Cách xây dựng hình tượng thần linh trong thần thoại ấn Độ

Thần linh trong thần thoại cổ đại

NSGN - Trong nhiều thập kỷ qua, có một sự hồi sinh trong việc nghiên cứu về thần thoại so sánh từ nhiều quan điểm và các ngành khác nhau. Công việc nghiên cứu bao quát một phạm vi rộng lớn, gồm vùng cận Đông cổ đại, Ấn-Âu, Đông Á và thần thoại cổ xưa hay thời tiền văn tự, đã được những nhà ngôn ngữ học, nhân loại học, những chuyên gia và sử gia tôn giáo thực hiện.



Thần Vishnu một trong các vị thần của Ấn Độ - Ảnh internet

Ví dụ, ta có thể nhắc đến công trình của Eliade, Lévi-Strauss, Dumézil, Wikander, Durchesne-Guillemin v.v… Vì giới hạn của bài viết này, tôi không thể khảo sát những vấn đề chuyên môn được tranh luận như một kết quả của việc nghiên cứu mới này. Nói đúng hơn, điều tôi muốn làm là miêu tả vắn tắt loại trải nghiệm tôn giáo mà ta tìm thấy nơi những khu vực văn hóa cổ đại trước khi xuất hiện tư tưởng triết học. Tôi sẽ tự giới hạn chủ yếu nơi những thần thoại của Ấn Độ và Nhật Bản cổ đại với thỉnh thoảng đề cập đến những ngữ cảnh khác.

Những thần thoại được phản ánh trong Ṛg-Veda của Ấn Độ và Avesta của Iran có nhiều điểm tương đồng - chẳng hạn ở nơi tên của các vị thần và những thuật ngữ khác - cho thấy rằng cả hai hệ thống thần thoại có một nguồn chung vào thời cổ đại. “Chúng ta cần thấy mối liên hệ ở nơi lĩnh vực thần thoại giữa Veda và Avesta là vấn đề quan trọng, mà không phải sự cải cách tôn giáo của Zarathustra, điều tất nhiên xảy ra sau sự tách rời các nhánh Ấn Độ và Ba Tư...”1 Cả hai thần thoại đều có một vị thần liên quan đến mặt trời [Mitra trong Veda = Mithra trong Avesta], một vị thần được gọi là “con trai của sông hồ” [apāṃ napāt trong Veda = apām napāt trong Avesta], và một vị thần được nối kết với soma [Gandharva trong Veda = Grandereva trong Avasta]. Từ những bản văn sớm nhất của Ấn Độ và Iran, rõ ràng rằng những người Ấn-Iran thừa nhận hai loại thần linh, thứ nhất là các arura trong Veda hay ahura trong Avesta, và thứ hai là các deva trong Veda và daeva trong Avesta.2 Nhóm trước ban đầu được quan niệm như những vị vua hùng mạnh, đi khắp không trung trên những cỗ xe của họ được kéo bởi những chiến mã phóng như bay, họ có tính cách nhân từ, và hầu như hoàn toàn không có những điểm xấu xa và xảo trá.3

Những bản văn cho biết rằng trải nghiệm tôn giáo của con người thời Veda tập trung vào thế giới này. Có một sự tương quan giữa thế giới tự nhiên, vũ trụ, và đời sống đoàn thể của con người. Con người thực hiện các tế lễ đối với thần linh, và chính các hiện tượng tự nhiên hoặc được thần linh hóa hoặc được nối kết với nghĩa thiêng liêng hầu như ở mọi thời điểm. Những nhà tiên tri Veda ưa thích chiêm nghiệm thế giới tự nhiên và chìm đắm trong sự kỳ diệu của thế giới tự nhiên. Đối với họ, mưa gió, mặt trời, các vì sao là những thực thể sống và là một phần không thể tách rời đời sống tinh thần. Nhiều bài thánh tụng không nói đến một vị thần mặt trời, thần mặt trăng hay một vị thần lửa v.v…; mà chính mặt trời chiếu sáng, mặt trăng sáng tỏ ở trên bầu trời về đêm, ngọn lửa cháy rực trong lò sưởi hay trên bàn thờ, hay thậm chí ánh sáng chiếu qua đám mây, tất cả là những biểu hiện của cái thiêng liêng huyền bí. Sự thâm nhập thiêng liêng này của thế giới hiện tượng tự nhiên vào đời sống tập thể của con người có thể được xem là hình thức sớm nhất của tôn giáo Veda.

Một thái độ như vậy cũng là đặc điểm của Thần đạo sơ kỳ. Tôn giáo của Nhật Bản sơ kỳ nhấn mạnh lòng biết ơn đối với những tác lực tốt của tự nhiên, trong khi ở một mức độ nào đó cũng nhân nhượng những tác lực xấu. Những tác lực này được gọi một cách dễ dãi là “kami” mà thường được dịch là “thần linh”.

Tiếp theo giai đoạn này là sự xuất hiện những suy nghiệm khác nhau về ý nghĩa của đời sống tôn giáo. Những bài thơ Veda tìm cách khám phá bản chất của hiện tượng tự nhiên. Những nhà thơ diễn đạt những trải nghiệm của bản thân họ thành những hình ảnh thiêng liêng và tìm cách giải thích hiện tượng bằng những nguyên nhân mà chúng giống với trải nghiệm của chính họ. Hiện tượng tự nhiên dần được làm cho quan trọng lên, được biến đổi thành những nhân vật thần thoại, tôn thành thần và nữ thần.

Ví dụ, việc thờ phụng thần mặt trời là một trường hợp dễ thấy.4 Ở Ấn Độ, mặt trời được thần linh hóa là sūrya [tham khảo Phoebus-Apollo, Sol].5 Trong Hindu giáo về sau, việc thờ phụng mặt trời trở thành một nghi lễ tôn giáo quan trọng. Trong các Purāṇa, việc này do các hoàng gia thực hiện, mà họ tự thừa nhận là hậu duệ của mặt trời. Chính Đức Phật được cho là thuộc về một gia đình có tổ tiên từ mặt trời [ādicca-bandhu]. Ở Nhật Bản, mặt trời được thần linh hóa là Nữ thần Amaterasu-Ō-mikami [天照大神/ Thiên chiếu đại thần, hoặc 天照大御神/ Thiên chiếu đại ngự thần, hoặc 天照皇大神/Thiên chiếu hoàng đại thần], vị được thờ phụng như là tổ tiên của hoàng tộc. Người ta nghĩ rằng mặt trời giữa trưa được hóa thành thần. Thần thoại tổ tiên mặt trời của hoàng tộc được chấp nhận rộng rãi trong những thị tộc khác nhau cư trú ở Nhật Bản, bao gồm nhiều thị tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và Hàn Quốc. Khuynh hướng này không có ở Ấn Độ. Tuy nhiên, Nữ thần Mặt Trời của Nhật Bản được hầu hết tín đồ Thần đạo xem như là một nhân vật lịch sử thật sự, trong khi thần mặt trời của Ấn Độ không như vậy. Về người Hy Lạp, được nói rằng, “Mỗi triết gia Hy Lạp, bất kể vị ấy có nghĩ gì vào lúc trưởng thành, đều được dạy vào thời thơ ấu là hãy xem mặt trời và mặt trăng như những vị thần; Anaxagoras bị truy tố tội bất kính bởi vì ông nghĩ rằng chúng đã chết”6.

