Việt bắc là khúc hùng ca vì sao

Giải chi tiết:

Yêu cầu chung: Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; thể hiện khả năng cảm thụ văn học tốt; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.

Yêu cầu cụ thể:

1/ Giới thiệu chung: 

-  Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng với phong cách trữ tình, chính trị.

- "Việt Bắc" là một thành công xuất sắc của ông. Bài thơ “Việt Bắc” là một thành công đặc biệt trong đời thơ Tố Hữu. Bài thơ viết về cuộc chia tay lớn - cuộc chia tay lịch sử giữa người về xuôi với Việt Bắc vào tháng 10 năm 1954, thể hiện một cách tinh tế tình cảm cách mạng giữa những người kháng chiến và người dân Việt Bắc.

- Nêu các ý kiến: Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu vừa là khúc tình ca ca ngợi nghĩa tình cách mạng sâu nặng, sắt son; vừa là bản hùng ca tráng lệ về một Việt Bắc anh hùng trong kháng chiến.

2/ Phân tích, chứng minh:

a/ “Việt Bắc” là khúc tình ca ca ngợi nghĩa tình cách mạng sâu nặng, sắt son:

- Bài thơ ra đời gắn với một sự kiện chính trị: Cơ quan TƯ của Đảng và chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội. Tố Hữu đã sáng tạo thành khúc hát giao duyên, câu chuyện tâm tình. Vì thế, bài thơ như một khúc tình ca, bao trùm là nỗi nhớ thiết tha.

- Việt Bắc được kết cấu theo lối đối đáp giao duyên của ca dao: Giữa hai   nhân vật “mình – ta” [lời đối đáp giữa người đi và kẻ ở]

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

→ Nhắc lại những kỉ niệm, hồi ức đẹp của những tháng ngày gian khổ  trong “mười lăm năm kháng chiến” gắn bó với vùng đất cách mạng.

- Khắc sâu trong nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng về xuôi là hình ảnh cảnh và người Việt Bắc:

+ Thiên nhiên Việt Bắc vừa thực, vừa thơ mộng: Có ánh trăng lên đầu núi, sương sớm, nắng chiều; Có núi, rừng, sông, suối,…với những cái tên quen thuộc; với cảnh đẹp bốn mùa: đông, xuân, hạ, thu.

+ Con người Việt Bắc: Bình dị, cần cù trong lao động; thủy chung, ân  nghĩa với cách mạng. Đó là sự đồng cam cộng khổ, cùng chung niềm vui và cùng gánh vác những nhiệm vụ nặng nề của cách mạng, của dân tộc.

- Âm điệu thơ lục bát nhẹ nhàng, ngân nga; ngôn ngữ giản dị mà giàu hình   ảnh; những biện pháp nghệ thuật quen thuộc trong thơ ca dân tộc [ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, liệt kê, lặp, đối…] đã làm sáng lên vẻ đẹp trong truyền thống đạo lí của dân tộc Việt Nam: Uống nước nhớ nguồn; đùm bọc, yêu thương; đoàn kết…

b/ “Việt Bắc” là bản hùng ca tráng lệ về một Việt Bắc anh hùng trong kháng chiến:

- Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện được tái hiện sinh động. Việt Bắc  hiện lên như một dũng sĩ hiên ngang; các ngả đường tiến quân “rầm rập” như gọng kìm xiết chặt quân thù.

- Bức tranh Việt Bắc ra quân giữa một không gian núi rừng rộng lớn: Những đoàn người tấp nập: Bộ đội, dân công, những đoàn xe… Tiến ra  trận có đủ mọi tầng lớp, là khối đoàn kết toàn dân tộc:

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.

→ Hình ảnh kì vĩ, âm thanh hào hùng, sôi nổi, khí thế náo nức, khẳng định  sức mạnh của một dân tộc.

- Những kì tích, những chiến công gắn với những địa danh, với tên đất, tên   núi: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao – Lạng, Điện Biên,…

 - Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, đầu não của  cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Bằng những biện pháp nhân hóa, cường điệu; bút pháp lãng mạn kết hợp  khuynh hướng sử thi… tạo nên những hình ảnh kì vĩ, bay bổng. Vẫn là thể thơ lục bát nhưng Tố Hữu lại biến hóa từ giọng điệu tha thiết, êm ái thành giọng điệu hào hùng, sảng khoái → sáng tạo hiếm có ở thể thơ này.

