Vì sao nói nghệ thuật là ánh trăng lừa dối

Trang chủ » Những bài văn hay lớp 11 » "Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than". Hãy giải thích và bình luận ý kiến trên.

Bài làm

Nam Cao được biết đến không chỉ là một nhà văn hiện thực kiệt xuất mà còn là một nhà văn thường hay băn khoăn trăn trở về quan điểm sáng tác văn học. Trải qua biết bao thăng trầm, sự thể nghiệm và suy ngẫm của bản thân về văn chương và hiện thực cuộc đời, Nam Cao đã mượn lời nhân vật Điền trong “Trăng sáng’ như để phát biểu: “Nghệ thuật không cần phải là ảnh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thế chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than…". Ý kiến này rất xứng đáng là một tuyên ngôn nghệ thuật của trường phái hiện thực, trương phái dứt khoát từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn thoát li để trở về với chủ nghĩa hiện thực chân chính.

Trước hết, đầu tiên khi nói về Nam Cao về tuyên ngôn nghệ thuật này. Nhà văn như muốn khẳng định nghệ thuật chân chính phải bát rễ trong đời sống hiện thực, khòng được thoát li đời sống để trớ thành lừa dối.

Khi đi sâu tìm hiểu cuộc đời nhà vãn, chúng ta thấy từ khi còn là một cậu học sinh, Nam Cao đâ từng mơ ước sáng tác. Có thể nói trong thời kì này, ông đà có nhiều thơ, truyện đăng báo với các bút danh Thuý Rư, Xuân Du, Nhiêu Khê, Nguyệt.. Cũng như biết bao học sinh tiểu tư sản đương thời, Nam Cao đã phải chịu ảnh hướng nặng của vãn thơ lãng mạn thoát li. Nhưng vì đã được tiếp xúc với cuộc sống cùng khổ của nhân dân, lại là nhà văn có lương tri, giàu tình yêu thương quần chúng, nhà văn Nam Cao dường như đã sớm nhận ra tính chất giả dối phù phiếm của thứ văn chương “thơm tho’’ đó, nó rất lạc lõng, xa lạ đối với cuộc sống của hàng triệu quần chúng lầm than và bản thân tác giả hồi bấy giờ. Điền được xây dựng lên là nhân vật chính trong tác phẩm Trăng sáng chính là hình bóng cuộc đời cúa tác giả. Cuộc đời Điền là cuộc đời của một ông giáo khố trường tư với đồng lương chết đói không nuôi nổi bản thân, còn nói gì đến chuyện nuôi gia đình. Con Điền, đứa thì phải đi chăn trâu, đứa thì phải chạy chợ kiếm ngày mấy xu rau; vợ Điền thì cuộc sống lầm than, cái nghèo đói đã làm cho tâm hồn thị trở nên nhỏ nhen, ích kỉ, cằn cỗi, tàn nhẫn.

Có lẽ chính vì cái sự thật nghiệt ngã ấy đã giết chết bao nhiêu ước mơ lãng mạn của Điền. Nhiều khi Điền phải quên cái mộng văn chương để kiếm tiền; cơm áo đã ghì Điền sát đất. Khi Điền nhìn thấy cảnh vợ vì cùng quần, túng thiếu mà “đánh con lớn, chửi con nhỏ, quăng cái chổi, đá cái thúng, vừa dẫm chân bành bạch, vừa kêu trời”, Điền như đã cảm thấy mình gần như tủi cực. Với tâm trạng hỗn độn ấy, nhìn lên trời “Trăng nhởn nhơ như một cô gái non vừa có nhân tình. Gió nhẹ nhàng đặt lên lá những bước chân vũ nữ. Trăng tỏa mộng xuống trần gian… cho những tâm hồn khát khao ngụp lặn..”, Điền mới nhận ra rằng “nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối”. “Ánh trăng lừa dối” ở đây là hình ảnh tiêu biểu cho văn chương lãng mạn thoát li, lấy “mây gió trăng hoa” làm nguồn thi hứng chủ yếu. Ánh trăng lừa dối gợi nhớ đến mặt trời chân thực. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, khi mà đất nước đang đau dưới gót giày giặc ngoại xâm, nhân dân đang chịu cảnh lầm than đau khổ, thì thứ văn học chỉ đi tìm cái thi vị, tìm cái đẹp trong thiên nhiên thuần túy, trong ảo ảnh của ánh sáng vay mượn, chỉ là thứ văn chương thoát li, hưởng lạc, thi vị hóa cuộc sống.

