Tại sao giá vàng tăng thì giá usd giảm

[PLO]- Vàng đang bị bán tháo khi lợi suất trái phiếu và đồng USD tăng giá trị.

Phiên giao dịch hôm nay [23-4], giá vàng thế giới rớt xuống 1.928 USD/ounce, tương đương 54 triệu đồng/lượng.

Theo các chuyên gia, vàng đang chịu nhiều áp lực sau khi ông Jerome Powell, Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ [FED] tuyên bố tăng lãi suất mạnh vào tháng 5 tới.

Ông Everett Millman, chuyên gia vàng Gainesville Coins cho biết, giá vàng đã tăng dài trong thời gian qua nhưng khi lãi suất có dấu hiệu tăng thì vàng kém hấp dẫn. Giá trị đồng USD và lợi suất trái phiếu tăng khiến nhà đầu tư bán tháo vàng vì nắm giữ vàng lúc này không có lợi.

Giá vàng còn bị giảm do hai thị trường tiêu thụ vàng hàng đầu trên thế giới là Ấn Độ và Trung Quốc giảm nhu cầu, trong đó mạnh nhất là Trung Quốc do dịch bệnh.

Sáng nay, giá vàng trong nước là 70,5 triệu đồng/lượng ở chiều bán ra. Mức chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới là 16,5 triệu đồng/lượng.

PHƯƠNG MINH

Theo CNBC, Kitco

Tiếp nối chuỗi lình xình và sự phản ứng tiêu cực của việc căng thẳng thương mại giữa Mỹ và các nước, giá vàng thế giới ngày 27/6 tiếp tục lao dốc xuống thêm 1% do đồng USD hồi phục trở lại, tạo thêm một đáy mới thấp nhất trong hơn 6 tháng qua.

Tính đầu giờ sáng ngày 27/6 [giờ Việt Nam], giá vàng thế giới giao ngay đứng ở mức 1.256 USD/ounce. Giá vàng giao tháng 8 trên sàn Comex New York đứng ở mức 1.258 USD/ounce.

Như vậy, so với cuối năm 2017, giá vàng hiện thấp hơn 3,6% [46,5 USD/ounce]. Nếu quy đổi vàng thế giới theo giá USD ngân hàng thì giá vàng có giá 34,8 triệu đồng/lượng.

Ảnh
USD tăng mạnh khiến nhiều người lo ngại sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá USD/VND cũng như tình hình nhập khẩu hàng hóa tại Việt Nam

Tuy nhiên, giá vàng trong nước vẫn giảm chậm hơn so với giá vàng thế giới. Cụ thể, giá vàng SJC sáng ngày 27/6 được niêm yết tại TP Hồ Chí Minh ở mức 36,7 triệu đồng/lượng - 36,85 triệu đồng/lượng [mua vào - bán ra]. Tại Hà Nội, mức giá bán ra cao hơn ở 36,87 triệu đồng/lượng.

Như vậy, chưa tính thuế và phí thì giá vàng thế giới vẫn thấp hơn giá vàng trong nước khoảng 2 triệu đồng/lượng. Trong khi đó, giá USD ở các ngân hàng trong nước đã lên sát ngưỡng 23.000 đồng/USD. Cụ thể sáng ngày 27/6, tỷ giá trung tâm của VND với USD được Ngân hàng nhà nước [NHNN] công bố ở mức 22.640 đồng [tăng 15 đồng]. Tỷ giá tham khảo tại Sở giao dịch NHNN hiện mua vào ở mức 22.700 đồng [không đổi] và bán ra ở mức 23.284 đồng [không đổi].

Theo các chuyên gia tài chính, thông thường khi thương mại thế giới căng thẳng, vàng thường được xem là nơi trú ẩn an toàn. Thế nhưng, ngược với quy luật này, nhà đầu tư không tìm nhiều đến vàng mà tìm đến đồng bạc xanh. Và đương nhiên, vàng giảm thì USD tăng. Điều này càng gây sức ép lên giá của kim loại quý.

Trước diễn biến tăng khá mạnh của đồng USD, nhiều người lo ngại có thể ảnh hưởng đến thị trường trong nước. Cụ thể, USD tăng mạnh sẽ gây áp lực cho VND, như vậy tỷ giá USD/VND sẽ có sự chênh lệch giá lớn, gây ảnh hưởng đến các doanh nghiệp nhập khẩu. Theo đó, giá hàng hóa trong nước sẽ bị tác động mạnh, có thể tăng giá bất thường.