Cũng vậy, bình minh được tán dương trong các Veda như là Uṣas, một thiếu nữ xinh đẹp và e ấp. Ở phương Tây, chúng ta có Eos và Aurora, và chúng ta tìm thấy một hình mẫu tương tự của người Nhật ở nơi Nữ thần Waka-hirume-no-mikoto [稚日女尊/Trĩ Nhật Nữ Tôn], sự thần linh hóa mặt trời mọc. Trong các Veda, mặt trăng được thờ phụng như là Soma; ở Nhật Bản, việc thờ phụng mặt trăng không có chứng cứ vững chắc, nhưng thần Tsuki-yomi-no-mikoto [月読尊/Nguyệt Độc Tôn] thì được nhắc đến7. Trong các Veda, gió được thờ phụng như là Vāyu hay Vāta, và sấm sét là Maruts. Chúng ta cũng tìm thấy những điều tương tự ở Trung Quốc và Nhật Bản8. Các Veda đã thần linh hóa nước thành Āpas. Ở Nhật Bản, có thể là nước không được thần linh hóa, nhưng được xác nhận là có một vị thần sống ở trong đó. Ở Ấn Độ, nữ thần của ao hồ, Sarasvatī, xuất hiện vào một giai đoạn sớm. Việc thờ phụng bà được Phật giáo Kim Cương thừa [Vajrayāna] tiếp nhận,9 và bà cuối cùng được giới thiệu vào Nhật Bản, được tiếp nhận như một vị thần dân gian với tên gọi “Benten” [弁財天/Biện Tài Thiên]. Việc thờ phụng bà hiện vẫn phổ biến trong dân chúng Nhật.

Tên gọi của những vị thần này ở cả Ấn Độ và Nhật Bản, và cũng ở nơi nhiều quốc gia khác, cho biết nguồn gốc của họ.10 Nhiều nhân vật nổi bật trong thần thoại Ṛg-Veda đã xuất phát từ việc nhân cách hóa những hiện tượng tự nhiên đặc biệt.11

Cũng có những nhân vật khác trong thần thoại Veda nối kết mật thiết hơn với đời sống của cộng đồng. Họ được kính trọng như những nhân vật hùng mạnh, được phân biệt thông qua những việc làm thần kỳ của họ. Nhóm này thuộc về Indra, Varuṇa, Mitra, Viṣṇu, Pūṣan, hai vị Aśvin [nghĩa đen là kỵ sĩ, có thể so sánh với dioskouroi của Hy Lạp] và Rudra. Thần Aditi [vô hạn], tương ứng với Apeiron [không giới hạn] của Hy Lạp, được cho là không trung, mẹ, cha và con. Bà bao hàm tất cả.

Trời được nhân cách hóa và thần linh hóa thành Dyaus trong Veda, và nhân vật tương ứng trong tôn giáo Hy Lạp giống nhau về mặt ngữ âm là Zeus [=Dyaus]. Tuy nhiên, Zeus là một nhân vật phức tạp hơn nhiều, giống một con người hơn Dyaus của Veda. Những thi sĩ của Ṛg-Veda nói đến Thiên phụ với hình thức xưng hô “Dyauṣ pitaḥ”12 [hỡi Thiên phụ!], điều tương tự với “Zeus pater” trong tiếng Hy Lạp và “Juppiter” [Jovis Pater = fatherly Jove] trong tiếng La-tinh. Ở Trung Quốc cổ đại, trời được gọi Thần chủ. Vua Chu tự gọi mình là “Thiên tử”, và nhà Chu [周朝] biện minh với dân chúng rằng việc xâm chiếm nhà Thương [商朝] của họ là theo mệnh lệnh của trời [天命/thiên mệnh]. Họ như vậy là những người trung gian giữa con người và thế giới tự nhiên.13 Nơi thần thoại Nhật Bản, trời không phải là một vị thần mà là nơi các vị thần cư ngụ, hoàn toàn khác với Dyaus hay Varuṇa của Ấn Độ và Zeus của Hy Lạp. Tuy nhiên, nó giữ một vị trí cốt yếu trong thần thoại Nhật Bản. So sánh với những truyền thống khác, việc thờ phụng trời không phát triển đầy đủ ở Ấn Độ.

Trái đất được gọi là một người mẹ trong Ṛg-Veda. Đây cũng là trường hợp ở trong tôn giáo Hy Lạp,14 mà không có trong Nhật Bản cổ đại.15 Trong các thánh tụng của Ṛg-Veda, trời và đất thường cùng được cầu khẩn trong hình thức một cặp đôi như Dyāvāpṛthivī. Ở Thessaly, Zeus được thờ phụng cùng với nữ thần tương ứng, Dione, những Dione về sau bị lãng quên.16 Quan niệm về trời và đất là cha mẹ chung có lẽ có nguồn gốc từ thời cổ xưa, vì quan niệm này phổ biến nơi thần thoại Trung Quốc và thần thoại New Zealand, và có thể được suy ra từ nơi thần thoại Ai Cập.17

Thần lửa,18 Agni [La-tinh: Ignis; Anh: Ignition] là vị thần tối cao trong các tế lễ ở Ấn Độ. Lửa mang những đồ cúng tiến từ mặt đất lên cho các vị thiên thần. Có một sự thật được nhiều người biết đến rằng lửa được kính trọng trong tôn giáo của Iran, và trong những người Parsi. Ở Nhật Bản, thần lửa được thờ phụng dưới tên gọi Kagu-tsuchi [người cha sáng chói]19 hay Homusubi [bốc lửa lên]. Quan điểm lửa như là thứ tỏa khắp là điểm chung đối với cả Ấn Độ và Nhật Bản cổ đại.20 Nhưng khó để nhận biết đặc điểm của thần lửa của người Ấn cổ đại. Mặc dù lửa cốt yếu đối với việc hiến tế của những chủng tộc Ấn-Âu, Thần Lửa [Agni], vốn rất phổ biến trong tôn giáo Ṛg-Veda, dần đánh mất vị thế trước đó của nó. Một khái niệm về lửa như nguyên lý cơ bản của vũ trụ, như được Heraclitus chủ trương, không xuất hiện nơi những triết gia Hindu, những người tìm kiếm một trạng thái phần nào tịch lặng và bình yên.

Trong số nhiều vị thần của người Ấn thời Veda, Indra là vị thần nổi tiếng nhất. Được trang bị vũ khí sấm sét, ngài được tin đã giết chết một ác quỷ được gọi là Vṛtra. Biệt danh chính và riêng của ngài là Vṛtrahan [Kẻ giết chết Vṛtra]. Indra Vṛtrahan, Thần Indra giết ác quỷ, xuất hiện nơi Avesta với khả năng của Indra đã được thay đổi, và như một vị thần Vərəthragna chiến thắng [một sự thay đổi rõ ràng được tạo ra bởi sự biến đổi thần thoại do việc cải cách tôn giáo của Zarathustra tạo ra]. Nhiều học giả nghĩ rằng Indra vốn là một vị thần sấm sét, và rằng những ngọn núi mà ở đó nước bao bọc xung quanh tượng trưng cho những đám mây. Vṛtra - ác quỷ hạn hán - được nghĩ đã giam cầm nước.21 Có nhiều thánh tụng trong các Veda nói về Indra. Bởi vì những người Aryan thời Veda vẫn đang đánh nhau một cách bạo lực với người bản xứ, Indra được trình bày như một vị thần vô cùng hiếu chiến. Sức mạnh khủng khiếp và tính hiếu chiến của ngài được mô tả lặp đi lặp lại. Những thi sĩ Veda đặc biệt thích liên hệ những trận đánh của Indra với các ác quỷ, mà ngài đã hủy diệt chúng bằng sấm sét của mình. Trời và đất đã run sợ khi Indra giết Vṛtra. Ngài hủy diệt rồng không chỉ một lần, mà tái diễn nhiều lần, và ngài luôn được thỉnh cầu giết Vṛtra trong tương lai để giải phóng nước. Ngài có thể được xem giống như Teutonic Thunar, vị luôn vung cái búa sấm sét Mojohnir.