Thứ nghệ thuật đó giống như ánh trăng kia, nó thơ mộng lắm, huyền ảo lắm “nó làm đẹp ra những cái thực ra chỉ là tầm thường xấu xí. Và trong những căn lều dột nát sơ sài đó mà ánh trăng làm cho cái bề ngoài trông cũng đẹp, biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiêp mình”. Trong tình hình ấy, thứ văn chương nghệ thuật như ánh trăng huyền ảo kia chỉ là thứ “nghệ thuật vị nghệ thuật”, quay ỉưng lại với đời sống nhân dân. Nó chỉ có ý nghĩa là “món giải trí của những người đàn bà nhàn nhã đặt mình trên những chiếc ghế xích đu nhún nhảy…, chỉ biết ăn ngon mặc đẹp chăm sửa thịt da và chẳng làm gì cả” [Trăng sáng]. Còn đối với hàng triệu quần chúng lầm than đói khổ lúc bây giờ, thứ văn chương ấy chỉ là “những ánh trăng lừa dối”, chẳng có ích gì, lạc lõng, phù phiếm.

Chính vì thế mà qua câu nói “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối”. Nam Cao kịch liệt phê phán tính chất thoát li, phi hiện thực của các xu hướng lãng mạn tiêu cực đương thời. Đó cũng là sự cự tuyệt của ông đối với khuynh hướng văn học thoát li khỏi đời sống.

Nếu như bạn đọc đọc các tác phẩm của Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… chúng ta được chứng kiến những khung cảnh hiện thực của nông thôn náo động tiếng thúc thuế dồn sưu, những tiếng kêu than ai oán vì phải bán vợ đợ con, cùng những kiếp sống “Tắt đèn”, “Bước đường cùn’g của người nông dân, thì sau những trang sách văn học lãng mạn, ta lại thường bắt gặp khung cảnh đồng quê yên ả dìu dịu, cùng những cặp vợ chồng địa chủ như Hạc – Bảo suốt ngày chỉ ra sức làm giàu để cải thiện sinh hoạt cho nông dân nghèo và sông hòa thuận với họ. Những bức tranh và cảnh đời bất hạnh ấy chỉ là sản phẩm tưởng tượng chủ quan, xa lạ với hiện thực cuộc sống và đúng là “ánh trăng lừa dối” đối với biết bao người nông dân đang “dưới đồng khô, buồn lo méo mặt nặng ách trâu cày”.

Xem thêm:  Soạn Bài Hiền Tài Là Nguyên Khí Của Quốc Gia Lớp 10

Trở lại với ý kiến của Nam Cao, ta thấy một mặt, nhà văn phê phán tính chất thoát li, lừa dối của văn học lãng mạn; mặt khác, ông đòi văn học phải bắt rễ từ hiện thực, nghĩa là trở về với cuộc sống của hàng vạn, hàng triệu con người đau khổ: “Nghệ thuật chỉ có thế là những tiếng lòng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”. Nghệ thuật phải “vị nhân sinh”, phải là “Vù khí phấn đấu cho tình thương, lòng bác ái và sự công bằng” [Đời thừa]. Người cầm bút có trách nhiệm, có lương tri phải “đứng trong lao khổ mà mở hồn ra đón lấy tất cả những vang vọng của cuộc đời” [Trăng sáng] Nói cách khác, nghệ thuật phải có tính nhân dân, phải miêu tả được những vấn đề có ý nghĩa đối với cuộc sống của nhân dân, phải thể hiện được tám tư nguyện vọng của nhân dân. Nghệ thuật phải có tính chất nhân đạo và hiện thực. Mà hiện thực to lớn nhất khi đó là tình trạng thông khổ của hàng triệu người lao động lầm than. Nghệ thuật chân chính phải nhìn thẳng vào sự thực đó, nói lên nỗi khốn khổ của nhân dân và vì nhân dân mà lên tiếng.

