó chủ yếu là sự giao tiếp giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên
là người tổ chức, điều khiển quá trình giáo dục trong nhà trường được gọi là
chủ thể giao tiếp với nghĩa chung nhất. Học sinh là người lĩnh hội tri thức
khoa học, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp do giáo viên truyền đạt cho. Với ý
nghĩa này học sinh là khách thể trong hoạt động giao tiếp sư phạm. Tuy
nhiên, để giáo dục, dạy học đạt kết quả cao, chúng ta không thể coi học sinh
là khách thể thụ động, mà các em thực sự là một chủ thể có ý thức, hoạt động
tích cực để đón nhận tri thức khoa học của giáo viên.
Quá trình giao tiếp giữa giáo viên và học sinh bao gồm giữa giáo viên
và học sinh, giữa chủ thể và khách thể, giữa chủ thể giao tiếp và chủ thể tiếp
nhận, giữa chủ thể và chủ thể. Các tiếp xúc tâm lý mà giáo viên cần tạo ra cho
học sinh là tiếp cận được tâm tư; xây dựng không khí tâm lý thuận lợi là tạo
cho học sinh có được tâm lý thoải mái khi chuẩn bị tiếp thu những tri thức
mới, các em không bị ức chế khi phải tiếp nhận thông tin từ giáo viên; các
quá trình tâm lý khác ở đây được hiểu là trí tưởng tượng, kích thích trí nhớ, sự
tư duy và hoạt động của tri giác.
Từ các vấn đề đó ta thấy rằng giao tiếp sư phạm là điều kiện đảm bảo
hoạt động sư phạm.
Về mục đích của giao tiếp sư phạm thì nằm ngay chính trong khái niệm
giao tiếp sư phạm : Nhằm truyền đạt vốn sống, kinh nghiệm, những tri thức
khoa học, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen nghề nghiệp, xây dựng và phát triển
nhân cách toàn diện ở học sinh.
Còn mục đích của giáo dục là nhằm khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức,
năng lực, tình cảm và thái độ của người dạy và người học theo hướng tích
cực, góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức
từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con

6

người trong xã hội, nhằm xây dựng nguồn lực con người trở thành động lực
cho sự phát triển bền vững.
Như đã đề cập ở trên: Hoạt động giáo dục chỉ diễn ra trong nhà trường,
trong đó chủ yếu là sự giao tiếp giữa giáo viên và học sinh. Muốn đạt được
mục đích của giáo dục thì trước hết phải đạt được mục đích của giao tiếp sư
phạm, chính vì vậy không có giao tiếp sư phạm thì không đạt được mục đích
giáo dục.
Giao tiếp sư phạm có vị trí quan trọng trong cấu trúc năng lực sư phạm
của người giáo viên, là phương tiện thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy, giáo
dục và phát triển. Bác Hồ đã từng nói: Không có thầy giáo thì không có giáo
dục, không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế và văn
hóa. Bác khẳng đinh vai trò quang trọng, không thể thiếu của người giáo
viên. Người giáo viên có giỏi hay không được nhận định dựa trên năng lực sư
phạm của họ, trong đó giao tiếp sự phạm có vị trí quan trọng.
Giao tiếp nói chung có nhiều chức năng. Trong hoạt động giao tiếp sư
phạm cũng có nhiều chức năng, nó là phương tiện phục vụ công việc giảng
dạy, là điều kiện xã hội tâm lý bảo đảm quá trình giáo dục, là phương thức
tổ chức các mối quan hệ qua lại giữa thầy và trò.
Trong việc thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy, giao tiếp sư phạm đảm
bảo sự tiếp xúc tâm lý với học sinh: hình thành động cơ học tập tích cực, tạo
ra hoàn cảnh tâm lý cho lớp học hay nhóm để tìm tòi, nhận thức và cùng nhau
suy nghĩ.
Trong việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, nhờ có giao tiếp sư phạm
mà có thể giải quyết tốt các mối quan hệ giáo dục và sư phạm, tiếp xúc tâm lý
giữa giáo viên và học sinh; hình thành xu hướng nhận thức trong nhân cách;
vượt qua sự ngăn cách về tâm lý, hình thành các mối quan hệ trên nhân cách
trong tập thể học sinh.
Trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển, giao tiếp sư phạm tạo ra các
hoàn cảnh tâm lý kích thích việc hoàn thiện bản thân và tự giáo dục nhân
cách.