Vào thời kỳ đầu tiên, Indra hiếu chiến rõ ràng là chúa tể của các vị thần. Ngài giống với Zeus22 của Olympus của Hy Lạp, hay Jupiter của những người La Mã mà họ liên hệ sự có mặt của ngài với chúa tể của các thần linh.23 Những đặc điểm của Zeus thì rất giống với những đặc điểm của Indra,24 và tuy vậy ngài có một đặc điểm mà nó thiếu ở nơi Indra: Zeus hành động như quan tòa công chính. Đặc điểm này cũng vắng mặt ở nơi huyền thoại Nhật Bản. Người ta cho rằng những vị thần của thần thoại Nhật Bản không làm công việc xét xử. Đây là một đặc điểm mà nó đóng vai trò quan trọng nơi tư duy pháp lý của những quốc gia Đông Á. [Một ngoại lệ là Yama, vị cai quản người chết nơi thần thoại Veda. Trong Đại sử thi, ngài trở thành vị xét xử người chết. Nhân vật này du nhập vào trong Đạo giáo Trung Quốc, và sau đó vào trong tín ngưỡng dân gian Nhật Bản. Ngài được gọi là “enma”, sự phiên âm của Nhật Bản từ Sanskrit “Yama”. Nhưng ở Trung Quốc và Nhật Bản, ngài có phần được xem là xa lạ đối với quần chúng nói chung]. Trong thần thoại Nhật Bản, ta có thể tìm thấy một số nhân vật tương ứng với Indra, chẳng hạn như thần sấm sét [Narukami/鳴神/Minh Thần] v.v… Thần bão tố Susano-wo-no-mikoto [須佐之男命]25 đã giết một con rồng tám đầu bằng một thanh gươm thần diệu, mà nó được cho do hoàng tộc truyền lại như một biểu tượng của vương quyền. Tính cách mạnh mẽ và đôi khi tàn bạo là hoàn toàn giống với tính cách của Indra. Tuy nhiên, trong khi Indra thuần túy là một vị thần, Susano-wo-no-mikoto vừa là một vị thần và đồng thời là một con người, và xuất hiện ở nơi một khung cảnh lịch sử như một người bà con của tổ tiên hoàng gia Nhật.

Trong số những vị thần được đề cập ở trên của tôn giáo Veda, những vị thần sinh sản không được thấy rõ. Ngược lại, những vị thần dạng như vậy dễ nhận thấy nơi Thần đạo sơ kỳ. Vị thần của sự sinh trưởng [musubi] là một sự nhân cách hóa một đặc điểm sinh sản trừu tượng. Tajikara-no-wo [天手力男神/Thiên thủ lực nam thần] là một dạng người được nhân cách hóa và nâng lên thành hàng thần.

Toàn bộ những vị thần Veda đôi khi được gọi chung là “tất cả thần” [viśve devāḥ]. Trước đây, “tất cả thần” có con số lên đến 3.339 vị, phản ánh ba phương diện của thế giới: đất, không khí và bầu trời.26 Ở Nhật Bản cổ đại, có một khái niệm tương tự là “vô số thần” [nghĩa đen là “tám triệu thần” [Yao-yorozu-no-kami-gami]]. Con số các vị thần trong Thần đạo luôn thay đổi bất thường. Một số bị lãng quên và một số được tái hình thành về sau dưới tên gọi mới; hoặc mặt khác, toàn bộ những vị thần mới được bổ sung vào hệ thống chư thần. Tính cách của vô số những vị thần này thì không rõ ràng. Tuy nhiên, tương tự như sự phân chia giữa những vị thần Olympia và những vị thần huyền bí ở trong thần thoại Hy Lạp, một sự phân chia được thực hiện giữa những người con của Thần Bão và những vị thần liên quan đến Nữ thần Mặt Trời [Ama-terasu - Ō-mi-kami]. Trong thần thoại Nhật Bản, “lĩnh vực hữu hình” thuộc về nhóm sau, còn “lĩnh vực vô hình” thuộc về nhóm trước.

Những vị thần27 trong Ṛg-Veda được thỉnh mời đến ăn như những vị khách vào những lễ cúng. Họ lấy đồ ăn và uống rượu; họ được cầu khấn, tôn thờ, được làm cho nguôi giận, hài lòng. Con người có sự liên hệ trực tiếp với thần linh mà không có bất kỳ sự trung gian nào; các vị thần được xem như những người bạn thân thiết của những người phụng thờ họ. Họ được nói đến với những từ như “Thiên Phụ”, “Địa Mẫu”, “Angi anh em”. Có một mối liên hệ rất mật thiết giữa con người và thần linh, và mọi hiện tượng hàng ngày được xem là phụ thuộc vào thần linh. Trong cùng cách, những dân làng Nhật Bản đôi khi cầu nguyện những vị thần riêng lẻ, đôi khi cầu nguyện những vị thần cụ thể, và đôi khi chư thần nói chung. Những lời cầu nguyện bao gồm những lời cầu xin mưa, mùa màng bội thu, được bảo vệ trước những trận động đất và hỏa hoạn, cầu xin con cái, sức khỏe và thọ mạng cho vua, và cầu nguyện hòa bình và thịnh vượng cho quốc gia.28 Ở mức độ nào đó, phương diện vật lý của những vị thần trong Ṛg-Veda mang hình hài con người, giống như phương diện vật lý của những vị thần Hy Lạp; đầu, mặt, mắt, cánh tay, bàn tay, chân, và những bộ phận khác của cấu trúc con người được gán cho họ; tuy nhiên hình thù của họ thường không rõ và chân tay của họ thường chỉ mang nghĩa ẩn dụ để miêu tả những hoạt động của họ. Do đó, lưỡi và chân tay của thần lửa chỉ là những ngọn lửa của ngài, tay của thần mặt trời chỉ là những tia chiếu của ngài, trong khi mắt của ngài tượng trưng cho hình mặt trời.29 Các vị thần không phải luôn mang đặc điểm đạo đức. Họ thường mang những nhược điểm của con người và dễ được làm cho vui lòng bằng sự nịnh hót. Họ ban tặng lợi ích để đổi lấy đồ cúng được dâng cho họ. Ở nơi một thánh tụng, các vị thần bàn bạc về những gì họ nên trao. “Đây là điều ta sẽ làm - không phải điều kia; ta sẽ ban cho ông ta một con bò hay một con ngựa đây? Ta muốn biết là ông ta có thật sự cúng rượu Soma cho ta hay không.”30 Một luật đơn giản về cho và nhận trở nên phổ biến.

Trong tôn giáo Hô-me, chúng ta thấy các vị thần được sắp xếp theo cấp bậc, được tổ chức như một gia đình thần linh, nằm dưới sự cai trị của một vị thần tối cao.31 Giống như những vị thần trong Veda, họ là những con người, nhưng họ không phải là những con người mơ hồ và không rõ ràng; họ là những vị thần cụ thể và thuộc con người có tính cách mạnh mẽ và được xác định rõ ràng.32 Họ không phải là những thần linh, mà là những con người bất tử có thân xác và linh hồn siêu nhân.33 Một sự phân chia các vị thần tỉ mỉ như vậy với những tính cách cụ thể là hoàn toàn khác với khái niệm của Veda về thần linh. Ta có thể hoài nghi rằng những vị thần trong Veda đại diện cho một giai đoạn sớm hơn trong việc phát triển thần thoại, nhưng đặc điểm riêng của mỗi vị thần trong Veda hay Ấn giáo không rõ ràng trong những thời kỳ về sau. Sự khác nhau không phải là sự khác nhau của giai đoạn phát triển, mà đúng hơn là sự khác nhau về bản chất những khái niệm riêng về thần linh. Những vị thần trong các thần thoại Ấn Độ có ít nét đặc trưng riêng, và cuối cùng những nhà tư tưởng Hindu chính thống đi đến phủ nhận tất cả tính cách dành cho các vị thần. Ví dụ, Indra, vị thần rất được kính trọng trong Ṛg-Veda, đi đến được xem như chỉ là một danh xưng chung - tức là người sùng đạo nào nắm giữ vị trí đó thì được gọi bằng danh xưng “Indra”. Vị ấy không phải là một người cụ thể.34 Trong sự nối kết với vấn đề tính cách của các vị thần, chúng ta có thể chỉ ra rằng trước khi Phật giáo xuất hiện, Bà-la-môn giáo không có các tượng thần. Nghệ thuật Ấn Độ có thể truy nguyên nguồn gốc chính yếu từ thời đại Maurya, khi Phật giáo hưng thịnh.