3/ Kết thúc vấn đề:

- Khẳng định tính đúng đắn của ý kiến trên và sáng tạo độc đáo của nhà thơ   Tố Hữu.

- Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích nói riêng, của thơ  Tố Hữu nói chung và sức sống của tác phẩm trong lòng độc giả.

Có thể nói, cả bài thơ “Việt Bắc” là sự hòa quyện giữa khúc tình ca và khúc hùng ca, giữa chất trữ tình và chất hiện thực, giữa tính sử thi và cảm hứng lãng mạn bay bổng. Chính sự hài hòa các yếu tố ấy đã tạo nên tuyệt tác của thi phẩm này.

Bạn đang xem: Việt bắc vừa là khúc hùng ca vừa là khúc tình ca

ctvusogorsk.com68 3 năm trước 70580 lượt xem | Ngữ Văn 12

Có thể nói, cả bài thơ “Việt Bắc” là sự hòa quyện giữa khúc tình ca và khúc hùng ca, giữa chất trữ tình và chất hiện thực, giữa tính sử thi và cảm hứng lãng mạn bay bổng. Chính sự hài hòa các yếu tố ấy đã tạo nên tuyệt tác của thi phẩm này.


Đề 1: “Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến”. Hãy bình luận ý kiến trên.

I. Nêu vấn đề:

Đề tài kháng chiến là một đề tài quen thuộc trong thơ ca cách mạng Việt Nam, trong đó bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu là một thi phẩm tiêu biểu. Bài thơ được sáng tác vào tháng 10 – 1954 sau thắng lợi chiến dich Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, kết thúc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Vì thế bài thơ vừa có ý nghĩa lịch sử lại vừa có ý nghĩa văn học sâu sắc. Có ý kiến cho rằng: “Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến”.

II. Giải quyết vấn đề:

1. Vài nét về tác giả, tác phẩm:

Nhà thơ Tố Hữu

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hòa bình được lặp lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hòa bình.

Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu luyến giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa.

2. Giải thích nhận định:

- Ý kiến nhận định về bài thơ hoàn toàn xác đáng, đã chạm đến thần thái của tư tưởng thơ Tố Hữu. Bài thơ là một “khúc tình ca” đã khắc họa hết thảy mọi cung bậc tình cảm của tác giả hay nói đúng hơn là giữa kẻ ở và người đi, giữa nhân dân đồng bào Việt Bắc với cán bộ cách mạng qua bức tranh thiên nhiên và cuộc sống gắn bó, mặn nồng nơi quê hương kháng chiến. Đồng thời, bài thơ cũng là “khúc hùng ca”, là ca khúc hải hoàn về cuộc kháng chiến, chiến thắng vĩ đại của quân và dân ta trong những ngày đêm ra trận tuy vất cả mà cũng rất đỗi hào hùng.

- Có thể nói, cả bài thơ “Việt Bắc” là sự hòa quyện giữa khúc tình ca và khúc hùng ca, giữa chất trữ tình và chất hiện thực, giữa tính sử thi và cảm hứng lãng mạn bay bổng. Chính sự hài hòa các yếu tố ấy đã tạo nên tuyệt tác của thi phẩm này.

3. Chứng minh nhận định:

a. Trước hết, “Việt Bắc” là khúc tình ca, ca ngợi cuộc kháng chiến vĩ đại và con người kháng chiến.

Điều này được nhà thơ diễn tả bằng việc khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc và con người kháng chiến đậm đà tình quân dân “cá – nước”.

Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc đã gợi tứ cho cảm hứng thơ Tố Hữu bay xa, dội lại trong mảng ký ức tươi đẹp hiện về trong nỗi hoài niệm, ưu tư về một khung cản đẹp đến toàn diện toàn mĩ trong đêm trăng thanh.

+ Đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, là hình ảnh của ánh sương ban mai vào buổi sáng sớm mờ ảo quấn quýt bao phủ khắp bản làng. Để rồi mỗi sự vật địa danh được nhắc đến như một nét thân thương dội lại của thiên nhiên núi rừng miền Tây thơ mộng, trữ tình:

“Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”.