7

Từ đó, ta thấy rằng giao tiếp sư phạm có tác động khá rộng rãi trong hoạt
động sư phạm. Giao tiếp sư phạm giữ một vị trí hết sức quan trọng và nổi bật
trong cấu trúc năng lực sự phạm, trong dạy học và giáo dục.
Giao tiếp sư phạm là một khâu quan trọng trong quá trình hình thành
nhân cách, phát triển tích cực nhận thức và xã hội của học sinh trong quá trình
hình thành tập thể học sinh:
Giao tiếp sư phạm gồm những nguyên tắc, những biện pháp và kỹ xảo
tác động lẫn nhau giữa giáo viên với tập thể học sinh mà nội dung cơ bản của
nó là trao đổi thông tin, sự tác động về giáo dục và học tập, việc tổ chức mối
quan hệ lẫn nhau và cũng là quá trình người giáo viên xây dựng và phát triển
nhân cách của học sinh.
Giao tiếp sư phạm có những đặc thù như sau: Thứ nhất, giáo viên
không chỉ giao tiếp với học sinh qua nội dung bài giảng mà họ mà còn phải là
tấm gương sáng mẫu mực về nhân cách. Phải thống nhất giữa lời nói, việc
làm với hành vi ứng xử. Có như vậy, giáo viên mới tạo cho mình có uy tín, uy
tín là phương tiện tinh thần giúp giáo viên thực hiện nhiệm vụ đạt hiệu quả
cao. Thứ nhì, trong giao tiếp sư phạm, giáo viên dùng các biện pháp giáo dục
tình cảm, thuyết phục, vận động đối với học sinh. Thứ ba, Nhà nước và xã hội
ta rất tôn trọng giáo viên. Nhân dân ta có truyền thống tôn sư trọng đạo, trọng
đạo lí làm người nên rất tôn trọng đối với nghề thầy giáo: Muốn sang thì bắc
cầu kiều, Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy .
Ngoài ra, giao tiếp sư phạm còn là một thành tố trong nội dung giáo
dưỡng đòi hỏi cần phải dạy cho học sinh. Giáo viên còn cần phải dạy cho học
sinh cả nghệ thuật giao tiếp. Sự gương mẫu là rất quan trọng cho sự thành
công của dạy học và giáo dục.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng ta thấy rằng hoạt động giao tiếp sư
phạm là một khâu quan trọng, không thể thiếu đối với người giảng viên.
1.4. Văn hóa giao tiếp sư phạm:
Văn hóa giao tiếp là tất cả những yếu tố văn hóa được người phát và
người nhận lựa chọn, sử dụng và biểu hiện trong quá trình giao tiếp, tạo nên
8

những giá trị, chuẩn mực để duy trì và phát triển xã hội tốt đẹp hơn. Bởi vậy,
được nâng lên thành văn hóa, quá trình giao tiếp sư phạm giữa người dạy và
người học phải hướng tới mặt tích cực, là những nét đẹp nơi học đường, phải
đạt tới giá trị chuẩn mực, được xã hội công nhận, và nhằm xây dựng một xã
hội tốt đẹp hơn.
Dựa trên mô hình giao tiếp của Jacobson, có thể xây dựng mô hình văn
hóa giao tiếp sư phạm như sau:
Môi trường học đường

Các yếu tố văn
hóa

Người dạy

Thông điệp
Tiếp xúc

Người học


Giữa người dạy và người học có sự trao đổi thông tin- chính là sự giáo
dục và giáo dưỡng, có tác động tới hoạt động nhận thức của cả hai phía. Với
sự tiếp xúc trực tiếp và gián tiếp, cùng mã- hệ thống ngôn ngữ và phi ngôn
ngữ.
Mối quan hệ tương tác giữa thầy và trò trong trường học trong văn hóa
học đường đó là khi thầy cô có cảm hứng để thể hiện bài giảng một cách khúc
triết nhất, rõ rang nhất và hấp dẫn nhất, còn học sinh tập trung tư tưởng lắng
nghe thầy cô giáo giảng bài, ghi chép bài đầy đủ và hiểu bài ngay trên lớp. Và
khi đó, văn hóa giao tiếp sư phạm đã đạt hiệu quả tối ưu. Đó cũng được coi là
thước đo chuẩn xác nhất cho văn hóa học đường hiện nay.
2. Ứng xử và ứng xử sư phạm:
2.1. Khái niệm ứng xử:
Những phản ứng đáp lại đối với tự nhiên [theo nghĩa là thế giới vật chất
bao quanh mỗi người và theo nghĩa là những con người khác, những mối
9