Thần đạo thực tế cũng không có tượng thần, không phải bởi người Nhật cổ đại được khai sáng, mà bởi vì họ không có nghệ thuật cao trước khi nghệ thuật điêu khắc và hội họa từ Trung Quốc du nhập vào, và bởi vì họ rất yếu trong việc gán một đặc tính riêng cho mỗi vị thần. Chỉ sau khi Phật giáo du nhập thì nghệ thuật Nhật Bản mới hưng thịnh.


Thần Izanami và Izanagi trong thần thoại Nhật Bản - Ảnh internet

Ở Nhật Bản, nơi những thời kỳ về sau, được khẳng định có chủ ý rằng mọi thứ ở trong thế giới tự nhiên đều thiêng liêng. Kitabatake Chikafusa [1293-1354] nói: “Đất nước chúng ta do hai vị thần, nam và nữ tạo lập. Ngay cả sông núi và cây cối của đất nước này tất cả đều có tên gọi thiêng liêng. Thần núi là Oyama-tsumi, thần nước là Mizahanome, thần biển là Wadatsumi-no-mikoto, thần hải cảng là Haya-aki-tsuhi-no-mikoto, thần đất là Haniyasu, thần lửa là Kagutsuchi, và thần gió là Shinatobe-no-mikoto. Không có một mảnh đất nhỏ bé nào mà ở đó không có thần. Kỳ lạ thay, mọi thứ có thể xúc chạm, nghe hay nhìn thấy đều mang bản chất thần thánh. Còn những gì nữa khi ta nhìn lên bầu trời, thần mặt trời mà ngài chiếu sáng ban ngày là Ō-hirume-muchi-no-mikoto, đấng tổ tiên tối cao của hoàng gia chúng ta, trong khi mặt trăng soi sáng ban đêm là Tsuki-yomi-no-mikoto, và Shihatobe-no-mikoto là thần gió, vị đã thổi bay tất cả mọi uế nhiễm. Và hơi thở quý giá của một người, mà đó là hơi thở cuộc sống của người ấy, chính là vị thần này. Do đó người ấy không được lạm dụng nó.”35 Motoori Norigana, nhà nghiên cứu Thần đạo xuất chúng đầu thời kỳ hiện đại, nói: “Thuật ngữ kami được áp dụng trước hết cho những vị thần Trời và Đất khác nhau mà họ được đề cập trong những tài liệu cổ, cũng như những linh hồn [mi-tama] của họ cư ngụ trong những miếu thờ mà ở đó họ được thờ cúng. Ngoài ra, không chỉ con người, mà chim muông, cây cối, sông núi, biển cả và tất cả những thứ khác mà chúng xứng đáng được kính trọng và nể sợ bởi sức mạnh phi thường và vượt trội mà chúng có, đều được gọi là kami. Chúng kiệt xuất không nhất thiết vì sự cao quý, lòng tốt, và hữu ích vượt trội. Những sinh vật độc ác và kỳ dị cũng được gọi là kami, nếu chúng là những đối tượng tạo nên nỗi sợ hãi chung. Trong số những kami mà họ là con người, tôi cần đề cập đến những Mikado… Trong số những thứ khác, có sấm sét [tiếng Nhật là Naru kami hay Minh thần/鳴神], rồng, tiếng vang [trong tiếng Nhật được gọi là Kodama/木霊], và cáo, mà chúng là kami bởi bản chất kỳ bí của chúng. Thuật ngữ kami được dùng trong Nihongi và Manyōshū - một tuyển tập thơ cổ - để chỉ cho cọp và chó sói. Izanagi đã đem cho trái đào, và cho đồ trang sức đeo quanh cổ, những tên gọi mà nó ngụ ý rằng chúng là kami… Có nhiều trường hợp về biển và núi được gọi là kami. Nhưng đó không phải chỉ cho những vị thần của biển và núi. Từ này được áp dụng trực tiếp cho chính biển hay núi, như là những thứ rất đáng kinh sợ.”36

Đặc điểm khác của Thần đạo là sự thật rằng nhiều vị thần Nhật Bản được xem là những con người lịch sử có phẩm chất cao quý. Đối với người Nhật cổ đại, thế giới thần thoại và thế giới tự nhiên thâm nhập lẫn nhau đến một mức độ mà những hoạt động của con người được giải thích và chấp nhận dưới dạng những gì mà kami, tổ tiên hay những vị anh hùng, đã làm ở thời ban sơ. Toàn bộ đời sống của con người và vũ trụ là thiêng liêng, được thấm nhuần bản chất kami.

Nguyên Hiệp dịch

[Nguồn: Hejima Nakamura, A Comparative History of Ideas, Motilal Banarsidass Publishers, Delhi 1992, tr.26-35]

______________

[1] A. A. Macdonell, Comparative Religion, p.60.

[2] The Concise Encylopedia of Living Faiths. Edited by R. C. Zaehner. New York, Hawthorn Books, Inc. 1959, p.210.

[3] A. A. Macdonell, Comparative Religion, p.60.

[4] Trong thần thoại Ai Cập, “Người ta nói ở trong Turin Papyrus rằng, Thần Mặt Trời là Khepera vào buổi sáng, Ra vào buổi trưa, và Atum vào buổi tối, nhưng sự phân biệt không bao giờ được thực hiện một cách nhất quan; ví dụ, một cổ thư miêu tả mặt trời mọc là Ra và mặt trời lặn là Khepera.” James George Frazer, The Worship of Nature, vol. I [London: Macmillan and Co., Ltd., 1926, vol. 1, p.559]. “Thần Mặt Trời Tum hay Atum nguyên thủy là vị thần địa phương Heliopolis, và vào thời kỳ này, nơi mọi trường hợp, ngài được xem là một hình thức của vị Thần Mặt Trời vĩ đại Ra, và nhân cách hóa mặt trời lặn với Khepera, đối nghịch với mặt trời buổi sáng”. [Ibid., p.570]. Ở Nhật Bản, người ta cũng quan niệm thần mặt trời như một vị nam thần, Hiruko hay Hiko, nhưng quan niệm về thần mặt trời như một nam thần không phát triển. Trong Ryukyu, mặt trời được gọi là “Tedako”, là một nam thần. Genchi Katō, Shintō no Shūkyō Hattatsushi teki Kenkyū, Tokyo, Chūbunkan, 1935, p.38. “Ở Babylonia, Thần Mặt Trời Shamash luôn là giống đực, nhưng ở Nam Arabia, tên gọi Shams của ngài là thuộc giống cái.” [Frazer, op. cit., vol. 1, p.529]. Những người Angami Naga đã nhân cách hóa mặt trời khi xem mặt trời như là nữ giới, vợ của mặt trăng, mà được họ xem như là một nam giới [Frazer, ibid., p.635].

[5] Heinrich Robert Zimmer, Philosophies of India [New York, Pantheon Books, 1951], p.10.

[6] B. Russell, A History of Western Philosophy, in lần thứ năm, [New York: Simon and Schuster, 1945], p.204.

[7] Trong những tác phẩm cổ điển của Nhật Bản, thần mặt trăng được xem như một nam thần với tên gọi Tsukiyomi-no-otoko. [Manyōshū, vols. 4; 6. Genchi Kato, Shinto no Shūkyō Hattatsushi teki Kenkyū, Tokyo, Chūbunkan, 1935, p.38f.]

[8] Gió cũng được thần linh hóa ở Nhật Bản, và được gọi là Hayachi. Ở Trung Quốc, thần gió được nhân cách hóa một cách rõ ràng ở nơi những danh xưng như “Phong chủ” hay “Phi hành chủ”. Katō, Shintō, p.26f.

[9] Ngay ở trong văn học Phật giáo không thuộc Kim Cương thừa, Sarasvatī là một nhân vật quan trọng. Tham khảo kinh Suvarṇaprabhāsa [kinh Kim quang minh].