Tuy nhiên, lãnh đạo một số ngân hàng thương mại cho rằng sự biến động của giá USD chưa đáng lo. Bởi giá USD tự do tăng do yếu tố tâm lý khi Mỹ nâng lãi suất cơ bản vừa qua [14/6], cộng thêm thông tin về căng thẳng thương mại giữa Mỹ - Trung Quốc gần đây. Tuy nhiên, việc điều chỉnh lãi suất của Mỹ đã được thị trường dự báo từ trước nên không phải là yếu tố bất ngờ.

Chuyên gia thị trường - tài chính Phan Dũng Khánh, Giám đốc Tư vấn Đầu tư CTCK Maybank - Kim Eng [MBKE], vẫn lo ngại bởi xu hướng USD trên thị trường tài chính quốc tế vẫn đang tăng rất mạnh. Hiện FED và các ngân hàng trung ương khác trên thế giới đang đua nhau tăng lãi suất, như vậy tỷ giá USD/VND có thể sẽ bị ảnh hưởng, cụ thể là tỷ giá VND sẽ bị mất giá nhanh cùng với lạm phát thì nhiều khả năng chính sách tiền tệ của Việt Nam sẽ thắt chặt hơn. Theo đó, các doanh nghiệp dù có xuất khẩu hay không đều bị ảnh hưởng tiêu cực nhất định.

Ngoài ra, nếu tỷ giá tăng mạnh hơn mức kiểm soát sẽ ảnh hưởng nhiều tới dòng vốn, đặt biệt là vốn ngoại vào nền kinh tế và thị trường tài chính. Đơn giản vì khi quy đổi sang VND, các nhà đầu tư có khả năng bị lỗ tỷ giá trước khi kịp đầu tư hay kinh doanh gì đó.

“Theo đó, các doanh nghiệp nào chuẩn bị tốt cho xu hướng tỷ giá, như cân đối với việc xuất khẩu và nhập khẩu, kinh doanh ở thị trường sử dụng USD và thị trường sử dụng các đồng tiền khác sẽ làm lợi cho chính mình. Ví dụ như xuất khẩu qua những nước sử dụng USD nhưng nhập khẩu từ những quốc gia còn lại”, chuyên gia Khánh nhấn mạnh.

Còn chuyên gia kinh tế TS.LS Bùi Quang Tín, CEO Trường Doanh nhân BizLight, cho rằng việc tăng giá USD sẽ không tác động mạnh đến các doanh nghiệp trong nước bởi thanh khoản USD trong nước đang dồi dào, dự trữ ngoại hối đã lên tới hơn 63 tỷ USD.

Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam cũng còn nhiều chính sách hỗ trợ để VND chỉ mất từ 1,5%-2% trong năm nay, giúp ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định lãi suất, lạm phát đạt được mục tiêu đề ra là 4%. Nói chung, NHNN có đủ lực để điều hành tỷ giá giảm trong mức dự kiến.

Ông Nguyễn Hoàng Minh, Phó Giám đốc NHNN Chi nhánh TP Hồ Chí Minh, cũng đồng tình cho hay, diễn biến giá USD tăng trên thị trường tự do và NH thương mại mấy ngày qua là chưa đáng lo. Cầu ngoại tệ không đột biến và mọi nhu cầu về ngoại tệ hợp pháp của người dân, doanh nghiệp đều được đáp ứng. Hiện nay, tỷ giá tăng có lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu, còn với doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa, cần lưu ý để cân nhắc, chủ động nguồn ngoại tệ.

"Nhu cầu giữ USD của người dân đã giảm nhiều và doanh nghiệp cũng chuyển dần từ quan hệ vay mượn sang mua bán ngoại tệ, giúp giảm sức ép lên tỷ giá. Mặt khác, ngân hàng thương mại vẫn mua được ngoại tệ từ doanh nghiệp. Tuy nhiên, để tránh những biến động bất thường, NHNN hiện vẫn đang theo dõi sát diễn biến tỷ giá để có điều hành kịp thời", ông Minh thông tin thêm.

Mối tương quan giữa Đô la – Vàng – Hàng hóa – Chứng khoán – Trái phiếu – QE

Mối quan hệ nghịch đảo giữa vàng và đôla

Một trong những mối quan hệ được biết đến rộng rãi nhất trên thị trường tiền tệ có lẽ là mối tương quan tỷ lệ nghịch giữa vàng và đôla Mỹ [USD].