quan hệ khác, kể cả những sản phẩm do con người tạo ra] theo cách này hay
cách khác có thể coi là ứng xử.
Ứng xử có thể hiểu theo nghĩa hẹp đối với giới động vật, bao gồm tất
cả những phản ứng thích nghi của một cơ thể có hệ thống thần kinh thực hiện
nhằm đáp trả lại những kích thích ngoại giới trong đó đang tồn tại cơ chế
sống. Những phản ứng của chủ thể [cơ chế sống] và những kích thích ngoại
giới là có thể quan sát được.
Trong hiện thực của xã hội, dưới ảnh hưởng của điều kiện vật chất
[mức độ sở hữu tư liệu, của cải; khả năng tiếp nhận và phân chia thành phẩm
lao động,.v.v...] và đời sống tinh thần [truyền thống, văn hóa, tư tưởng, tập
tục, tôn giáo,v.v....] chúng ta đều có một cảm nhận chung rằng sự phân chia
đẳng cấp, giai cấp và những nhóm sắc tộc đã sản sinh ra những con người có
một số nét tương đồng về suy nghĩ, hành động theo những mực thước được cả
xã hội coi là giá trị và được thừa nhận. Những mực thước đó giúp mỗi cá
nhân có được một định hướng riêng trong ứng xử phù hợp với cộng đồng, dân
tộc mà mình đang tồn tại và được gọi là khuôn mẫu ứng xử.
Một ứng xử có thể trở thành khuôn mẫu khi nó được lặp lại thường
xuyên bởi nhiều cá nhân trong một cộng đồng bởi những lý do sau đây: Trước
hết, cho dù mỗi cá nhân có nhu cầu về tinh thần vật chất khác nhau, có những
cách thức thỏa mãn nhu cầu của bản thân theo bản năng của riêng mình, song
giữa họ vẫn có những mối liên kết hoặc tự giác, hoặc tự phát nhằm bảo tồn vị
trí xã hội của mỗi cá nhân. Chẳng hạn, ứng xử giữa con cái với cha mẹ, mặc
dù ngôn từ có thể diễn đạt khác nhau ở mỗi cộng đồng: bố, mẹ, thầy, u, cậu,
mợ, song cái chung nhất trong ngôn ngữ ứng xử giữa con cái với bố mẹ ở mọi
thời đại vẫn ẩn giấu sau nó đó là sự tôn kính và thương yêu. Mặt khác, nhờ có
hệ thống di sản trong sự phát triển của cá nhân, những thế hệ sau luôn luôn
được thừa hưởng những khuôn mẫu ứng xử vốn có do các thế hệ đi trước
truyền lại, đó là những ứng xử đã được tổng quát hóa, tiêu chuẩn hóa và hợp
thức hóa dùng làm chuẩn mực để phân biệt những gì có thể chấp nhận được
và những gì không thểchấp nhận được. Như vậy, một khi khuôn mẫu ứng xử
về một phạm vi nào đó trong đời sống xã hội được hình thành, nó không còn
là cái riêng, cái cụ thể trong mỗi cá nhân mà đã được khách thể hóa và được
coi như một hệ thống tiêu chí giúp mọi người lấy đó làm thước đo cho các
mối quan hệ xã hội của bản thân mình. Chính vì lẽ đó, đôi khi người ta còn

10

gọi khuôn mẫu ứng xử là những khuôn mẫu văn hóa bởi tính khách thể hóa
những tri thức tiềm ẩn trong khuôn mẫu ứng xử.
Trong xã hội có bao nhiêu mối quan hệ thì có bấy nhiêu ứng xử và
thậm chí sốlượng ứng xử còn lớn hơn nhiều lần số lượng các mối quan hệ xã
hội, song một ứng xử chỉ trở thành khuôn mẫu văn hóa [theo Đoàn Văn Chúc,
tác giả cuốn Xã hội hóa văn hoá] khi nó thỏa mãn 4 yếu tố sau đây: "a/ ứng
xử thường xuyên được lặp đi lặp lại, tức là tính thời gian của ứng xử; bị ứng
xử được lặp lại tương đối theo cùng một cách bởi nhiều người, tức là tính
không gian của ứng xử; c/ ứng xử ấy có tác dụng chỉ nam, mẫu mực, hay quy
tắc cho các thành viên của một nhóm hay của một xã hội; dị ứng xử ấy chứa
đựng một ý nghĩa xã hội nào đó, tức là nó biểu thị kiến thức tư tưởng hoặc
tình cảm mà chủ thể đã đạt được nói một cách khác, nó là cái mang vác một
giá trị [kinh tế, chính trị, luân lý hay thẩm mỹ] .
Có thể nói, hệ thống khuôn mẫu ứng xử với tính cách là một khuôn
mẫu văn hóa chính là những quy chuẩn đảm bảo cho các mối quan hệ xã hội
được bền vững trong những nhóm xã hội khác nhau, là cơ sở xã hội cho việc
xem xét các thể loại và hoạt động ứng xử. Khuôn mẫu ứng xử sở dĩ có được
khả năng thu phục sự chấp nhận của số đông người trong các nhóm xã hội
chính bởi nó đã được tổng quát hóa từ các ứng xử của mỗi cá nhân rồi thông
qua tuyển chọn để điều chỉnh, bổ sung, tạo nên những quy chuẩn và cùng với
nó là từng bước hợp thức hóa những quy chuẩn trong mỗi khuôn mẫu ứng xử
bằng các biện pháp cưỡng bức [luật định, quy chế, nội quy trong cơ quan nhà
nước, hương ước, gia phong trong làng bản và gia đình], hoặc khuyến khích
cổ vũ sự tự ý thức của mỗi cá nhân khi họ thực hiện các quan hệ ứng xử.
2.2. Khái niệm về ứng xử sư phạm:
Ứng xử sư phạm [ƯXSP] là một dạng hoạt động giao tiếp giữa những
người làm công tác giáo dục và được giáo dục trong nhà trường nhằm giải
quyết các tình huống nảy sinh trong hoạt động giáo dục và giáo dưỡng. Như
vậy ƯXSP được thực hiện bởi những nhân cách [nhân cách giáo viên và nhân
cách học sinh]. Thầy và trò là những con người cụ thể, ở những vị trí xã hội
khác nhau, có trách nhiệm quyền hạn và lợi ích xác định, đồng thời ở mỗi
người trong họ có một hoàn cảnh về gia đình, đời sống tâm lý và những mối
quan hệ riêng biệt. Tuy vậy, giữa những cá nhân này có một điểm chung
trong hoạt động là đều nhằm đạt tới mục đích giáo dục tổng thể trong việc
11