Nam Cao là một nhà vãn hiện thực lớn, gốc nhân đạo rất sâu. Trăng sáng được coi là một tuyên ngôn nghệ thuật sâu sắc và rất tiến bộ của ông. Không lí lẽ, Nam Cao đã nói lên thật tâm huyết quan điểm nghệ thuật nhân đạo của mình. Trăng sắng giống như lời tâm niệm chân thành của nhà vãn tiểu tư sản nguyện từ bỏ con đường nghệ thuật thoát li, hưởng lạc, trở về chung thuỷ với quần chúng nghèo khổ, vì họ mà sáng tác.

Từ những ý nghĩ thiết tha ấy, Nam Cao đã đi đến hành động thực tế bằng những tác phẩm đầy sức thuyết phục của mình. Trong khi các nhà văn lãng mạn, hoặc là thi vị hóa cuộc sống hoặc là thoát li hiện thực để tâm hồn “ru với gió, mơ theo trăng…” thì Nam Cao đã cùng với các nhà văn hiện thực khác giương cao lá cờ hiện thực và nhân đạo, dùng ngòi bút phanh phui thực trạng xã hội đương thời. Các tác phẩm của họ không chỉ là những bản cáo trạng đanh thép lên án chế độ thực dân phong kiến tàn bạo thối nát, mà còn là những tiếng kêu thương tha thiết và cảm động về số phận khể đau tăm tối của những người dân nghèo thôn quê và thành thị. Đó là cuộc đời của những Lão Hạc, Lang Rận… cùng khổ đói rách, của những Chí Phèo bị xã hội giày xéo, lãng nhục, cướp hết nhân tinh lẫn nhân hình. Đó là những Hộ, những Thứ, San phải sống một cuộc sống “mù xám, cứ mốc lên, rỉ đi, mòn ra, mục ra” không lối thoát.

Xem thêm:  Soạn văn Bài 32: Bài ca phong cảnh Hương Sơn

Tóm lại câu nói của Nam Cao thật hàm súc, đã nói lên đươc môt cách thật thấm thìa và sâu sắc quan điểm nghệ thuật của xu hướng văn học hiện thực “vị nhân sinh” tiến bộ đương thời. Tuy chưa phải là quan điểm tiên tiến nhất lúc bấy giờ, nhưng chính kiến của một nhà văn tiểu tư sản mà dám đấu tranh chống lại mọi thứ nghệ thuật phản hiện thực, xa rời cuộc sống nhân dân của văn chương lăng mạn tiêu cực, đòi nghệ thuật phải trở về với chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo, thì phải nói đó là một quan điểm rất tiến bộ, một đóng góp to lớn của Nam Cao trong trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945.

Đặt trong hoàn cảnh xã hội đầy bất công và cảnh văn học rất phức tạp, các khuynh hướng tiêu cực đang phát triển tràn lan gây tác hại không nhỏ lúc bấy giờ, ý kiến của Nam Cao chẳng những rất tiến bộ mà còn mang ý nghĩa chiến đấu tích cực. Nó vừa có tác dụng cảnh tỉnh dòng văn học lãng mạn thoát li lầm đường, vừa khích lệ động viên các nhà văn hiện thực hãy dũng cảm nhìn thẳng vào thực trạng xã hội, dùng ngòi bút của mình khám phá sâu hơn những cái hiện thực bần cùng và khổ đau của hàng triệu quần chúng dưới ách phong kiến thực dân.

Cho đến ngày nay, ý kiến của Nam Cao vẫn có giá trị góp phần nhắc nhở các nhà văn quan tâm hơn, gắn bó hơn với cuộc sống hiện thực đế phản ảnh được những vấn đề quan trọng và cấp bách của xã hội.