Mối quan hệ này bắt nguồn từ thực tế rằng vàng được coi là công cụ hữu hiệu để phòng ngừa lạm phát nhờ vào giá trị ổn định, trong khi đó, đôla Mỹ thể hiện vị thế của mình thông qua mức lãi suất được neo theo tỷ giá đôla. Khi giá trị trao đổi của đôla Mỹ giảm đi, phải mất nhiều đôla hơn để mua được vàng, nên giá trị của vàng được nâng lên. Ngược lại, khi giá trị trao đổi của đôla Mỹ tăng lên, cần ít đôla hơn để mua được vàng, dẫn đến việc giá trị vàng tính bằng đôla giảm xuống.

Khác với tiền tệ, trái phiếu chính phủ, và cổ phiếu doanh nghiệp – đều được quyết định bởi cung cầu cũng như khả năng phát hành của chính phủ hay các doanh nghiệp – vàng gần như độc lập với cung và cầu, cũng không hề liên quan đến việc thay đổi các chính sách tiền tệ hay chính sách công ty, cũng như sự xuất hiện của các nguồn vốn, khoản nợ hay đồng tiền mới.

Mặc dù vàng vẫn duy trì mối quan hệ nghịch đảo với các đồng tiền khác chứ không riêng gì đồng đôla, nhưng về cơ bản, mối tương quan tỷ lệ nghịch giữa vàng và đôla là rõ nét nhất bởi USD chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dự trữ ngoại hối của các NHTW.

Mối liên hệ giữa vàng và thị trường tiền tệ

Khi cầu USD tăng cao thì có tác động đến giá vàng hay không và tác động của nó đến vàng như thế nào?

Giá vàng hiện chủ yếu được yết bằng USD, do vậy biến động của chỉ số USD có ảnh hưởng trực tiếp đến giá vàng. Ngoài ảnh hưởng bởi tỷ giá quy đổi giữa vàng và USD thì ngay trong bản thân các yếu tố tác động đến sự tăng – giảm của chỉ số USD cũng ảnh hưởng trực tiếp đến giá vàng theo từng thời điểm nhất định.

Khi nhu cầu USD tăng, USD sẽ được định giá cao hơn bởi nhiều yếu tố kinh tế tác động, trong đó có một số yếu tố ảnh hưởng trực tiếp như: tăng lãi suất, các chỉ số sức mạnh của nền kinh tế Mỹ tăng bền vững và chính trị bình ổn, khi đó giá vàng sẽ được điều chỉnh lại thông qua quy đổi. Về mặt quy đổi trong mối tương quan của các cặp tiền tệ, chúng ta nhận thấy, khi USD tăng thì giá vàng được định giá bằng đồng USD sẽ trở nên đắt hơn so với các loại tiền tệ khác, ngay lập tức giá vàng sẽ được điều chỉnh giảm.

Để đồng USD trở nên mạnh hơn nhờ sự hỗ trợ bởi nhiều yếu tố, trong đó tình hình tăng trưởng ổn định của nền kinh tế Mỹ là quan trọng nhất. Khi nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng ổn định thì vàng sẽ không có nhiều sự hỗ trợ cho việc tăng giá. Một khi chỉ số USD được củng cố bởi các yếu tố, dẫn đầu là chính sách lãi suất, kinh tế tăng trưởng đều, chỉ số thu nhập và niềm tin tiêu dùng được củng cố thì các nhà đầu cơ, nhà đầu tư sẽ tăng cường giữ USD theo thời điểm hoặc dài hạn để kiếm lợi nhuận và là phương tiện thanh toán, chính điều này cũng là yếu tố không hỗ trợ cho giá vàng.

Các đồng tiền mạnh trong rổ tiền tệ khi tăng hoặc giảm thì có ảnh hưởng ít nhiều đến đến chỉ số USD, vì chỉ số USD được thiết lập bởi các đồng tiền EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF. Khi có sự thay đổi giá trị của các đơn vị tiền tệ này thì chỉ số USD sẽ bị ảnh hưởng. Do đó, chúng ta có thể hình dung rằng, giá trị thời điểm của các đơn vị tiền tệ này ảnh hưởng gián tiếp đến giá vàng. Và khi một đơn vị tiền tệ mạnh ngoài USD, như EUR, JPY hay GBP tăng hoặc giảm mạnh do yếu tố kinh tế, chính trị, thì dòng chảy đầu tư hoặc đầu cơ mua hoặc bán vào đồng tiền này tăng mạnh. Một số chỉ số cơ bản mà nhà đầu tư có thể theo dõi khi phân tích giá vàng: USD Index, EUR/USD, giá dầu thô, giá bạc và sự tăng giảm của chỉ số chứng khoán trên các TTCK lớn.