hình thành nhân cách con người mới XHCN Việt Nam, các hoạt động của họ
đều diễn ra trong môi trường sư phạm với những đặc trưng vốn có của nó như
quan hệ thầy trò, cảnh quan trường lớp, thời gian học tập, vui chơi,.v.v
Các ứng xử sư phạm được thực hiện chủ yếu trong các quan hệ qua lại
giữa người làm công tác giáo dục và học sinh hoặc tập thể học sinh, chịu sự
quy định và điều tiết của những chuẩn mực xã hội, quy chế, nội quy của các
thể chế và cơ quan giáo dục ấn định cho mỗi vị trí xã hội mà giáo viên hoặc
học sinh có trách nhiệm thi hành; Trình độ nhận thức, kinh nghiệm và hệ
thống tri thức, kỹ năng cần cho mục đích và nội dung ứng xử; Thái độ giữa
chủ thể và đối tượng ứng xử.
Ứng xử sư phạm là một quá trình đi từ nhận thức đến hành động:
Tìm hiểu đối
tượng ứng xử

Quan sát và
vận dụng

Thực hiện hành
vi ứng xử

Hoạt động ứng xử có được là nhờ ở sự xuất hiện những tình huống
trong hoạt động giáo dục. Giao tiếp sư phạm và ƯXSP đều nhằm đạt tới mục
đích nào đó về giáo dục, song cái khác trong ƯXSP chính là thái độ mang
màu sắc cá nhân và các thủ thuật biểu hiện thái độ đó qua từng cử chỉ, lời nói,
sắc mặt,.v.v... của các chủ thể tham gia ứng xử. Tác giả Ngô Công Hoàn đã
nhận định rất hợp lý rằng: "khi sử dụng khái niệm giao tiếp, là muốn định
hướng vào mục tiêu công việc [nhằm vào đích đặt trước], còn ứng xử muốn
định hướng chính nào nội dung tâm lý, cái "bản chất xã hội" của cá nhân của
hành vi giao tiếp".
2.3. Chức năng của ứng xử sư phạm:
Nói tới chức năng của ứng xử sư phạm là nói tới vai trò đặc trưng của
nó trong sự hình thành nhân cách cho học sinh thông qua các hoạt động giáo
dục. Chức năng của ƯXSP được xác định trên mục đích giáo dục tổng thể và
mục tiêu cấp học. Những định hướng lớn này bao trùm lên tất cả hoạt động
giáo dục, chi phối việc xác định những chức năng của những hoạt động giáo
dục và giáo dưỡng khác. Hoạt động ứng xử có mặt trong tất cả các hoạt động
giáo dục, vì thế chức năng của ứng xử còn có cơ sở từ tính chất riêng biệt của

12

hoạt động này. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét một số chức năng cơ bản của
hoạt động ƯXSP.
Chức năng thông tin của ứng xử sư phạm
Hoạt động ứng xử về bản chất là một hoạt động giao tiếp xã hội thông
qua các phương tiện giao tiếp vật chất và phi vật chất và nhờ có những
phương tiện này [ngôn ngữ, vật thể, nhân cách của các cá nhân tham gia giao
tiếp] mà con người có được những mối quan hệ mang tính xã hội Sự hiểu biết
lẫn nhau giữa các cá nhân được thực hiện nhờ các kênh thông tin chứa đựng
trong các phương tiện giao tiếp.
Ứng xử sư phạm là một dạng giao tiếp xã hội diễn ra giữa 2 nhóm xã
hội: Giáo viên và học sinh. Thầy và trò có thể hiểu biết thấu đáo nhau hơn
nhờ các thông tin phát ra trong quá trình ứng xử [trước, trong và sau quá trình
ứng xử]. Những thông tin có trong ứng xử giúp cho giáo viên nhận biết được
tính cách, nhu cầu, sở thích năng lực chỗ mạnh, chỗ yếu của học sinh, của
những nhóm xã hội mà học sinh tham gia, đồng thời cũng tư nhận biết năng
lực và nghệ thuật sư phạm của bản thân mình. Về phía học sinh, cũng chính
trong quá trình ứng xử các em tiếp nhận được nhiều hơn hệ thống tri thức về
cuộc sống, cung cách đói nhân xử thế, hiểu rõ vị thế của mình trong tập thể
quyền lợi và trách nhiệm của bản thân trước cộng đồng, biết được tính cách
của thầy nhờ sự biểu đạt của thầy trong ứng xử. Thông tin có được trong ứng
xử không chỉ do chủ thể ứng xử và đối tượng tạo ra mà còn nhờ ở tập thể và
cộng đồng nơi xảy ra ứng xử [tin tức cập nhật xung quanh tình huống, dư luận
và truyền thống của tập thể...]. Nhờ có mối quan hệ diễn ra trong các ứng xử,
những thông tin được tiếp nhận và xử lý trở nên rõ ràng hơn về bộ mặt nhân
cách của cả chủ thể và đối tượng ứng xử bởi có nhiều nét tính cách của con
người chỉ được bộc lộ qua những tình huống nào đó.
Lượng thông tin có trong ứng xử qua nhiều lần xử lý của chủ thể và đối
tượng sẽtrở thành vốn kinh nghiệm ứng xử cho mỗi cá nhân, giúp cho mỗi cá
nhân hòa nhập tất hơn vào cộng đồng, vào tập thể, làm cho những cái vốn là
chung nhất của mọi người [đạo đức lối sống...], trở thành tài sản riêng của bản
thân, có sắc thái riêng tương ứng với đặc điểm tâm lý của mỗi người. Mỗi ứng
xử có thể đi tới những hiệu quả khác biệt về mặt giáo dục nhưng chức năng
thông tin luôn luôn tồn tại trong suốt quá trình ứng xử.