Nam Cao cho rằng nghệ thuật “không cần” và “không nên là ánh trăng lừa dối”. Nghệ thuật có thể chỉ  tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than. Ánh trăng cao xa, huyền ảo và thơ mộng thật nhưng làm sao nó có thể lại là sự phản quang của cuộc đời chủ yếu là đói, rét, bệnh tật và bất công? Có người cho rằng cái đẹp là những gì ở bên trên cuộc sống và tác phẩm nghệ thuật chỉ là vẻ đẹp kì diệu của thế giới siêu thoát, thanh cao, là mở đầu và tận cùng của tất cả.

Bạn đang xem: Nghệ thuật là ánh trăng lừa dối là câu nói của ai

Bạn đang xem: Nghệ thuật là ánh trăng lừa dối là câu nói của ai

Bạn đang xem: Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối



Trong truyện ngắn Trăng sáng, Nam Cao viết: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”và ở truyện ngắn Đời thừa ông cho rằng một tác phẩm có giá trị phải “chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn”.

Còn Vũ Trọng Phụng, khi đáp lời báo Ngày nay của Tự Lực văn đoàn, đã nói: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”.

Anh, chị hãy bình luận những ý kiến nêu trên.​

Dưới đây Phê Bình Văn Học xin giới thiệu bài văn của bạn Phạm Bích Thuỷ Trường THPT Lê Quý Đôn-TP. Hồ Chí Minh với đề bài trên –Bài văn đạt giải nhì quốc gia bảng A năm 1988

“Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than

Cuộc sống xung quanh ta không bao giờ phẳng lặng mà luôn sôi động. Cũng như mặt biển nhiều lúc êm ả và thanh thản nhưng trong lòng nó luôn có những đợt sóng ngầm. Là một hình thái ý thức xã hội, văn học nghệ thuật bám chặt lấy sự sống để lớn lên và với tư cách là đứa con tinh thần, nó lại trở về noi sinh ra nó để góp phần khám phá, hiểu biết và sáng tạo đời sống. Nghĩ về văn học và hiện thực đời sống, trong truyện ngắn Trăng sáng, Nam Cao viết: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”Khi đáp lời báo Ngày naycủa Tự lực văn đoàn, Vũ Trọng Phụng đã nói: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. tôi và các nhà văn cùng chí hướng nhưng tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”. Và ở tác phẩm Đời thừa, Nam Cao cho rằng: Một tác phẩm có giá trị khi tác phẩm ấy “chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn”.

Cuộc sống là một vườn hoa đầy màu sắc. Như những con ong cần mẫn đi tìm mật cho đời, nhà văn không chỉ đem đến cho người đọc một nội dung có tính thông điệp mà còn mong muốn tác phẩm của mình có sức mạnh làm rung động hàng triệu tâm hồn. Muốn thế phải làm cho người ta tin, mà chỉ tin được nhờ ở sự chân thực. Đó là lí do đơn giản để Nam Cao cho rằng nghệ thuật “không cần” và “không nên là ánh trăng lừa dối”. Ánh trăng cao xa, huyền ảo và thơ mộng thật nhưng làm sao nó có thể lại là sự phản quang của cuộc đời chủ yếu là đói, rét, bệnh tật và bất công? Có người cho rằng cái đẹp là những gì ở bên trên cuộc sống và tác phẩm nghệ thuật chỉ là vẻ đẹp kì diệu của thế giới siêu thoát, thanh cao, là mở đầu và tận cùng của tất cả. Tác phẩm như vậy làm sao có thể rung động được tâm hồn người đọc; bởi lẽ cuộc sống siêu thoát ấy đau có phải là cuộc sống của họ. Là một nhà văn hiện thực phê phán sống gần tầng lớp cùng đinh, Nam Cao hiểu sâu sắc thế nào là hiện thực đời sống, hiện thực của những ngày thuế thúc, trống dồn, những kiếp người méo mó, tội nghiệp, những cuộc sống mốc, mòn, mục, gỉ ra. Dù anh viết về ai, viết về cái gì thì cũng không nên, không thể quay lưng lại, lẩn tránh cái thực tế đau khổ và lầm than.

Có bắt rễ vào hiện thực đời sống mà phải là sống thật, văn học mới bền vững và tồn tại được. M.Gorki cho rằng: “Người tạo nên tác phẩm là tác giả nhưng người quyết định số phận của tác phẩm lại là độc giả”. Người đọc chỉ ủng hộ và tạo nên số phận tốt đẹp cho những tác phẩm chân chính một khi những tác phẩm ấy đề cập đến hiện thực đời sống đích thực là của họ. Bởi thế Vũ Trọng Phụng mới cho rằng tiểu thuyết là “sự thực ở đời” đến một tác phẩm có sức mạnh còn tuỳ thuộc vào một điều kiện hết sức quan trọng nữa, ấy là khả năng chiếm lĩnh cuộc sống một cách sâu xa của nhà văn. Chỉ có thể tạo nên giá trị của tác phẩm, một khi nghệ sĩ phải sống hết mình, biết nghĩ suy và trăn trở với những nỗi đau của thân phận con người, biết khơi lên từ cuộc sống những vấn đề mà nhiều người không nhìn thấy, biết góp phần kiến giải những hiện tượng xã hội,…bằng toàn bộ vốn liếng tri thức, tình cảm, niềm tin và dũng khí của mình, như A. Muytxê nói: Hãy đập vào tim anh, thiên tài là ở đó. Lênin nói, đại ý: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn-đó là con đường biện chứng của sự nhận thức hiện thực.

Văn học góp bàn tay nhân ái của mình để góp phần cải tạo con người, cải tạo xã hội, một khi nó chứa đựng cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi.

Ánh trăng cao xa, huyền ảo và thơ mộng thật nhưng làm sao nó có thể lại là sự phản quang của cuộc đời chủ yếu là đói, rét, bệnh tật và bất công? Có người cho rằng cái đẹp là những gì ở bên trên cuộc sống và tác phẩm nghệ thuật chỉ là vẻ đẹp kì diệu của thế giới siêu thoát, thanh cao, là mở đầu và tận cùng của tất cả.

Bằng nghệ thuật của mình, văn học lắng đọng đến tận nơi sâu kín, tiềm ẩn trong con người. Những giọt nước mắt khóc thương cho cuộc đời đau khổ, cho mỗi số phận bị biến dạng,…sẽ làm cho tâm hồn người dân trong sạch hơn lên, tư tưởng và tâm hồn được nâng cao lên về chất, để có thể vượt qua những nhỏ nhặt, tầm thường của cái vị kỉ, để hoà nhập được với cuộc sống tâm hồn của đồn loại, đồng cảm với họ, cùng chiến đấu cho sự hoàn thiện của con người, làm cho người gần người hơn. Đó chính là chức năng nhân đạo hoá con người của tác phẩm nghệ thuật.

Đương nhiên văn học không chỉ nói đến những cái gì mạnh mẽ, lớn lao; không chỉ nói đến lạc quan, chiến thắng. Nó không né tránh việc biểu hiện những mất mát, hi sinh, những bi kịch của đời sống, sự đê tiện, ngu dốt và phản bội của con người trên tư cách công dân cũng như trong cuộc sống riêng tư: trong lao động và đấu tranh, trong quan hệ bạn bè, vợ chồng, trong tình yêu,…Trong quá trình biểu hiện như thế, nhà văn thông qua tác phẩm của mình, đấu tranh cho sự công bình, kêu gọi tình thương và lòng bác ái,…Chính những điều đó tạo nên giá trị của tác phẩm.

Thực tế sáng tác của Nam Cao chứng tỏ khả năng lĩnh hội cuộc sống của nhà văn. Ông không chỉ thấy cuộc sống đương thời là đói rét, là bệnh tật, mà còn thấy được thảm trạng sự tha hoá của con người, những cuộc đời bị méo mó, xiêu vẹo, biến dạng và cả những cuộc sống “sống mòn” hay chết mòn thì cũng chẳng khác gì nhau cả. từ cuộc đời của một Chí Phèo, một Thị Nở khái quát lên thành cả một “hiện tượng Chí Phèo”, Nam Cao không chỉ nói lên nỗi đau đớn về thể xác của người nông dân, mà từ đây khơi lên lòng căm phẫn đối với những bất công và những thế lực gây tội ác, kêu gọi mọi người hãy đấu tranh để góp phần giữ lấy những tia sáng lương tri còn le lói, còn chưa tắt hẳn trong cuốc sống tinh thần của kiếp người bị tha hoá, để giữ cho con người không bị biến thành thú vật, để con người đúng là Người với ý nghĩa cao đẹp của nó.

Tôi có đọc được ở một tác phẩm lí luận kinh điển đại ý như thế này: Vũ khí phê phán dĩ nhiên không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí; chỉ có lực lượng vật chất mới đánh đỗ được lực lượng vật chất; nhưng lí luận cũng có thể trở thành lực lượng vật chất khi nó đã thâm nhập vào quần chúng. Văn học với sức mạnh lớn lao của nó trong việc khám phá, nhận thức và sáng tạo thực tại, luôn được xem là một vũ khí đấu tranh giai cấp. Các lực lượng tiến bộ và phản tiến bộ đều sử dụng văn học làm công cụ để tuyên truyền tập hợp quần chúng. Các nhà văn, nhà thơ của chúng ta cần nâng cao trình độ tư tưởng và năng lực biểu hiện cũng như thái độ trung thực và dũng cảm trong việc phản ánh hiện thực để nâng cao hơn nữa giá trị của tác phẩm. Văn học phải cố gắng phản ánh những “sự thực ở đời” với tất cả sự đa dạng và phức tạp của nó, có cả nỗi đau và niềm vui, có cả cái thấp hèn và cao thượng, chứ không phải là những tác phẩm tụng ca xuôi chiều, tô hồng hiện thực mà lảng tránh những nỗi đớn đau của đồng bào, đồng chí. Tác phẩm văn học cùng cần góp phần kiến giải những vấn đề của hiện thực đời sống, đồng thời là tiếng nói dự báo cho những vấn đề của hiện thực xã hội rộng lớn trong tương lai. Như vậy văn học mới làm được chức năng giáo dục con người bằng con đường tình cảm, mới góp phần làm cho con người với đúng nghĩa của nó: không là thánh cũng không trở thành thú. Những tác phẩm văn học bắt nguồn từ những ánh trăng mờ ảo, thơ mộng và dối lừa, những tiểu thuyết chỉ là tiểu thuyết, quay lưng hay bàng quan trước sự thực cuộc đời thì những tác phẩm ấy hoàn toàn không có ích cho đời sống, con người.

Đương nhiên văn học có tính độc lập tương đối của nó. Hiện thực trong văn học và hiện thực ngoài cuộc đời không phải là hai bàn tay úp kít vào nhau mà đan cài vào nhau. Ở đây mọi sự đơn giản hoá và mô hình hoá, mọi sự áp đặt, mệnh lệnh, khiên cưỡng “đeo chân cho vừa giày” đều là những điểm nên tránh. Chúng ta phản bác những lập luận và sáng tác của những trường phái siêu thực, hiện sinh, cũng đồng thời phê phán cách biểu hiện của những tác phẩm cứ tưởng như được viết bằng phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa nhưng thực chất không biểu hiện được cuộc sống, chỉ biết ca tụng một chiều, giấu giếm nỗi đau; những tác phẩm đã không nói được thực trạng của hiện thực đương thời, càng không thể có chức năng dự báo.

Xem thêm: Các Hệ Điều Hành Thông Dụng Hiện Nay Thường Được Lưu Trữ Trên Đâu?

Nhiệm vụ của văn học, của những người sáng tạo ra tác phẩm thật nặng nề. Cuộc sống đang ngổn ngang, bề bộn và có nhiều điều khiển ta nhức nhối, trăn trở. Bởi vậy, chúng ta cần biết bao những tác phẩm văn học đích thực, những chính phẩm, góp tiếng nói cải tạo cuộc sống.

Chuyên mục: Văn Học

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh nofxfans.comEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Video liên quan

Chủ Đề