Mối quan hệ giữa thị trường hàng hóa và thị trường ngoại hối

Việc nhu cầu hàng hóa toàn cầu gia tăng đã kéo thị trường hàng hóa và thị trường ngoại hối gần nhau hơn. Mọi nền kinh tế trên thế giới đều phải nhập khẩu một số hàng hóa để tiêu dùng. Để mua những hàng hóa này, những nhà nhập khẩu phải đổi đồng tiền của họ ra đồng tiền của nước mà họ muốn nhập khẩu hàng hóa. Giao dịch này sẽ khiến nhu cầu về đồng tiền của nước xuất khẩu cao hơn và tăng giá trị cho đồng tiền đó. Giao dịch này cũng sẽ khiến cung tiền của nước nhập khẩu cao hơn và làm giảm giá trị của dồng tiền đó.

Ba đồng tiền lớn là đô Úc, đô Canada và đô New Zealand có mối quan hệ mật thiết với giá trị của hàng hóa bởi ba nước này là những nước xuất khẩu hàng hóa lớn. Khi giá của hàng hóa tăng, giá trị của những đồng tiền này cũng gia tăng và ngược lại.

Mỗi đồng tiền trong nhóm trên bị tác động bởi rất nhiều loại hàng hóa khác nhau. Ví dụ, đồng đôla Úc có mối liên hệ chặt chẽ với giá vàng, nếu giá vàng tăng thì giá trị của đồng đôla Úc cũng tăng theo và ngược lại.

Việc để ý tới những gì sẽ diễn ra trong thị trường hàng hóa trong những năm tiếp theo sẽ giúp bạn có được lợi nhuận lớn trong thị trường ngoại hối. Nhu cầu từ toàn cầu gia tăng sẽ đẩy giá hàng hóa lên cao hơn trong những năm tiếp theo. Vì thế hãy chuẩn bị để kiếm lợi nhuận không chỉ từ những đồng tiền sẽ tăng giá khi giá hàng hóa tăng mà cả những đồng tiền sẽ yếu đi.

Mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối

Các nhà đầu tư cá nhân trên thế giới thường theo dõi thị trường chứng khoán sát sao hơn các thị trường khác. Chứng khoán vốn hấp dẫn bởi chúng tồn tại đã lâu và các nhà đầu tư cá nhân có thể liên hệ tới các công ty mà họ mua chứng khoán. Khi thị trường chứng khoán hoạt động tốt, các nhà đầu tư sẽ đổ tiền vào thị trường chứng khoán. Khi thị trường chứng khoán hoạt động khó khăn, các nhà đầu tư sẽ rút tiền ra khỏi thị trường.

Toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nhà đầu tư từ các quốc gia đầu tư dễ dàng hơn vào thị trường chứng khoán của các quốc gia khác. Nếu các nhà đầu tư nhận thấy thị trường chứng khoán Mỹ đang hoạt động hiệu quả thì họ sẽ nhanh chóng chuyển qua mua chứng khoán Mỹ. Nếu họ thấy chứng khoán ở Nhật Bản đang hoạt động tốt hơn ở Châu Âu, các nhà đầu tư sẽ rút tiền của họ ra khỏi thị trường Châu Âu để đầu tư vào thị trường Nhật Bản.

Chứng khoán của mỗi quốc gia được giao dịch bằng đồng tiền của quốc gia đó. Để đầu tư vào chứng khoán Mỹ, các nhà đầu tư phải đổi tiền của họ ra đồng đôla Mỹ, do đó làm gia tăng nhu cầu của đồng đôla Mỹ và đẩy giá trị của đồng đôla Mỹ tăng. Cùng thời điểm đó, nguồn cung của các đồng tiền khác sẽ tăng và làm giảm giá tri của các đồng tiền này.

Các nhà kinh doanh ngoại hối thường quan sát thị trường chứng khoán của các quốc gia lớn. Nếu chứng khoán của một quốc gia hoạt động tốt hơn một quốc gia khác, các nhà kinh doanh ngoại hối biết rằng các nhà đầu tư khác sẽ chuyển tiền của họ từ quốc gia có thị trường chứng khoán yếu hơn sang quốc gia có thị trường chứng khoán mạnh hơn. Điều này sẽ khiến giá trị đồng tiền của quốc gia có thị trường chứng khoán mạnh hơn tăng lên so với đồng tiền của quốc gia có thị trường chứng khoán yếu hơn. Bằng cách nắm bắt cơ hội đó, bạn có thể kiếm được lợi nhuận ngon lành.