13

Chức năng điều chỉnh của ứng xử sư phạm
Hoạt động giáo dục nói chung là một hoạt động điều chỉnh. Điều chỉnh
nhận thức, điều chỉnh hành vi điều chỉnh hoạt động của học sinh. Người giáo
viên không thể thay thế những gì vốn đã có trong học sinh như trình độ nhận
thức, kinh nghiệm sống, các đặc điểm sinh học của các em. Hoạt động giáo
dục đòi hỏi người giáo viên phải nắm bắt được các quy luật hình thành, phát
triển nhân cách của học sinh để định ra được nội dung, phương thức, phương
tiện giáo dục cho phù hợp. Ứng xử sư phạm với tư cách là một quá trình giáo
dục cũng được thực hiện theo định hướng đó. Mỗi ƯXSP giải quyết một
nhiệm vụ giáo dục nhằm đạt tới những kết quả cụ thể: Đó có thể là uốn nắn
một hành vi sai lầm, khuyến khích động viên một nhân tố tốt, phê bình
nghiêm khắc trước khuyết điểm của học sinh.v.v và điều đó có nghĩa là liên
tục điều chỉnh quá trình hình thành nhân cách của học sinh theo một hướng
nào đó có lợi cho sự phát triển của cá nhân và tập thể. Sự điều chỉnh này của
ƯXSP diễn ra hàng ngày, tức thời và luôn luôn có tính hiệu nghiệm thông qua
những dấu hiệu có thể thấy được bằng trực giác [niềm vui hay nỗi buồn, ôn
hòa hay tức giận, đồng cảm hay phản ứng quyết liệt của học sinh]. Từ kết quả
của mỗi ứng xử, chủ thể ứng xử tự thấy mình cần phải làm gì và làm như thế
nào để những ứng xử tiếp theo có được hiệu quả cao hơn. Như vậy chức năng
điều chỉnh được xét về cả hai phía: Điều chỉnh nhân cách của đối tượng ứng
xử trong giải quyết tình huống của chủ thể và tự điều chỉnh phương pháp, thủ
thuật ứng xử của giáo viên trong và sau mỗi ứng xử.
Chức năng định hướng của ứng xử sư phạm
Định hướng trong ứng xử sư phạm được xét tới như là một chức năng
bao trùm lên các chức năng khác của ƯXSP bởi tính mục đích chiến lược
của các ƯXSP. Mỗi ƯXSP giải quyết một tình huống cụ thể và đạt tới một
hiệu quả nhất định về giáo dục và giáo dưỡng, song cái đích cuối cùng của
mỗi ứng xử và của một hệ thống các ứng xử là hướng tới việc hình thành một
nhân cách tốt đẹp hơn, thiết lập được mối quan hệ tốt đẹp bền chặt giữa thầy
và trò, giữa sự chỉ dẫn điều chỉnh của người giáo viên bằng tấm lòng nhân ái
cao cả và kinh nghiệm nghệ thuật sư phạm của mình với sự tiếp nhận, tự điều
chỉnh của học sinh: Mối quan hệ giữa cá nhân giáo viên với tập thể học sinh
và giữa các tập thể học sinh với nhau. Chức năng định hướng vừa có tính
tổng quan chung cho các thành phần tham gia ứng xử, đồng thời còn là sự
định hướng hoạt động cho mỗi thành phần riêng lẻ tùy thuộc vào vị trí của nó
14