[10] Chúng ta có thể đề cập thêm nhiều trường hợp tương tự. Ví dụ, thần mưa trong Veda, Parjanya, về từ nguyên giống với thần sấm sét của người Lithuania, được gọi là Perkunas. Tham khảo Friedrich Max Muller: India. What can it teach us? Loạt bài giảng được trình bày tại Đại học Cambridge, London, Longmans, 1910 Lecture VI, pp.189-192. Những trường hợp khác thuộc loại này cũng được đề cập trong tác phẩm này.

[11] H.A. Frankfort, John A. Wilson, Th. Jacobson, Before Philosophy; the intelectual adventure of ancient man. An essay on speculative thought in the Ancient Near East. Middlesex, 1951, [A Pelican Book], pp.12-13.

[12] Ṛg-Veda, Vi, 51, 5, ect.

[13] Ewin O. Reischauer and John K. Fairbank, East Asia. The Great Tradition, Boston, Houghton Mifflin Company, 1958, p.50. Thảo thuận đầy đủ của T’ang Chun-I [Thiên mệnh nơi Trung Quốc tiền Tần, Philosophy East and West, vol. XI, No. 4, Jan. 1962, pp.195-218]. Honer H. Dubs cố gắng tìm thuyết hữu thần ở nơi Trung Quốc tiền Hán [Theism and Naturalism in Ancient Chinese Philosophy, Philosophy East and West, vol. IX, Nos. 3 and 4, Oct. 1959-Jan. 1960, pp.145-162].

[14] “Nữ thần Đất thực sự của người Hy Lạp là Gaia hay Ge, mà tên của bà có nghĩa là không có điều gì ngoài mặt đất vật chất, và luôn được những tác giả Hy Lạp từ thời cổ xưa nhất đến gần đây sử dụng ở nghĩa này.” [Frazer, Worship of Nature, vol. 1. p.318].

[15] Ở Nhật Bản, đất không được thần linh hóa, hoàn toàn khác với Pṛthivi-mata của Ấn Độ và Gaiga hay Demeter của Hy Lạp mà đó là sự thần linh hóa trái đất. Trái đất phần nào được xem như lối vào Hades [Yomi-no-kumi; tức là cõi tối tăm], một nơi đầy hiểm nạn. [Katō, Shinto, op. cit., p.43f].

[16] George Aaeron Barton, The Religions of the World, 3rd ed. Chicago, University of Chicago Press, 1929, p.247.

[17] Izanagi và Izanami ở trong thần thoại Nhật Bản có thể là những nhân vật được thần linh hóa từ trời và đất, nhưng ở đó vẫn không có bất kỳ đặc điểm gì để thừa nhận một cách chắc chắn một sự phỏng đoán như vậy.

[18] “Lửa là một ví dụ tuyệt vời về một hiện tượng được thờ phụng mà thực chất không hàm ý có một vị thần ở trong đó. Thậm chí những người Aryan văn minh trong Veda xem ngọn lửa bốc cháy là một sinh vật sống mà nó nuốt những đồ vật dâng cúng, trong khi nó cũng làm việc như sứ giả của các thiên thần. Họ không cầu nguyện một vị thần lửa mà lửa chính nó được tưởng tượng trong hình hài thấy tế nhưng vẫn thuộc thế giới hiện tượng, một sinh vật thiêng liêng có đầy sinh lực và sức mạnh.” [W. Hopkins, Origin and Revolution of Religion, New Haven, Yale University Press, 1923, p.50].

[19] Ho-musubi-no-kami thì giống như Kagutsuchi-no-kami trong Kojiki.

[20] Thờ lửa ở Nhật Bản được ghi nhận ở nơi Hi-shizume-no-matsuri-no-norito trong Engishiki, mà theo đó Ho-musubi-no-kami [Thần Lửa] điều khiển những thể thức lửa khác nhau [tham khảo Vedic Vaiśvānara Agni] không được phân biệt rõ với ngọn lửa vật lý có thể nhận biết bằng các giác quan [tham chiếu Vedic Agni]. [Katō, Shinto, p.24f]. [Engishiki, vol. 8, Kokushi Taikei, vol. 13. p.271]. Thờ lửa cũng tồn tại trong những người Ainu [Katō, op. cit., p.1002f.]

[21] Gần đây, có một thuyết mới cho rằng vṛtra có nghĩa là một cái đập nước, thần thoại trình bày sự thật lịch sử rằng những đập nước được xây dựng bởi dân chúng của nền văn minh Indus đã bị những người xâm lăng Aryan hủy hoại. [Damodar Dharmanand Kosambi, An Introduction to the Study of Indian History. Bombay, Popular Book Depot, 1956]. Nhưng để chứng minh thuyết này, từ vərəthra ở trong Avesta cũng phải được giải thích tương tự.

[22] “Zeuz, vị chúa tể hùng mạnh, nắm lấy dây cương của một cỗ xe ngựa có cánh, dẫn đường lên cõi trời, sai bảo tất cả và bảo vệ tất cả; và ở đó đội quân gồm các vị thần và á thần đã đi theo ngài, được sắp xếp thành 11 đội.” [Plato, Phaedrus, 246-247. Bản dịch Anh ngữ của Jowett, 3rd ed. Oxford University Press, Humphrey Milford, 1892, vol. 1, p.453]. Điều này tương tự như nhân vật Indra trong Ṛg-Veda.

[23] Trước đây, P. Deussen đã đưa ra giả thiết sau: Nói chúng, sự thay đổi vị trí của vị thần chính tương ứng với sự khác nhau của những thời kỳ văn hóa: Vào thời kỳ xâm lược, vị thần của cõi trời [Ouranos, Dyaus] là quan trọng nhất; vào thời kỳ thuộc địa, vị thần của mệnh lệnh [Varuṇa, Chronos] là quan trọng nhất; và vào thời kỳ cai trị của những anh hùng thì vị thần của sức mạnh [Indra, Zues] là quan trọng nhất. [Paul Deussen, Allgemeine Geschichte der Philosophie I, Vierte Auflage, Leizig, F. A. Brockhaus, 1920, S. 83]

[24] Macdonell, Comparative Religion, p.95.

[25] Susano-wo-no-mikoto là một sự thần linh hóa bão tố, giống như Pallas Athene Hy Lạp, Rimmon của Babylone, hay Indra của Veda. Trong các cổ thư Nhật Bản, thần mưa được gọi là Kura-okami, Taka-okami, hay Mizuha-no-me. Okami có nghĩa là “thần rắn” [Katō, Shinto, p.47f]. Thần sấm sét được tìm thấy ở nơi nhân vật Narukami [nghĩa đen là thần sấm sét]. [Mannyōshū, vol. 8; tham chiếu Katō, Shinto, p.30f]. Về sau thần sấm sét được gọi là Takatsu-kami hay Kandoki-no-kami [trong Engishiki, 8 và 3, Kokushi Taikei 13, pp.269; 134; 108]. Nơi một số miếu thờ Nhật Bản, thần sấm sét được thờ phụng nhằm cầu cho mùa màng bội thu giống như Thor của người Đức. [Katō, Shinto, p.47f]. Với việc du nhập Phật giáo, việc thờ Indra được giới thiệu vào trong Thần đạo tại Tenman. Trong những điện thờ Tenmangū [天満宮], Indra cũng được cầu khấn.

[26] Ṛg-Veda, III, 9, 9.

[27] Trong những ngôn ngữ khác, daeva, tivar, diewas, dia. [P. Deussen, Geschichte, op. cit., I, p.39.

[28] ERE, XV, p.468.

[29] Macdonell, Sanskrit Literature, pp.71-72. [30] Hermann Oldenberg, Ancient India: Its language and religions. Chicago, London, Open Court Publishing Company, 1896, p.1.

[31] Jane Ellen Harrison, Themis, A Study of the social orgins of Greek religion. Cleveland and New York, The Worlding Publishing Company. Meridian Books, 1962, p.134.

[32] Sophocles, Oedipus Coloneus, được đề cập trong S. Radhakrishnan, Eastern Religions and Western Thought [New York: Oxford Unviversity Press, 1959. A Galaxy Book], pp.4-5.

[33] Macdonell, Comparative Religion, p. 94.