Đắc biệt hơn, chất trữ tình lãng mạn cũng là khúc tình ca được viết lên trong một bản đàn thi ca mà mỗi nốt nhạc của mỗi mùa đông – xuân – hạ – thu ở bức tranh tứ bình đều như đang vang lên bài ca đất nước:

“Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Mùa xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Bộ bức tranh tứ bình như được chạm trỗ, được khắc bằng bút pháp nghệ thuật chấm phá tả ít gợi nhiều. Hòa quyện trong bức tranh tứ bình ấy là sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người đang giao hòa với nhau, tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh. Vì thế có thể nói, mỗi mùa đều là một bức tranh riêng độc đáo tạo nên cái đặc trưng riêng của núi rừng Việt Bắc. Ta như chiêm nghiệm thấy một cái tôi Tố Hữu ngả nghiêng, đang ngất ngây thả hồn đắm chìm trong nỗi nhớ hoài niệm của một bức tranh Việt Bắc. Chính vì thế mà sự xáo trộn không tuân theo quy luật khách quan của vũ trụ [xuân - hạ - thu - đông] đã phải những chỗ cho tâm trạng cảm xúc của thi nhân đang rung lên đồng điệu với bức trang thiên nhiên tươi đẹp.

 Bên cạnh đó, hình dáng của con người trong bài thơ cũng được Tố Hữu khắc họa hiện lên thật duyên dáng, yêu thương.

Tố Hữu không đi vào khắc họa vóc dáng bên ngoài của con người, của đồng bào nhân dân Việt Bắc mà ông chỉ chú trọng vào diễn tả tâm tư tình cảm mà đồng bào nhân dân Việt Bắc dành cho cách mạng, dành cho những người cán bộ, chiến sĩ kháng chiến. Đó là hình ảnh của sự đùm bọc yêu thương tuy thiếu thốn vật chất “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” mà cũng đậm chất lãng mạn, cũng thật cảm động chan chứa niềm yêu thương:

“Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”.

Trong cuộc kháng chiến ấy, tuy vất vả, trên chiến trường người chiến sĩ mạnh mẽ hiên ngang, cầm chắc tay súng tiêu diệt kẻ thù nhưng khi trở về, họ lại được chăm sóc, chia ngọt sẻ bùi với nhân dân địa phương. Và trong hoàn cảnh ấy, Tố Hữu cũng không quên nhắc đến bóng dáng của những tình yêu lứa đôi, tình yêu giữa những cô gái bản làng với anh vệ trọc, với chiến sĩ cụ Hồ:

“Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”

Hai chữ “người thương” gói ghém biết bao tình yêu thương đong đầy, tình yêu ấy vừa là tình quân dân, vừa là tình yêu đôi lứa.

Chất trữ tình, khúc tình ca còn được thể hiện trong một bức tranh sinh hoạt đậm đà nơi kháng chiến gắn với những con người sẵn sàng cùng kề vai sát cánh với chiến sĩ bộ đội trong cuộc kháng chiến một mất một còn với quân giặc:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Điệu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa …”

Đó là những hình ảnh của bà mẹ vất vả, vừa lo toan cho gia đình, vừa tăng gia sản xuất phục vụ cách mạng, đó là những âm thanh “i tờ” võ nòng ngượng ngịu, đó là những tiếng chày nện cối giã gạo nuôi cách mạng và đó cũng là tiếng hát réo rắc “ca vang núi đèo” “đều đều suối xa” ngân vang cả một khoảng trời cao rộng. Tất cả như hiện lên vừa hiện thực lại vừa lãng mạn, đan xem góp phần diễn tả cuộc sống nơi chiến đấu trong những năm tháng kháng chiến nơi Việt Bắc tuy gian nan thử thách nhưng rất tự hào và đầy ắp nghĩa tình.

Hình ảnh mẹ điệu con thân thương

Như vậy, nhờ yếu tố lãng mạn bay bổng, Tố Hữu đã tạo nên một bài thơ độc đáo mà mỗi sự vật thiên nhiên và con người được nhắc đến giống như một nốt nhạc trong khúc tình ca kháng chiến. Tất cả như tạo ra chất men say trong tâm hồn thơ Tố Hữu.

b. Việt Bắc là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến:

Bên cạnh yếu tố trữ tình lãng mạn, bài thơ Việt Bắc còn quyện hòa trong chất sử thi hùng tráng.