Mối quan hệ giữa thị trường trái phiếu và thị trường ngoại hối

Sau thị trường ngoại hối, thị trường trái phiếu là thị trường tài chính lớn thứ hai trên thế giới. Các chính phủ, các tổ chức và các nhà đầu tư cá nhân đều tham gia hoạt động trên thị trường trái phiếu. Mỗi thành phần này đều có chung một mục đích đó là tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt động đầu tư của họ.

Trái phiếu chính phủ chiếm tỷ lệ lớn nhất trong thị trường trái phiếu. Các trái phiếu này là những tài khoản đầu tư có độ rủi ro gần như bằng không bởi chúng được đảm bảo bởi niềm tin của chính phủ các quốc gia. Một số chính phủ trả lãi suất trên trái phiếu của họ cao hơn các chính phủ khác. Các nhà đầu tư quốc tế thu được lợi nhuận khi họ quyết định trái phiếu của chính phủ nào họ sẽ đầu tư. Các trái phiếu với lãi suất cao hơn sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư hơn khi nền kinh tế của các trái phiếu đó phát triển ổn định.

Những nhà đầu tư mong muốn mua trái phiếu chính phủ sẽ phải dùng tiền của chính phủ đó để mua. Nếu các nhà đầu tư muốn mua trái phiếu của chính phủ Mỹ, họ phải chuyển đối sang đồng tiền của chính phủ Mỹ [ đồng USD]. Điều này sẽ làm tăng nhu cầu của đồng đôla Mỹ và làm tăng giá trị của đồng đôla Mỹ. Cùng thời điểm đó, nguồn cung của các đồng tiền khác sẽ tăng và làm giảm giá trị của các đồng tiền đó.

Hiểu biết chính phủ nào đưa lãi suất của trái phiếu cao hơn và trái phiếu nào đang tăng phổ biến sẽ giúp bạn biết được cặp đồng tiền nào nên mua và cặp nào nên bán. Một điều may mắn rằng thị trường trái phiếu hiếm khi tự thay đổi chiều hướng, nó hoạt đông theo chu kỳ trong dài hạn và bạn có thể dự đoán được một số xu hướng của nó.

Nới lỏng định lượng [QE] là gì?

Công cụ cơ bản mà các NHTW dùng để kiểm soát nguồn cung tiền là lãi suất. Nhưng khi lãi suất tiến sát ngưỡng 0% thì hiệu quả của công cụ này lại giảm sút. Khi đó, chương trình nới lỏng định lượng [QE – Quantitative Easing] được áp dụng.

Các ngân hàng trung ương thường sử dụng hai công cụ cơ bản để kiểm soát nguồn cung tiền.

Thứ nhất, các ngân hàng trung ương có thể thiết lập lãi suất để khuyến khích hoặc hạn chế chi tiêu. Lãi suất càng thấp thì chi phí đi vay càng thấp, từ đó kích thích chi tiêu và vay mượn.

Tuy nhiên, lãi suất không thể xuống dưới 0%. Khi tiến gần đến giới hạn này, lãi suất trở nên ít hiệu quả hơn.

Và do đó, các ngân hàng trung ương buộc phải sử dụng chương trình nới lỏng định lượng [QE].

Cụ thể, các ngân hàng trung ương tiến hành in tiền và ghi nợ vào tài khoản của mình.

Tiếp đó, các ngân hàng trung ương sử dụng số tiền này để mua tài sản từ các ngân hàng nên các ngân hàng này sẽ có thêm nhiều tiền.

Kỳ vọng của các ngân hàng trung ương là các ngân hàng sẽ sử dụng số tiền này cho các doanh nghiệp và người dân vay để đầu tư hoặc chi tiêu, từ đó kích thích nền kinh tế.

Tuy nhiên, không có gì đảm bảo rằng các ngân hàng này sẽ cho doanh nghiệp và người dân vay tiền.

Bên cạnh đó, QE cũng đem lại nhiều rủi ro như gây ra lạm phát do các ngân hàng trung ương in quá nhiều tiền. Còn nếu in ít tiền, QE sẽ không hiệu quả.

Với những bất đồng sâu sắc về hiệu quả của QE và rủi ro quá lớn kèm theo, kết quả mà chương trình này mang lại vẫn còn là một ẩn số.

Video liên quan

Chủ Đề