trong ƯXSP: Định hướng chủ yếu đối với chủ thể ứng xử là sự cần thiết phải
có được hệ thống các tri thức, kỹ năng xử lý các tình huống sư phạm, là sự
khéo léo đối với sư phạm và ý thức chủ đạo dẫn dắt cho toàn bộ quá trình ứng
xử đạt tới mục đích giáo dục. Định hướng đối với đối tượng ứng xử chính là
giúp họ tự nhận rõ mình, biết được đúng sai, thấy quyền lợi và trách nhiệm
đối với tập thể, với xã hội. Có thể nói tích luỹ kinh nghiệm sống, biết tự điều
chỉnh ý thức, hành vi theo lẽ phải trong học tập và rèn luyện là cái đích cuối
cùng mà mỗi ƯXSP cần phải hướng tới.
Sự định hướng trong ƯXSP không nên hiểu như một con đường duy
nhất của mỗi ƯXSP phải nhất nhất tuân theo, mà phải được hiểu là cơ sở cho
mọi điều chỉnh, mọi thông tin trong ứng xử lấy đó làm cất lõi để vận động,
để đạt tới, còn việc sử dụng những kiểu loại ứng xử nào, thủ thuật ra sao lại
phải căn cứ vào tình huống cụ thể của mỗi ứng xử.
2.4. Văn hóa ứng xử sư phạm trong trường THPT:
Ứng xử sư phạm được thể hiện trong một nhóm xã hội đặc biệt bao
gồm hai chủ thể chính là thầy và trò , mỗi chủ thể giữ một vị trí xác định
trong quá trình ứng xử. Nói tới ƯXSP, trước tiên là nói t ới vai trò của người
giáo viên - chủ thể chịu những kích thích của tình huống do phía đối tác [cá
nhân học sinh hoặc tập thể học sinh] gây ra, họ ở vị trí của người tiếp nhận
thông tin [tình huống], xử lý thông tin và đáp lại đôi tượng tạo ra tình huống
của nghề dạy học
Yếu tố chi phối hiệu quả ứng xử là tính cách nhà giáo- học sinh: Thực
chất ứng xử sư phạm là quá trình giao tiếp giữa nhân cách giáo viên và nhân
cách học sinh. Mỗi cá nhân có một tính cách khác nhau, bởi vậy trong cách
ứng xử sư phạm đòi hỏi tấm lòng sẻ chia, nhân ái cao cả của nhà giáo cùng sự
tỉ mỉ, cần mẫn. Đồng thời, học sinh THPT là lứa tuổi thanh thiếu niên, rất
nông nổi, đề cao cái tôi, giai đoạn giữa trẻ con và người lớn...
Chúng ta vẫn thường nghĩ, trong nhà trường, quan hệ giữa thầy và thầy,
giữa lãnh đạo với giáo viên, giữa thầy với trò phải là những ứng xử mang tính
chất sư phạm. Tiếc thay, không phải trường nào cũng được như vậy. Một số
nơi, quan hệ này mang tính quản lý, thiếu tinh thần dân chủ, cởi mở, thậm chí
còn có cả sự trù úm, độc đoán của người quản lý với cấp dưới, của thầy với
trò và cả sự đố kỵ ghen ghét giữa các đồng nghiệp [ Theo Văn hóa học đường
của TS. Phạm Ngọc Trung]
15

Nói đến văn hóa ứng xử trong nhà trường, không thể không nói đến
cách ứng xử của thầy với thầy, của thầy với trò và ngược lại. Đa phân các
thầy, cô giáo đều mẫu mực, có cách ứng xử khéo léo. Theo điều tra tại trường
THPT Kim Liên, Hà Nội, 97,6% học sinh nhận xét thầy cô giáo trong trường
đều gương mẫu, có kỹ năng sư phạm, cách ứng xử sư phạm đúng mực, khéo
léo. Tuy nhiên số còn lại, cũng không phải không có các thầy cô hay gây sự
mất đoàn kết trong nội bộ, ghen ghét, đố kỵ với đồng nghiệp, tự coi mình là
cây đa, cây đề, là người giỏi nhất, không coi ai ra gì. Lại có những thầy cô
luôn tìm cách lấy lòng quản lý, từ nịnh hót đến mua chuộc để mong có sự
nâng đỡ. Họ đã làm mất đi sự kính trọng, tin tưởng của đồng nghiệp.
Song điều đáng bàn hơn là cách ứng xử của trò với thầy. Phải thừa
nhân rằng, học sinh thời nay năng động, tự tin và bạo dạn hơn rất nhiều so với
các thế hệ cha anh. Mối quan hệ uy quyền, nhất nhất theo thầy xưa kia đã thay
thế bằng mối quan hệ dân chủ, thầy trò cùng hợp tác trong dạy học và giáo
dục. Nhưng chưa bao giờ truyền thống Tôn sư trọng đạo lại bị xúc phạm,
xói mòn đến như vậy. Nhiều thầy cô không chịu nổi trước vô số những hành
vi bất kính, thô tục, vô lễ và tráo trở của học sinh. Trong lúc thầy- cô giáo lên
lớp, thì nhiều phòng học như chợ vỡ, học sinh nói chuyện, cười đùa, mất trật
tự, thậm chí sử dụng điện thoại trong lớp một cách tùy tiện Danh ngôn xưa
có câu Dạy không nghiêm là lỗi ở thầy, và học trò xưa rất kính trọng sự
nghiêm khắc ấy. Nhưng nay nếu thầy nghiêm thì trò thù ghét, thậm chí có
chuyện trò đánh chửi thầy.
Nguyên nhân của tình trạng trên một phần cũng là do đạo thầy chưa
tốt và cách ứng xử không có văn hóa của một số thầy cô. Các thầy cô phải có
tác phong sư phạm. Bởi vì, lời ăn tiếng nói, trang phục đều là giáo cụ trực
quan, mang tính giáo dục học trò khi thầy đứng trên bục giảng. Thế nhưng, đã
có không ít thầy cô coi đây là chuyện nhỏ, nên tùy tiện, cẩu thả khi đứng lớp;
ngôn ngữ ngày càng suồng sã Hay những hành vi trừng phạt học trò như
chửi rủa, bạo lực là những điều không thể chấp nhận được trong môi
trường sư phạm cũng như đối với nhân cách của người thầy.
Do đó, nhà giáo có vai trò quan trọng trong ứng xử sư phạm: Yêu cầu
vận dụng các quá trình nhận thức, tình cảm, ý chí, hành động, để giải quyết
tình huống ứng xử nhất định, phù hợp với yêu cầu sư phạm và sát với đặc
điểm tâm lý cá nhân của đối tượng giao tiếp- học sinh THPT. Luôn bám sát
mục tiêu giáo dục: Dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm.
16