[34] Śaṅkara ad Brahmasūtrabhāṣya I, 3, 28. [Ānadāśrama Sanskrit Series, No. 21. Poona, Anandasrama Press, 1900]. Tham chiếu Richard Garbe, The Philosophy of Ancient India, Chicago, The Open Court, 1897, p.36.

[35] Jinnō-shōtō-ki, vol. 1.

[36] Theo bản Anh ngữ của W.E.Aston, ERE, XI, p.463.

Quảng cáo
Quảng cáo
Quảng cáo

Mục lục

Từ nguyênSửa đổi

Kể từ thế kỉ 16 các nhà truyền giáo và du khách phương Tây thường nhắc đến tôn giáo và phong tục Ấn Độ và thường gọi những người bản xứ này là "ngoại đạo" [en. pagan, de. Heiden] nếu họ không tự nhận mình theo một trong các tôn giáo lớn [Ki-tô giáo, Do Thái giáo hoặc Hồi giáo]. Họ được gọi theo tiếng Latin là gentiles, tiếng Bồ Đào Nha là gentio và từ đó ra tiếng Anh là gentoo và tiếng Hà Lan/tiếng Đức là Heyden [Heiden]. Đến thế kỉ 18 thì từ "Hindoo" [tiếng Ba Tư Hindu] bắt đầu được dùng và cuối cùng, trong thế kỉ 19, danh từ "Hinduism" trở nên rất thông dụng. Như vậy thì từ "Hinduism" - được dịch là Ấn Độ giáo ở đây - không phải là một danh hiệu tự xưng của một tôn giáo Ấn Độ. Nhưng tên này lại ảnh hưởng đến quan điểm tự nhận của phong trào Tân Ấn Độ giáo [Neo-Hinduism] trong thế kỉ 19 và thế kỉ 20 vì nó gợi ý một sự thống nhất tôn giáo trong cuộc chiến giành độc lập Ấn Độ, và được dùng để phản ứng các khuynh hướng phân chia ngày nay.

Tuy vậy, từ Hinduism có thể gây hiểu lầm. Khi người ta bắt đầu dùng nó thì đã dựa trên hai điều kiện tiên quyết không đúng. Thứ nhất là người ta tin là từ phái sinh từ gốc Ba Tư Hindoo [Hindu] chỉ tín đồ của một tôn giáo nhất định. Thứ hai là người ta cho tất cả những người Ấn đều là tín đồ của tôn giáo này nếu họ không theo các tôn giáo lớn còn lại, ví như Hồi giáo, Công giáo, Do Thái giáo, Phật giáo, Kì-na giáo. Cả hai điều kiện tiên quyết bên trên đều bị nhìn nhận sai. Danh từ Ba Tư "Hindu" chỉ có nghĩa tương đương với từ có gốc Hy Lạp là "Indian", và cả hai đều có gốc từ tên con sông lớn Ấn Độ [tiếng Phạn: sindhu, tiếng Ba Tư: hindu, tiếng Hy Lạp: Indós], đã mang đến đất nước nó chảy qua tên này: Hindus là những người xuất xứ từ nước Ấn Độ [india]. Ngay khi người Hồi giáo nói tiếng Ba Tư đến xâm chiếm, phân biệt giữa tín đồ Hồi giáo và Hindus thì sự việc này cũng không có nghĩa là tất cả những người Hindu đều là tín đồ của một tôn giáo.

Ngày nay, người ta biết được hàng loạt tôn giáo của người Ấn Độ và các thông tin nghiên cứu ngày càng phong phú. Thế nên, từ "Hinduism", "Ấn Độ giáo", không thể mang nghĩa là một tôn giáo nhất định của người Ấn mà chỉ là cách gọi mang ý nghĩa bao quát, chỉ một nhóm tôn giáo có sự tương quan với nhau, nhưng khác biệt nhau, xuất phát từ Nam Á [Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh]. Các tôn giáo này dù có quan hệ với nhau nhưng cũng khác nhau như sự khác biệt giữa Do Thái, Phật, Thiên chúa và Hồi giáo. Chúng có những khái niệm thượng đế khác nhau, có những pho thánh điển khác nhau cũng như những phương pháp tu tập, hình thức thực hiện nghi lễ khác nhau. Chúng có những hệ thần học khác nhau, lập cơ sở trên những nhà thần học, những bậc đạo sư khác nhau, và tôn xưng các thần thể khác nhau như vị Thần tối cao.

Một cách gọi thường gặp nhưng không chính thức và cũng không chính xác của tín đồ Ấn giáo là Sanātana-dharma [सनातनधर्म], nghĩa là "Pháp trường tồn". Các tên khác như vaidikadharma [Ấn giáo Phệ-đà] hoặc brāhmaṇa, brāhmaṇya [Bà-la-môn giáo] chỉ nêu được những nhánh của Ấn Độ giáo mà thôi.

Thế giới thần linh trong thần thoại Ấn Độ - từ đa thần luận đến nhất thần luận

Tìm hiểu về Ấn Độ là một cách thức để biết thêm về cội nguồn văn hóa nhân loại, để thấy được sự ảnh hưởng của văn hóa duy linh đến đời sống con người từ quá khứ đến hiện tại. Đặc biệt trong đó, thần thoại Ấn Độ được biết đến như một kinh văn – văn bản văn học – văn bản triết học cổ xưa nhất của nhân loại. Việc tìm hiểu thần thoại Ấn là cơ hội để hiểu thêm về đời sống xã hội Ấn Độ cổ đại, thấy được giá trị và tầm ảnh hưởng của thần thoại Ấn đối với văn học Ấn Độ các giai đoạn về sau và nhiều ngành khoa học có liên quan như triết học, tôn giáo học, nhân học. | Thế giới thần linh trong thần thoại Ấn Độ - từ đa thần luận đến nhất thần luận Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH THẾ GIỚI THẦN LINH TRONG THẦN THOẠI ẤN ĐỘ - TỪ ĐA THẦN LUẬN ĐẾN NHẤT THẦN LUẬN Trần Khoa Nguyên Đỗ Đinh Linh Vũ Sinh viên năm 4 3 Khoa Ngữ văn GVHD TS Nguyễn Thị Bích Thúy 1. Đặt vấn đề Ấn Độ là một trong những nước có nền văn minh ra đời sớm nhất là một trong những cái nôi văn hóa của nhân loại. Vùng đất này còn được xem như là một biểu tượng của văn hóa duy linh phương Đông là nơi khởi nguồn của rất nhiều tôn giáo lớn trên thế giới. Tìm hiểu về Ấn Độ là một cách thức để biết thêm về cội nguồn văn hóa nhân loại để thấy được sự ảnh hưởng của văn hóa duy linh đến đời sống con người từ quá khứ đến hiện tại. Đặc biệt trong đó thần thoại Ấn Độ được biết đến như một kinh văn văn bản văn học văn bản triết học cổ xưa nhất của nhân loại. Việc tìm hiểu thần thoại Ấn là cơ hội để hiểu thêm về đời sống xã hội Ấn Độ cổ đại thấy được giá trị và tầm ảnh hưởng của thần thoại Ấn đối với văn học Ấn Độ các giai đoạn về sau và nhiều ngành khoa học có liên quan như triết học tôn giáo học nhân học. Về tình hình nghiên cứu của đề tài việc nghiên cứu về thế giới thần linh trong thần thoại Ấn Độ mặc dù được quan tâm nhiều nhưng chỉ tập trung mô tả hai giai đoạn đa thần và nhất thần để từ đó khẳng định quá trình vận động của thế giới thần linh trong thần thoại Ấn Độ là từ đa thần luận đến nhất thần luận. Chúng tôi nhận thấy hầu như chưa có một tài liệu nào nhìn nhận được tính quá trình liền mạch và tính hệ thống của sự vận động này hoặc nếu có như có đề cập thì cũng đưa ra giả thuyết mà chưa có cơ sở thực tiễn chứng minh cụ thể thuyết phục 1 . 2. Nội dung . Cơ sở lí luận Thuyết đa thần và thuyết nhất thần nhìn từ bình diện tôn giáo học là hai khái niệm công cụ được chúng tôi sử dụng để làm sáng tỏ cho đối tượng nghiên cứu. Trong đó thuyết đa thần là một lập thuyết được xây dựng dựa trên cơ sở niềm tin vững chắc vào việc tôn thờ cúng bái những thần linh xoay quanh các hình thức