+ Đó là khúc hùng ca kháng chiến mạnh mẽ tạo nên những trang thơ đậm đà tính dân tộc. Phản ánh hết thảy khí thế anh hùng của quân và dân ta trong những ngày cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Pháp. Mỗi câu thơ vang lên như biểu tượng cho tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” được tạo nên bởi những người anh dùng dũng cảm.

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”

Ấy là khí thế của những con đường ra trận, những ngả đường kháng chiến đã được Tố Hữu nhưu trạm, như khắc hiện hình nổi sắc trước mắt người đọc. Dưới ánh trăng đêm, hình ảnh đoàn quân ra trận thật hào hùng, thật mạnh mẽ trải dài ra vô tận “điệp điệp trùng trùng” với một khí thế mang biểu tượng của tinh thần tự do, cho khát vọng độc lập. Vì thế mà hình ảnh “bước chân nát đá” như tự nó đã mang sức nặng của tinh thần yêu nước. Như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tinh thần yêu nước sẽ nhấn chìm cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Không có một thế lực nào có thể ngăn cản được bước đi của quân dân ta. Để khắc họa được cái khí thế ấy, Tố Hữu đã dùng hàng loạt các động từ, từ láy giàu sức tạo hình và biểu cảm “rầm rập”, “nát đá”, “điệp điệp trùng trùng” khiến cho hình ảnh ra trận hiện lên không hề bi thương mà ngược lại rất đỗi hào hùng và mạnh mẽ. Dưới mỗi bước chân quân ta đi đều mang trong mình lý tưởng của Đảng, của Bác Hồ soi sáng, vì thế mới có hình ảnh “ánh sao đầu súng” như là biểu tượng cho cuộc đấu tranh chính nghĩa, cho lẽ phải của công lý trước vó ngựa xâm lăng của kẻ thù.

Những đoàn quân ra trận

Để phản ánh được cuộc chiến đấu mang biểu tượng của tinh thần tự do và khát vọng độc lập ấy, Tố Hữu còn khắc họa như diễn tả những chiến lược, chiến thuật mà quân dân ta đã từng sử dụng.

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng”

Khí thế hào hùng được nhà thơ diễn tả bằng nhịp điệu thơ dồn dập, nhanh, gọn, lẹ. Bộ đội ta biết dựa vào những địa hình tự nhiên “núi đá” để cùng nhau đánh Tây, biến địa hình trận đồ giống như một mê cung, một bức tường thành vững chắc “thành lũy sắt dày” mà bủa vây quân thù. Để làm được điều ấy, quân dân ta đã đồng lòng, đoàn kết một lòng hướng về non sông đất nước, cùng chung lý tưởng chiến đấu vì nước quên thân. Cả đất nước như đang đứng lên mà đẹp tan mọi âm mưu xâm lược. Hình ảnh đất nước ấy đã được Nguyễn Đình Thi diễn tả qua thơ:

“Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Để cuối cùng niềm vui chiến thắng đã đến, lan tỏa khắp nẻo đường đất Việt từ địa cầu cách mạng đến cuối dải đất hình chữ S rồi lại trở về Việt Bắc:

“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng”

Có thể nói đây là một “bản đồ vui” khi mà mỗi câu thơ đều xuất hiện từ “vui” liên tiếp. Mỗi câu thơ hiện lên như một nốt nhạc ngân vang réo rắc trong một khúc hùng ca cách mạng. Niềm vui ấy gắn liền với địa danh: Hòa Bình, Tây Bắc đến Đồng Tháp, An Khê rồi lại quay về Việt Bắc, đèo De, núi Hồng, … Đoạn thơ mang đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn.

Kết thúc bài thơ là cái nhìn của Tố Hữu về hình ảnh đất nước ngày mai tươi sáng. Khẳng định niềm tin vững chắc của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ và đồng thời nó giống như một lời thề nguyền thiêng liêng hướng tới đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.

“Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng lên Cộng hòa

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”

Niềm vui chiến thắng cả nước

III. Kết thúc vấn đề:

Bài thơ “Việt Bắc” là một tuyệt tác viết về tình yêu đất nước, sự thể hiện độc đáo trong nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát dân tộc, kết cấu đối đáp trong ca dao giao duyên cùng cách sử dụng ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian … Tất cả đã góp phần đắc lực trong việc diễn tả tư tưởng, tình cảm sâu đậm giữa kẻ ở, người đi, giữa cán bộ cách mạng về xuôi và đồng bào nhân dân Việt Bắc, giữa núi rừng cội nguồn cách mạng với những người chiến sĩ cộng sản. Việt Bắc chính vì thế là khúc hùng ca có ý nghĩa biểu tượng ca ngợi tinh thần yêu nước quân dân đoàn kết một lòng, lại vừa là khúc ca trữ tình về cách mạng, về con người kháng chiến trong sự yêu thương gắn bó chia sẻ ngọt bùi bên nhau. Tác phẩm xứng đáng trở thành bài ca bất hủ trong văn học dân tộc viết về đất nước.

Đề 2: Cùng tác hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện riêng.

Trong bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng viết:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

[“Tây Tiến” – Quang Dũng]

Trong thi phẩm “Việt Bắc”, Tố Hữu viết:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”

[“Việt Bắc” – Tố Hữu]

Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên?

I. Nêu vấn đề:

Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu của nên thơ ca kháng chiến chống Pháp, với hồn thơ hào hoa, lãng mạn, thấm đượm tình đồng bào đồng chí. “Tây Tiến” là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được tác giả viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.

Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, thơ của ông song hành cùng những chặng đường của cách mạng Viêt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” là một thành công đặc biệt trong đời thơ Tố Hữu. Tác phẩm vừa là bản tình ca về tình cảm cách mạng, giữa đoàn cán bộ miền xuôi với nhân dân Việt Bắc, vừa là bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ mà vẻ vang của dân tộc.

Hai đoạn trích được trích từ hai bài thơ đều tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận, song mỗi nhà thơ lại có những cách khám phá, cách thể hiện riêng.

II. Giải quyết vấn đề:

1. Đoạn thơ trong bài thơ “Tây Tiến”:

- Vẻ đẹp bi tráng của đoàn quân Tây Tiến trên đường hành quân:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung”

Cái bi trước hết được gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da xanh như màu lá. Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính hoành hành. Hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà nét vẽ này xuất phát từ một hiện thực trong cuộc sống của người lính Tây Tiến. Họ phải cạo đầu để giảm bớt những bất tiện trong sinh hoạt ở rừng và để tạo thuận lợi trong đánh trận, có khi những cái đầu không mọc tóc kia là hậu quả của những trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc. Và dù hiểu theo cách nào thì đó cũng là hình ảnh gợi lên sự gian khổ thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến tranh. Tuy nhiên với cách diễn tả độc đáo của Quang Dũng, người lính Tấy Tiến hiện lên không hề tiều tụy, nhếch nhác mà kiêu dũng, ngang tàn. Nói về họ, Quang Dũng vẫn dùng từ “đoàn binh”, gợi cảm giác về một đội ngũ đông đảo, hừng hực khí thế.

Hình ảnh “quân xanh màu lá” ở đây có thể hiểu là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cho cả đoàn quân có màu xanh như vậy. Theo mạch thơ cũng có thể hiểu đây là câu thơ miêu tả gương mặt xanh xao, gầy yếu vì sốt rét rừng, vì cuộc sống kham khổ. Nhưng cách diễn đạt của Quang Dũng khá tinh tế khi miêu tả đoàn quân “xanh màu lá” chứ không nhằm làm nổi bật nét xanh xao. Hình ảnh người lính do đó mà như hài hòa cùng thiên nhiên, ốm mà không yếu, ốm mà vẫn trẻ trung, vẫn tràn đầy sức sống.

Đặc biệt, kết hợp từ “dữ oai hùm” gợi cho người đọc thấy trên gương mặt xanh xao, gầy ốm của người lính vẫn toát lên vẻ dữ dội, kiêu hùng của những con hổ nơi rừng thiêng. Dường như, ở miền đất hoang sơ, bí ẩn có bóng hổ rình rập, đe dọa với “cọp trêu người” thì người lính cũng có “oai hùm” dữ dội, uy nghi để chế ngự và chiến thắng.