17

CHƯƠNG 3.
QUY TRÌNH ỨNG XỬ SƯ PHẠM VÀ MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN
DẪN TỚI KHÓ KHĂN TRONG ỨNG XỬ SƯ PHẠM
1. QUY TRÌNH ỨNG XỬ SƯ PHẠM:
1.1. Đối tượng tham gia quy trình:
Tham gia vào quy trình ứng xử sư phạm trong trường THPT, có hai đối
tượng chính: một là thầy cô giáo- người dạy, trực tiếp truyền thụ kiến thức;
hai là học sinh- người học, đón nhận kiến thức trong quá trình dạy- học.
1.1.1. Đối với giáo viên:
Nhân cách của mỗi cá nhân bao gồm những phẩm chất chung, phẩm
chất riêng và đơn nhất, thể hiện dưới dạng hình chóp mà đáy của nó là những
phẩm chất mang dấu ấn sinh học và ở đỉnh là phần mang dấu ấn xã hội.
Những phẩm chất chung của nhân cách bao hàm song nó tư tưởng,
chính trị, đạo đức, thẩm mỹ,v.v... Phẩm chất riêng của nhân cách bao gồm:
Kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động nghề nghiệp năng lực, hứng thú, kỹ
năng, kỹ xảo, v.v...]. Những phẩm chất riêng lại biểu hiện ở những năng lực
nghề nghiệp như kỹ năng nhận thức, thiết kế, giao tiếp, chuyển tải thông tin
và tổ chức. Hệ thống các phẩm chất riêng biệt trong nhân cách của người giáo
viên còn bao hàm cả những đặc điểm của các quá trình tâm lý cá nhân và đặc
điểm của các kiểu thần kinh cao cấp cũng như khí chất.Trên thực tế, sự khác
biệt giữa người này và người khác chính là do sự khác biệt của những phẩm
chất nhân cách đã nêu trên, mặt khác, tính đa dạng và những yêu cầu nhiều vẻ
của nghề làm xuất hiện sự khác nhau của nhân cách.
Đối với nhân cách của giáo viên, có thể nêu ra 4 tiểu cấu trúc tương
ứng, đó là:
- Tiểu cấu trúc đạo đức xã hội và đạo đức nghề nghiệp của giáo viên.
Nội dung của tiểu cấu trúc này chứa đựng các phẩm chất giao tiếp với trẻ, ở
vòng ham muốn giáo dục trẻ.
- Tiểu cấu trúc thứ hai được xác định bởi nhiều phẩm chất chuyên
ngành như khả năng nhạy cảm trước các hành vi của trẻ, sự am hiểu sâu sắc
diễn biến tâm - sinh lý của trẻ trong quá trình giáo dục.
- Tiểu cấu trúc thứ ba gồm một tổ hợp các phẩm chất tâm lý như xúc
cảm, ý chí,v.v...
- Tiểu cấu trúc thứ tư bao gồm các mức độ biểu hiện khí chất, thang
bậc hưng phấn và ức chế, v.v...
18