Bảo An 436 10 pdf
Báo lỗi
  • Trùng lắp nội dung
  • Văn hóa đồi trụy
  • Phản động
  • Bản quyền
  • File lỗi
  • Khác
Upload Tải xuống
đang nạp các trang xem trước
Không thể tạo bản xem trước, hãy bấm tải xuống
Tải xuống
TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Ebook Kỹ năng nghiên cứu khoa học của sinh viên khoa học xã hội và nhân văn: Phần 2

101 177 8

Mục đích và lợi ích của sinh viên nghiên cứu khoa học

7 159 0

Thực trạng nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Đại học Hồng Đức và một số đề xuất góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học cho sinh viên trong nhà trường

10 535 23

Một số biện pháp nâng cao hứng thú nghiên cứu khoa học cho sinh viên sư phạm trường Đại học Vinh

5 269 16

Phong trào nghiên cứu khoa học của sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội

5 196 2

Vai trò của giảng viên trong việc nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của sinh viên khoa Ngoại ngữ, trường Đại học Hồng Đức

8 59 1

Bài thuyết trình: Những rủi ro trong nghiên cứu khoa học đối với giảng viên trẻ và sinh viên

15 618 22

Một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên Khoa Tài chính - Thương mại tại Trường Đại học Công nghệ TP.HCM [HUTECH]

4 73 1

Kết quả nghiên cứu thực trạng tính tích cực nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội

11 234 7

Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất

8 143 4
TÀI LIỆU XEM NHIỀU

Thiết kế kế hoạch bài học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực học sinh

13 28943 1360

Phân tích và làm rõ ý kiến sau: “Bài thơ Tự tình II vừa nói lên bi kịch duyên phận vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương”

3 18408 191

31 Câu hỏi ôn tập môn Chủ nghĩa xã hội khoa học

25 16722 3452

Tiểu luận Tình huống xử lý sai phạm trong thanh toán công tác phí lưu động

20 15124 1372

Tiểu luận: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

16 13139 2130

100 câu hỏi trắc nghiệm Triết học Mác-Lênin kèm đáp án

14 13132 2406

Ebook Ôn luyện tiếng Anh 9 có đáp án: Phần 2 - Mai Lan Hương, Hà Thanh Uyên

37 12149 2720

Đề thi và Đáp án môn Tiếng Việt thực hành - ĐH SPKT TP.HCM

3 9436 182

Mẫu đơn thông tin ứng viên ngân hàng VIB

8 9309 1716

Bảng biến đổi Laplace và biến đổi Z

1 9126 334
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
  • Lịch sử - Văn hoá
  • Nghiên cứu khoa học sinh viên
  • Thế giới thần linh
  • Thần thoại Ấn Độ
  • Đa thần luận
  • Nhất thần luận
  • Thế giới thần linh đa thần
  • Kỹ năng nghiên cứu khoa học của sinh viên
  • Sinh viên khoa học xã hội và nhân văn
  • Nhận thức của sinh viên về nghiên cứu khoa học
  • Quá trình nghiên cứu khoa học của sinh viên
  • Rèn luyện kỹ năng nghiên cứu cho sinh viên
  • Nghiên cứu khoa học
  • Sinh viên nghiên cứu khoa học
  • Lợi ích sinh viên nghiên cứu khoa học
  • Mục đích sinh viên nghiên cứu khoa học
  • Phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học
  • Khoa Thư viện Thông tin
  • Thực trạng nghiên cứu khoa học của sinh viên
  • Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học
  • Nghiên cứu khoa học của sinh viên
  • Kỹ năng nghiên cứu khoa học
  • Hứng thú nghiên cứu khoa học cho sinh viên
  • Năng lực tư duy độc lập của sinh viên
  • Nghiên cứu khoa học đối với sinh viên sư phạm
  • Năng lực tự học của sinh viên
  • Phong trào nghiên cứu khoa học của sinh viên
  • Vai trò của nghiên cứu khoa học
  • Kinh phí nghiên cứu khoa học
  • Vai trò của giảng viên
  • Sinh viên Khoa ngoại ngữ
  • Hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học
  • Rủi ro trong nghiên cứu khoa học
  • Bài thuyết trình nghiên cứu khoa học
  • Vai trò nghiên cứu khoa học
  • Kiểm soát rủi ro nghiên cứu khoa học
  • Sinh viên với nghiên cứu khoa học
  • Giảng viên với nghiên cứu khoa học
  • Khả năng tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên
  • Phương pháp nghiên cứu khoa học
  • Sinh viên HUTECH
  • Thực trạng tính tích cực nghiên cứu khoa học
  • Tính tích cực nghiên cứu khoa học của sinh viên
  • Biểu hiện tính tự giác trong nghiên cứu khoa học
  • Ý chí trong hoạt động nghiên cứu khoa học
  • Chất lượng nghiên cứu khoa học
  • Hoạt động khoa học công nghệ
  • Hoạt động nghiên cứu khoa học
  • Chất lượng nghiên cứu khoa học của sinh viên
  • Sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội
  • Mức độ nghiên cứu khoa học
  • Khả năng nghiên cứu khoa học
  • Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ
  • Nghiên cứu khoa học giáo dục
  • Sinh viên sư phạm
  • Thế giới quan của sinh viên
  • Thực trạng thế giới quan của sinh viên
  • Lệch lạc thế giới quan của sinh viên
  • Định hướng thế giới quan của sinh viên
  • Thế giới quan khoa học cho sinh viên
  • Tư tưởng của sinh viên
  • Nâng cao kỹ năng nghiên cứu khoa học
  • Kỹ năng nghiên cứu khoa học cho sinh viên
  • Sinh viên năm thứ 2 tại khoa Pháp
  • Hướng dẫn nghiên cứu khoa học
  • Đề cương nghiên cứu khoa học sinh viên
  • Học tiếng anh
  • Sinh viên đại học mở
  • Thời kì hội nhập quốc tế
  • Sinh viên khoa tiếng Pháp
  • Đại học sư phạm
  • Hứng thú của sinh viên
  • Động cơ của nghiên cứu
  • Nghiên cứu khoa học Giáo dục thể chất
  • Tố chất thể lực trong môn Cầu lông
  • Chuyên sâu cầu lông
  • Sinh viên khoa Giáo dục thể chất
  • Thực trạng nhận thức của sinh viên
  • Hình thức hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
  • Kích thích tư duy sáng tạo cho sinh viên
  • Nghiên cứu khoa học thể dục thể thao
  • Sinh viên ngành kinh tế
  • Sản phẩm nghiên cứu khoa học
  • Rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học
  • Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học
  • Nghiên cứu của sinh viên Sư phạm
  • Đề cương nghiên cứu khoa học
  • Đề tài nghiên cứu khoa học Giáo dục
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG

Phục hồi sức khỏe theo tự nhiên: Phần 2

47 21 1 03-02-2022

Distinct tumour antigen-specific T-cell immune response profiles at different hepatocellular carcinoma stages

11 27 1 03-02-2022

Effectiveness of one-on-one coaching in improving pressurized metered dose inhaler [pMDI] technique among COPD patients: A prospective clinical study

7 19 1 03-02-2022

Giáo án điện tử môn Tiếng Việt lớp 3 - Tuần 3: Chính tả Chị em

5 6 1 03-02-2022

Luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Việt Nam

271 9 1 03-02-2022

The efficacy of Antipyretic Analgesics administration intravenously for Preventing Rocuronium-Associated Pain/Withdrawal Response: A systematic review and metaanalysis

9 7 1 03-02-2022

The evaluation of maximum condyle-tragus distance can predict difficult airway management without exposing upper respiratory tract; A prospective observational study

9 14 1 03-02-2022

Quyền lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng theo mẫu có thỏa thuận trọng tài của người tiêu dùng theo án lệ số 42/2021/AL

8 18 1 03-02-2022

Liên quan giữa sóng tiền tâm thu thất trái với chức năng tâm trương thất trái trên siêu âm tim ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2

5 12 1 03-02-2022

Luận văn Thạc sĩ Khoa học môi trường: Nghiên cứu ảnh hưởng của thời tiết cực đoan đến tài nguyên thực vật rừng tại khu rừng đặc dụng Copia huyện Thuận Châu tỉnh Sơn La

94 42 1 03-02-2022

Risk scores for predicting dysphagia in critically ill patients after cardiac surgery

6 9 1 03-02-2022

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu sử dụng động vật không xương sống cỡ lớn đánh giá chất lượng môi trường nước ở một số khu vực thuộc vùng đệm của vườn quốc gia Hoàng Liên tỉnh Lào Cai

64 25 1 03-02-2022

Giáo trình Hàn hồ quang cơ bản [Nghề: Hàn - Cao đẳng] - Trường CĐ Nghề Kỹ thuật Công nghệ

138 15 2 03-02-2022

Đề thi học kì 2 môn Lý thuyết điều khiển tự động năm 2007-2008 - Trường Đại học Bách Khoa TP. HCM

2 17 1 03-02-2022

Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực ngành toán kinh tế và một vài hàm ý

10 43 1 03-02-2022

Bài giảng Monitoring CO2 cuối thì thở ra ET[CO2]: Áp dụng trong hồi sức hô hấp và tuần hoàn - GS.TS Nguyễn Quốc Kính

50 13 1 03-02-2022

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật lao động Việt Nam từ thực tiễn các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh

79 5 1 03-02-2022

Bài giảng Kỹ thuật điện: Chương 10 - Phạm Hùng Phi

14 8 1 03-02-2022

Giáo án điện tử môn Tiếng Việt lớp 3 - Tuần 4: Chính tả Người mẹ

6 7 1 03-02-2022

Bài giảng môn Tiếng Anh lớp 5 năm học 2021-2022 - Unit 1: Lesson 1 [Trường Tiểu học Thạch Bàn B]

26 8 1 03-02-2022
TÀI LIỆU HOT

Phân tích và làm rõ ý kiến sau: “Bài thơ Tự tình II vừa nói lên bi kịch duyên phận vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương”

3 18408 191

Thiết kế kế hoạch bài học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực học sinh

13 28943 1360

CẬP NHẬT KINH TẾ VĨ MÔ VIỆT NAM 6 tháng đầu năm 2020

3 1257 72

Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2020

580 3350 333

Việt Nam 2035 hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ

584 1721 66

BÀI GIẢNG DỰNG HÌNH SKETCHUP 2020 BIÊN SOẠN : GV.KTS PHAN THỨC

62 3974 1

GIÁO TRÌNH TIẾNG ANH ENG BREAKING

171 3570 592

Quản trị khủng hoảng trong quan hệ công chúng

2 1519 69

Báo cáo thực tập chuyên ngành: Nghiên cứu, thiết kế, mô phỏng robot công nghiệp

51 2051 129

Đề tài “ Cân đối ngân sách nhà nước- thực trạng và hướng hoàn thiện”

53 2933 161
TAILIEUXANH - MIỄN PHÍ HÀNG TRIỆU TÀI LIỆU
Địa chỉ : Số 38 Trần Thái Tông - Cầu Giấy - Hà nội - Việt Nam
Website : tailieuxanh.com
Email :
TailieuXANH.com là thư viện tài liệu trực tuyến, nơi chia sẽ trao đổi hàng triệu tài liệu như luận văn đồ án, sách, giáo trình, đề thi, truyện đọc.v.v.. Với kho tài liệu khủng lên đến hàng triệu tài liệu sẽ được miễn phí tới 99,99% cho các thành viên.
Chúng tôi không chịu trách nhiệm liên quan đến các vấn đề bản quyền nội dung tài liệu được thành viên tự nguyện đăng tải lên và các cộng tác viên gửi về.
Từ khóa tìm kiếm: THỊ TRƯỜNG NGÀNH HÀNG | Nông nghiệp, thực phẩm | Gạo | Rau hoa quả | Nông sản khác | Sữa và sản phẩm | Thịt và sản phẩm | Dầu thực vật | Thủy sản | Thức ăn chăn nuôi, vật tư nông nghiệp | CÔNG NGHIỆP | Dệt may | Dược phẩm, Thiết bị y tế | Máy móc, thiết bị, phụ tùng | Nhựa - Hóa chất | Phân bón | Sản phẩm gỗ, Hàng thủ công mỹ nghệ | Sắt, thép | Ô tô và linh kiện | Xăng dầu | DỊCH VỤ | Logistics | Tài chính-Ngân hàng | NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG | Hoa Kỳ | Nhật Bản | Trung Quốc | Hàn Quốc | Châu Âu | ASEAN | BẢN TIN | Bản tin Thị trường hàng ngày | Bản tin Thị trường và dự báo tháng | Bản tin Thị trường giá cả vật tư | luận văn | giáo trình | luận văn | tiến sĩ | Luận văn | thạc sĩ | kế toán | kiểm toán | quản trị kinh doanh | kinh tế tài chính | ngân hàng | ngân hàng luận văn | kế toán | luận văn kinh tế | công nghệ thông tin | lập trình | quản trị | mạng hệ điều hành | toán học | hóa học | vật lý | công nghệ | văn học | kỹ năng mềm | đề thi | ebook | ngoại ngữ | tiếng pháp | tiếng hàn | tiếng nhật | tiếng nga | tiếng anh | luận văn | ngân hàng | tiểu luận | tiểu thuyết | truyện đọc | ngôn tình | tài liệu | Văn mẫu |
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.
Bấm nút này sau khi tắt/tạm dừng AdBlock

Khái niệm gây ấn tượng của Ấn Độ về cái hư vô

Nguồn hình ảnh, Mariellen Ward

Chụp lại hình ảnh,

Ví dụ đầu tiên được biết về số 0 viết dưới dạng chữ số có thể được tìm thấy trong một ngôi đền bên trong pháo đài Gwalior ở Ấn Độ.

Việc sáng chế ra con số 0 là một sự phát triển toán học cực kỳ quan trọng, nó là cơ sở cho việc tính toán, làm cho vật lý, kỹ thuật và phần lớn công nghệ hiện đại trở thành khả dĩ.

Tại Gwalior, một thành phố đông đúc ở trung tâm Ấn Độ, một pháo đài thế kỷ 8 vươn lên với dáng vẻ thời trung cổ trên một cao nguyên ở chính giữa thị trấn. Pháo đài Gwalior là một trong những pháo đài lớn nhất của Ấn Độ; nhưng hãy nhìn các tòa tháp cao vút mái vòm, với những chạm khắc phức tạp và những bức bích họa đầy màu sắc và bạn sẽ thấy một ngôi đền nhỏ có từ thế kỷ 9 được đục vào vách đá.

Đền Chaturbhuj giống như nhiều ngôi đền cổ khác ở Ấn Độ- ngoại trừ việc đây chính là điểm xuất phát của con số 0. Nó nổi tiếng vì đây là ví dụ lâu đời nhất về con số 0 được viết thành một chữ số: được khắc vào tường đền thờ là một dòng chữ thế kỷ 9 có hiển thị rõ ràng con số '270'.

Việc sáng chế ra con số 0 là một sự phát triển toán học cực kỳ quan trọng, nó là cơ sở cho phép tính toán, làm cho vật lý, kỹ thuật và phần lớn công nghệ hiện đại trở thành khả dĩ. Nhưng điều gì của văn hóa Ấn Độ đã tạo ra sự sáng tạo rất quan trọng này đối với Ấn Độ hiện đại- và thế giới hiện đại?

Quảng cáo

Latvia: Quốc gia dành cho người hướng nội

Thế giới ngầm dưới lòng Budapest

Video liên quan

Chủ Đề