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

[“Đồng chí” – Chính Hữu]

“Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế”

[“Cá nước” – Tố Hữu]

Sau này một nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ cũng viết về căn bệnh sốt rét rừng của những người lính bằng những vần thơ tê tái:

“Nơi thuốc súng trộn vào áo trận

Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”

Cái hào hùng:

Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm nên khí chất mạnh mẽ của người lính. “Không mọc tóc” là cách nói ngang tàn rất lính, hóm hỉnh đùa vui với khó khăn gian khổ của mình.

Thể hiện qua cách dùng từ Hán Việt “đoàn binh”. Chữ “đoàn binh” chứ không phải đoàn quân, đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng. Ba từ “dữ oai hùm” gới lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt của chúa sơn lâm. Qua đó ta thấy người lính Tây Tiến mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. “mắt trừng” là đôi mắt dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu quyết đoán làm kẻ thù hoảng sợ.

Họ còn là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới chính là đôi mắt thao thức về quê hương Hà Nội, về một dáng kiều thơm trong mộng. Mộng và mơ gửi về hai phía của chân trời, biên giới và Hà Nội.

Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn, trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội, đó có thể là phố cũ, trường xưa, … hay chính xác hơn là nhớ về bóng dáng của những người bạn gái Hà Nội yêu kiều, diễm lệ. Đó chính là động lực tiếp thêm sức mạnh để họ vững vàng tay súng, sẵn sàng cống hiến, hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc vì mục tiêu lí tưởng cao đẹp “quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”.

2. Đoạn thơ trong bài thơ “Việt Bắc”:

- Vẻ đẹp hào hùng của đoàn quân:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng”

Đại từ sở hữu “của ta” vang lên một cách dõng dạc thể hiện niềm tự hào của những con người được làm chủ đất nước, đồng thời khẳng định Việt Bắc là chiến khu tự do. Không khí sôi nổi của những ngày chiến dịch được tác giả tái hiện sinh động qua những từ ngữ, hình ảnh: rầm rập, đất rung, những từ láy “điệp điệp trùng trùng”. Hai chữ “rầm rập” vừa gợi âm thanh vừa gợi hình ảnh. Biện pháp nghệ thuật so sánh, tượng trưng được tác giả sử dụng triệt để giúp ta cảm nhận hình ảnh những đoàn quân đang ngày đêm tiến về mặt trận. Mỗi bước đi của đoàn quân ấy mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù.

- Vẻ đẹp lãng mạn:

“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

Đây có thể là hình ảnh sao trời treo trên đầu súng của những người lính trong mỗi đêm hành quân, cũng có thể là ánh sáng ngôi sao gắn lên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho những người lính bước đi. Họ là những con người có lí tưởng cao cả, đẹp đẽ, sẵn sàng cống hiến vì sự nghiệp chung. Ý thơ khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu.

3. So sánh hai đoạn thơ:

- Giống nhau: đều khắc họa người lính với vẻ đẹp vừa hào hùng, vừa lãng mạn, bay bổng.

- Khác nhau:

+ Trong đoạn thơ “Tây Tiến”, vẻ đẹp hào hùng của người lính phảng phất sự bi thương, mang bóng dáng của những tráng sĩ ngày xưa

“Chỉ làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”

[“Chinh phụ ngâm”]

Thể thơ thất ngôn mang âm hưởng trầm hùng, dùng nhiều từ Hán Việt, cảm hứng lãng mạn phù hợp với vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến.

+ Trong đoạn thơ thuộc “Việt Bắc”, vẻ đẹp lãng mạn của người lính còn được Tố Hữu gắn liền với hiện thực. Thể thơ lục bát, sử dụng nhiều từ láy và biện pháp nghệ thuật quen thuộc tạo nhịp thơ mạnh, âm hưởng hào hùng tái hiện khí thế ngất trời của những đoàn quân ra trận.

4. Lí giải sự khác nhau:

+ Hoàn cảnh ra đời

+ Phong cách của hai tác giả để lại dấu ấn riêng.

III.

Xem thêm: Quy Định Về Tác Phong, Lề Lối Làm Việc Là Gì, Về Tác Phong Lề Lối Làm Việc Của Đảng Viên

Kết thúc vấn đề:

“Việt Bắc” và “Tây Tiến” với những đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong lòng bạn đọc.

Video liên quan

Chủ Đề