Đối với phẩm chất sư phạm, có thể nêu dưới đây những dấu hiệu thành
phần như: Sự vững vàng về hứng thú và nhu cầu giáo dục, sự phát triển hài
hòa về trí tuệ đạo đức và thẩm mỹ tay nghề sư phạm, những đặc điểm của
lòng nhân ái đối với trẻ, các phẩm chất tự hoàn thiện, mức độ biểu hiện các
kiểu khí chất, tầm hiểu biết rộng rãi về khoa học, nghệ thuật thẩm mỹ, năng
lực sáng tạo trong công tác giáo dục, khả năng điều tiết các quá trình xúc cảm,
ý chí,v.v... của bản thân.
Tất nhiên, văn hóa sư phạm không phải là kết quả của phép cộng cơ
học các thành phần nêu trên, mà là sự kết hợp hài hòa giữa chúng trong những
điều kiện, tình huống sư phạm cụ thể. Cơ sở của học vấn sư phạm là các
thành phần học vấn chung như thế giới quan, đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ của
người giáo viên. Thiếu làm việc liên tục và sự nỗ lực của bản thân, người
giáo viên không thể làm cho nhân cách của mình đạt tới đỉnh cao của học vấn
sư phạm. Nói một cách khác, học vấn sư phạm là sản phẩm chín muồi của
một quá trình dày công tự rèn luyện đầy sáng tạo và tự tin của mỗi người giáo
viên. Có sự hiểu biết sâu rộng về khoa học, đó là cái cần thiết cho mình,
nhưng nghề dạy học bao giờ cũng gắn chặt với sự truyền thụ những hiểu biết
đó cho người khác. Người giáo viên cần phải biết cách chuyển tải sự hiểu biết
của bản thân mình cho học sinh. M.I.Calênin đã nhận xét: "Tôi biết nhiều
người nắm vững môn học rất sâu sắc nhưng hẳn chưa phải là những người
giáo viên nếu như anh ta không biết trình bày sự hiểu biết của mình. Điều cần
thiết là phải biết thu nhận kiến thức và biết cách trình bày nó như thế nào để
cho người nghe có thể tiếp nhận được". Đòi hỏi này đối với người giáo viên
liên quan tới những yếu tố tạo nên tay nghề và nghệ thuật sư phạm của họ.
Thật may mắn nếu như một người nào đó bước chân vào nghề sư phạm có
được một giọng nói hay, sức truyền cảm lớn cùng với những năng khiếu khác
tạo ra cho họ những cơ sở ban đầu của một tài năng sư phạm. Song như bất ..
cứ một lĩnh vực khoa học nào khác, tài năng sư phạm thường rất ít được thấy
một cách hiển nhiên.
Điều đó có nghĩa là: Muốn trở thành một giáo viên giỏi thì không nhất
thiết phải có tài năng sư phạm, nhưng rõ ràng con người đó phải có chí
hướng, quyết tâm và nghị lực, đó chính là tiền đề dẫn chúng ta tới tài năng sư
phạm.
Giáo dục và dạy học thực chất là sự truyền thụ những kinh nghiệm mà
loài người đã tích lũy cho thế hệ trẻ. Nhưng quá trình truyền thụ đó không
đơn thuần là một quá trình truyền đạt kiến thức mà còn là quá trình hướng
19

dẫn, tổ chức thế hệ trẻ đi theo những phương hướng xác định, duy trì hoạt
động của một tập thể, dù cho đó là một tập thể nhỏ ủa lớp học, người giáo
viên cần phải có năng lực tổ hực. Chính năng lực này sẽ chắp thêm sức mạnh
ho giáo viên, hợp nhất lý trí và tình cảm kiến thức và tài năng của mỗi cá
nhân vào một quỹ đạo khoa học. Đó không phải là những bộ mặt bên ngoài
của tập thể mà còn là sợi dây ràng buộc mỗi thành viên vào những khuôn
phép đa dạng phục vụ cho một mục đích của nhà giáo dục. Người giáo viên
giỏi sẽ là những người biết sắp xếp công việc của mình và đối tượng giáo dục
của mình một cách khoa học, hợp lý, biết phân định thời gian cho phù hợp với
tính chất công việc, biết sắp xếp, điều hành những công việc nội khóa và
ngoại khóa của học sinh sao cho nó tiến triển không phải như một mớ hỗn
độn mà là một bản chỉ dẫn chi tiết, đầy đủ.
Năng lực tổ chức, đó là phẩm chất đáng quý mà người giáo viên cần có.
V. I.Lê nin đã nhấn mạnh đầy đủ ý nghĩa của năng lực đó, ông viết: "Người
cán bộ chuyên môn dù có giỏi đến đâu chăng nữa mà nếu không có năng lực
tổ chức thì cũng chỉ là một cán bộ chuyên môn. Tài tổ chức là một trong
những đức tính quý nhất của con người".
Hoạt động của giáo viên không chỉ giới hạn trong khuôn khổ của nhà
trường phổ thông mà nó còn được mở rộng ra phạm vi ngoài xã hội. Nếu
như giáo dục là sự nghiệp của quần chúng và ảnh hưởng của môi trường xã
hội là vô cùng trọng yếu tới sự phát triển của mỗi cá nhân thì đương nhiên
người giáo viên phải biết ngắn chặt công việc của mình với những hoạt động
của xã học biết vận động các tổ chức ngoài xã hội cùng góp phần vào xây
dựng sự nghiệp giáo dục. Trong quá trình vận động quần chúng, mỗi giáo
viên có dịp đi sâu vào thực tiễn của đời sống xã hội, tạo ra những biến đổi về
tư tưởng cho chính bản thân họ. V.I.Lê nin đã từng nói: Chúng ta có thể
chẳng đặt niềm tin vào việc học tập, giáo dục và giáo dưỡng nếu như nó chỉ
giới hạn trong trường học và tách rời cuộc sống đang sôi động".
1.1.2. Đối tượng học sinh:
Có thể nói, học sinh PTTH là một nhóm người xã hội đặc biệt, được
chuẩn bị để bước vào các lĩnh vực học tập nghề nghiệp hoặc trực tiếp tham
gia lao động xã hội, là nhóm người thuộc một độ tuổi xác định và là một nhân
cách.
Người học sinh PTTH có những đặc điểm sau đây:

20

Tải về bản full

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề