Phương hướng rèn luyện nhân cách nghề

Nhân cách người giáo viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [205.38 KB, 19 trang ]

Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
ĐỀ TÀI : NHÂN CÁCH NGƯỜI GIÁO VIÊN.
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tiểu luận này, tôi xin chân thành cảm ơn giảng viên Dương
Thị Linh – giảng dạy bộ môn “TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG, TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ
TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM”- đã trực tiếp hướng dẫn tận tình cho tôi trong quá trình
nghiên cứu đề tài.
Trong bài viết này đã nêu được thực trạng và đưa ra biện pháp để giải quyết
một số vấn đề còn tồn tại về nhân cách của người giáo viên trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu đề tài không thể tránh khỏi khiếm khuyết, kính
mong được sự ủng hộ và góp ý từ các thầy cô giáo.
Một lần nữa, tôi xin kính chúc các thầy cô giáo luôn khoẻ mạnh, thành đạt
trong cuộc sống. Tôi xin chân thành cảm ơn.



1
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
1.1 Cơ sở lí thuyết
“Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”. Từ muôn đời
nay, mỗi người dân Việt Nam đều nhìn nhận nghề giáo với tầm quan trọng bậc nhất.
Xã hội dù có phát triển đến mức nào thì vị trí và vai trò của những người thầy, người
cô vẫn không thể phủ nhận, bởi lẽ họ là nhân lực then chốt trong công tác nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nghề giáo đào tạo nên những con người vừa
có đức, vừa có tài để cống hiến cho gia đình và xã hội.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất
trong các nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo. Các thầy cô giáo
không những dạy chữ mà còn dạy người, họ cứ như cây thông trên sườn núi, cây quế
giữa rừng sâu thầm lặng toả hương dâng hiến trí tuệ, sức lực cho đời”. Nghề dạy học là


nghề cao quý bởi lẽ những người giáo viên không chỉ truyền thụ cho học sinh kiến
thức cần thiết cho cuộc sống mà còn dạy học sinh cách sống, làm thế nào để trở thành
người có phẩm chất đạo đức tốt, dạy cho học sinh điều hay lẽ phải, hướng các em tới
giá trị của Chân - Thiện - Mỹ. Nghề dạy học là nghề sáng tạo, bởi lẽ giáo viên cần phải
thích ứng với nhiều tình huống sư phạm khác nhau. Cần nhấn mạnh rằng mục tiêu cao
nhất của dạy học là “Dạy tư duy”, tức là dạy cách tri nhận tri thức và vận dụng sáng
tạo trong chương trình; đồng thời hình thành con đường tự khám phá để học sinh tiếp
tục học tập sáng tạo đến suốt đời.
Người giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của một nền giáo dục. Năng lực
và đạo đức nghề nghiệp của họ góp phần to lớn vào sự hưng thịnh của mỗi quốc gia.
Còn đối với mỗi thế hệ học trò, thầy cô là người cha, người mẹ, người anh, người chị,
là tấm gương sáng để họ noi theo. Trong số chúng ta, có ai là không mang theo bên
mình những kỉ niệm sâu sắc với những người thầy, người cô?
1.2 Cơ sở thực tiễn.
“Tôn sư trọng đạo” sẽ giảm đi khi nhân cách người thầy… có vấn đề! Học sinh
[HS] không chỉ lĩnh hội kiến thức mà còn chịu ảnh hưởng từ cách sống, cách đối
nhân xử thế của thầy cô giáo. Vì vậy, mỗi giáo viên bên cạnh làm mới kiến thức
chuyên môn còn cần “làm đẹp” hình ảnh, tác phong của mình. Việc giảng dạy HS
sẽ tốt hơn nếu người thầy biết “dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”.
Như những gì chúng ta cảm nhận và quan sát được, ngày nay có nhiều tấm gương
người thầy, người cô âm thầm cống hiến tài năng của mình cho sự nghiệp trồng người,
hết lòng vì các em học sinh. Họ chia sẻ phần thu nhập ít ỏi của mình để giúp đỡ học
2
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
sinh nghèo vượt khó, học sinh tật nguyền Có một người thầy mà tôi hết sức khâm
phục trong suốt 3 năm theo học ở trường THPT Phan Đăng Lưu [Yên Thành]. Đó là
thầy Phan Văn Truyền, giáo viên dạy chuyên môn hóa học, chủ nhiệm lớp tôi. Hàng
tháng thầy thường trích một phần tiền lương của mình để chi trả phí sinh hoạt tại kí túc
xá cho bạn Phan Văn Bình- thuộc diện hộ nghèo, gia đình chính sách. Hành động cao
đẹp của thầy khơi dậy trong tôi nhiều suy nghĩ. Đó cũng chính là một trong những lý


do tôi chọn đề tài. Cảm động hơn nữa còn có những thầy cô sẵn sàng hi sinh tính mạng
của mình để cứu học sinh trong bão lũ.
Bên cạnh đó vẫn còn những giáo viên chưa xứng đáng với hai chữ “nhà giáo”. Họ
không chỉ nêu gương xấu cho học sinh, mà còn làm vẩn đục đạo đức, nhân cách của
những người thầy chân chính. Đây cũng là một trong những vấn đề nan giải mà nền
giáo dục nước ta hiện nay đang gặp phải.
Từ đó cho thấy: muốn nâng cao chất lượng của nền giáo dục nước ta, trước hết phải
chấn hưng đội ngũ giáo viên, nâng cao nhận thức của người giáo viên. Để giúp các
giáo viên và sinh viên ngành sư phạm nhận thức rõ về vị trí, vai trò và trách nhiệm của
mình, tôi đã chọn đề tài “Nhân cách của người giáo viên trong thời buổi hiện nay’’.
2 Nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1 Tìm hiểu cơ sở lí luận về nhân cách người giáo viên
2.2 Nghiên cứu thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao việc rèn
luyện nhân cách của người thầy.
3 Phương pháp nghiên cứu.
3.1 Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: đọc, tìm tài liệu.
3.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: quan sát hỏi ý kiến.
NỘI DUNG
3
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
1. Một số khái niệm liên quan.
1.1. Thế nào là nhân cách của người giáo viên?
Nhân cách là tổng thể phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc và giá trị tinh thần của
mỗi cá nhân.
Khi nói đến nhân cách người giáo viên, ta nhắc đến hai phạm trù cơ bản: Phẩm chất
và năng lực.
1.1.1. Phẩm chất.
Phẩm chất chỉ tính chất và đặc điểm vốn có của sự vật.
Theo nghĩa hẹp, phẩm chất là khái niệm sinh lí học chỉ đặc điểm sẵn có của cơ thể
[như hệ thần kinh các giác quan và cơ quan vận động]. Đặc điểm sẵn có là cơ sở tự nhiên


để con người tiếp nhận những hiện tượng tâm lý và thuộc tính tâm lý.
Theo nghĩa rộng, phẩm chất chỉ đặc điểm tâm lý như: Tính cách, ý chí, hứng thú,
phong cách của con người.
Như vậy, ta có thể hiểu: Phẩm chất của người giáo viên không chỉ là những đặc
trưng đơn giản, có sẵn của sinh lý học mà là tổng hòa các yêu tố bên trong, trên cơ sở các
phẩm chất sinh lý, hình thành các phẩm chất tâm lý thông qua hoạt động giao lưu trong
thực tiễn đời sống và công tác của người giáo viên.
1.1.2. Năng lực.
Theo quan điểm của các nhà tâm lý học: Năng lực là tổng hợp các đặc điểm, thuộc
tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của hoạt động nhất định nhằm đảm
bảo cho hoạt động đạt hiệu quả cao.
Các năng lực hình thành trên cơ sở các tư chất tự nhiên của cá nhân. Tuy nhiên
năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà phần lớn được xây
dựng trong quá trình công tác, luyện tập.
Năng lực của người giáo viên là những thuộc tính tâm lý giúp hoàn thành tốt hoạt
động dạy học và giáo dục. Có thể chia năng lực của giáo viên ra làm hai nhóm: Năng lực
dạy học và năng lực giáo dục. Năng lực dạy học là những thuộc tính tâm lý mà nhờ đó
người giáo viên thực hiện tốt hoạt động dạy học. Năng lực giáo dục là khả năng truyền tải
những tri thức đó tới học sinh, sinh viên và nghiên cứu sinh.
Như vậy, một người giáo viên có năng lực phải biết vận dụng, tích hợp nhiều kĩ
năng sư phạm một cách linh hoạt. Lao động sư phạm là loại lao động căng thẳng, tinh tế,
không rập khuôn, không đóng khung trong một giờ giảng, trong khuôn khổ nhà trường.
Dạy học đòi hỏi người thầy phải dựa trên nền tảng khoa học xác định, khoa học bộ môn
cũng như khoa học giáo dục và có khả năng sử dụng chúng vào từng tình huống sư phạm
cụ thể, thích ứng với từng cá nhân sinh động.
1.2. Các yêu cầu về phẩm chất của người giáo viên.
1.2.1. Tình yêu con người và lòng say mê với sự nghiệp phát triển con người.
4
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
Dạy học là nghề làm việc với con người, người giáo viên phải có tình yêu con


người mới có thể hoạt động hiệu quả. Tình yêu này thể hiện qua hứng thú khi tiếp xúc với
con người, chia sẻ, tìm hiểu vấn đề của con người, phấn chấn khi làm việc với con người,
sẵn sàng chia sẻ khó khăn với con người. Đặc biệt tình yêu con người của người giáo viên
thể hiện ở sự thấu hiểu, thông cảm, sẵn sàng giúp đỡ con người vượt qua khó khăn.
Đối với học sinh, tình yêu con người thể hiện ở sự say sưa làm việc với học sinh,
hạnh phúc khi giúp đỡ học sinh và nhận thấy sự tiến bộ của học sinh, trăn trở trước những
thất bại, vấp váp của học sinh, chia sẻ buồn vui và cùng người học sinh vượt qua khó khăn
trong học tập. Người giáo viên say mê với sự phát triển con người, luôn hết lòng vì sự phát
triển của học sinh, nghiên cứu, tìm hiểu, ứng dụng tiến bộ khoa học vào giáo dục và dạy
học vì học sinh.
Tôi luôn tự hỏi, nếu như một người giáo viên không có tình yêu thương đối với học
sinh của mình, anh ta sẽ dạy học bằng cách nào? Từ thực tế công việc dạy học tình nguyện
cho trẻ em mồ côi ở làng trẻ SOS [Vinh], tôi nhận thấy rằng: Tình yêu con người và lòng
say mê với sự nghiệp phát triển con người là cốt lõi của chất lượng giảng dạy. Vì tình
thương, vì ước muốn vun đắp, bồi dưỡng các em, chúng tôi dốc hết sức mình để giúp đỡ
các em, xem việc nhìn thấy sự tiến bộ từng ngày của các em là thù lao lớn nhất cho những
vất vả, công lao mình đã bỏ ra.
1.2.2. Ứng xử công bằng và tạo cơ hội cho mọi học sinh phát triển.
Ứng xử công bằng thể hiện đạo đức của nhà giáo không thiên vị, định kiến với bất
kì học sinh nào. Ứng xử công bằng và tạo cơ hội cho mọi học sinh phát triển, tạo ra môi
trường thân thiện giúp học sinh vượt qua mặc cảm yếu kém, phân biệt đối xử do vị thế
kinh tế, xã hội, dân tộc. Ứng xử công bằng thể hiện ở những điểm sau:
- Không thành kiến với học sinh cho dù họ chưa đạt kết quả như mong muốn mà
vẫn tiếp tục giúp đỡ học sinh phát triển theo hướng tích cực.
- Không phân biệt đối xử với học sinh, không phân biệt hoàn cảnh xuất thân, thành
tích học tập và hành vi đạo đức.
- Đánh giá khách quan kết quả học tập cũng như rèn luyện của học sinh.
- Kiểm soát tốt cảm xúc, chia sẻ, thông cảm với học sinh.
Ứng xử công bằng góp phần thu hẹp khoảng cách thầy – trò. Mặc dù vậy, mỗi con
người đều không thể tránh khỏi những thiên vị trong tình cảm. Bản thân tôi cũng có những


thái độ yêu ghét rạch ròi. Tuy nhiên, tôi cũng nhận thấy rằng, sự thiên vị trong cách ứng xử
của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành nhân cách của học sinh. Trong suốt
quá trình học phổ thông, tôi đã từng chứng kiến nhiều học sinh vì bất mãn với thầy cô mà
trở nên sa ngã. N.V.T là bạn học cấp III của tôi, vì học kém môn Anh nên không những
không được cảm thông và giúp đỡ, T còn thường xuyên bị chỉ trích thậm tệ, thậm chí xúc
phạm đến nhân phẩm cá nhân. Suốt một thời gian dài, T bị trầm cảm nặng. Thiết nghĩ, đạo
đức nhà giáo ở đâu? Vẫn biết rằng tình cảm cá nhân mỗi chúng ta ai ai cũng có, nhưng cần
phải biết kiềm chế, giữ ở mức độ vừa phải để các em học sinh thấy rằng: các em vẫn được
yêu thương, quan tâm và giúp đỡ một cách bình đẳng.
1.2.3. Tính tích cực xã hội.
Tính tích cực xã hội thể hiện trong sự tham gia vào các côn việc của xã hội, tìm
hiểu, tham gia tọa đàm, tham gia vào các hoạt động tuyên truyền, giáo dục trong xã hội,
tham gia vào các phong trào vận động vì môi trường xanh-sạch-đẹp, đóng góp ý kiến, hiến
kế hoạch cho việc giải quyết các vấn đề xã hội, tham gia phản biện xã hội.
5
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
Tính tích cực xã hội thể hiện tính xã hội của con người, thể hiện vai trò chủ thể của
người giáo viên làm chủ trong tương lai, vận mệnh của mình trong xã hội cũng như đóng
góp một phần sức lực của mình vào sự phát triển xã hội.
Mỗi giáo viên là tấm gương về cách ứng xử cho học sinh. Giáo viên tham gia tích
cực các hoạt động xã hội tạo nên động lực, thúc đẩy các em tham gia. Cô Nguyễn Thị Nga,
phụ trách Đoàn Thanh Niên trường THPT Phan Đăng Lưu, Yên Thành là một ví dụ mẫu
mực. Nhờ sự dẫn dắt của cô, trường tôi luôn đứng đầu huyện về thành tích hoạt động xã
hội. Học sinh hưởng ứng tích cực các phong trào Đoàn như “Thanh niên vì môi trường”,
“Ngày vì người nghèo”, “An toàn giao thông”

1.2.4. Tự ý thức và tự giáo dục cao.
Giáo viên là nhà giáo dục đồng thời phải có khả năng tự ý thức và tự giáo dục. Tự ý
thức được coi là phương tiện tự điều chỉnh của chủ thể. Người giáo viên phải ý thức được
bản thân trong các mối quan hệ sau đây:


- Ý thức về đạo đức của bản thân, nhận biết và đánh giá được hệ giá trị, thái độ của
bản thân đối với con người, cái thiện và cái ác, cái tốt và cái xấu, sự phù hợp của quan
niệm, hệ giá trị của bản thân so với hệ thống chuẩn mực xã hội.
- Ý thức về hành vi của bản thân, sự phù hợp hay không phù hợp so với chuẩn mực,
phương thức ứng xử được chấp nhận, độc lập đánh giá hành vi của mình trên cơ sở những
chuẩn mực đã được chấp nhận.
- Ý thức về bản thân như là chủ thể hoạt động, ý thức về trách nhiệm và vai trò của
nhà giáo trong xã hội, trách nhiệm của bản thân như một người thầy, đánh giá về trách
nhiệm, vai trò của mình, hiệu quả hoạt động, sản phẩm và con đường cải thiện hoạt động.
- Đánh giá bản thân trong mối quan hệ với môi trường lao động, môi trường sống
với tư cách là nhà giáo, người công dân.
- Ý thức về sự phát triển bản thân theo thời gian, về những thành công và thất bại,
yếu kém cần khắc phục.
1.3. Các yêu cầu về năng lực của người giáo viên.
1.3.1. Năng lực dạy học.
Để có thể thực hiện được tốt hoạt động dạy học, người giáo viên phải có:
- Hiểu biết và kiến thức chuyên ngành môn dạy: Giáo viên phải là chuyên gia trong
lĩnh vực mình giảng dạy.Hiểu biết về lĩnh vực chuyên nghành này chính là hiểu biết về hệ
thông kiến thức về nội dung môn học, các phương pháp khoa học trong nghiên cứu,khám
phá và ứng dụng các kiến thức đó trong thực tiễn.Nhà giáo phải có khả năng tham gia
nghiên cứu khoa học và và ứng dụng các kiến thức chuyên nghành vào thực tiễn. Tuy
nhiên,đối với nhà giáo thì như thế là chưa đủ. Những kiến thức đó phải được người giáo
viên thấm nhuần, hệ thống hoá,khái quát hoá,chế biến để có thể truyền cho học sinh theo
cách dễ hiểu nhất,dễ ghi nhớ nhất.
- Năng lực tổ chức quá trình dạy học:.
- Kiến thức hiểu biết về học sinh, khả năng đánh giá người học.
- Năng lực ngôn ngữ.
- Năng lực sử dụng kĩ thuật dạy học.
Thầy Phan Bá Nghĩa- giáo viên môn Vật lý trường THPT Phan Đăng Lưu là tấm
gương về năng lực dạy học tốt. Được vinh dự theo học bộ môn của thầy trong 3 năm cấp


III, thầy để lại trong tôi nhiều ấn tượng tốt đẹp. Suốt 30 năm đứng trên bục giảng, thầy đào
tạo nên nhiều thế hệ nhân tài, gặt hái nhiều thành tích trong các kì thi Vật lí Quốc gia cũng
6
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
như Quốc tế. Có được thành tích này là nhờ phương pháp dạy học logic, có hiệu quả của
thầy. Thầy luôn chú trọng giảng dạy về kĩ năng và phương pháp, như các phương pháp giải
nhanh và các cách giải đặc thù cho từng dạng đề; sử dụng ngôn ngữ phổ thông, dễ hiểu và
diễn đạt súc tích, hài hước. Do đó, thầy luôn đi đầu trong công tác giảng dạy chuyên môn
trong toàn huyện cũng như tỉnh.
1.3.2. Năng lực giáo dục.
Vấn đề giáo dục bao giờ cũng quan trọng vì hoạt động giáo dục trong nhà trường
góp phần quan trọng nhất tạo ra định hướng nhân cách đúng đắn cho học sinh, tạo dựng hệ
giá trị, chuẩn mực đạo đức và hệ thống hành vi phù hợp. Năng lực giáo dục ở giáo viên
bao gồm:
- Có hiểu biết và kiến thức, kỹ năng về giáo dục và quá trình giáo dục.
- Có năng lực giao tiếp sư phạm.
- Có kĩ năng định hướng giao tiếp.
- Có kĩ năng định vị.
- Có kĩ năng làm chủ trạng thái, cảm xúc của bản thân, vượt qua những trạng thái cảm xúc
khó khăn trong giao tiếp.
- Có kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp.
- Có năng lực nhận biết, đánh giá phẩm chất nhân cách, tính cách học sinh.
- Có năng lực cảm hóa, thay đổi nhân cách theo mô hình mong muốn.
- Có năng lực tự giáo dục và làm gương.
Trong năm học qua, tôi đã được học hỏi rất nhiều từ giảng viên các bộ môn ở Đại
Học Vinh. Đặc biệt, khi mới tiếp xúc với một số thầy cô, thấy các thầy cô khá nghiêm
khắc, tôi hết sức lo lắng. Lấy ví dụ như bộ môn Tâm lý học, tôi khá trăn trở vì đây là môn
học khó, nhiều khi rất muốn từ bỏ. Nhưng sau một thời gian học tập, nhận được sự quan
tâm, giúp đỡ tận tình từ cô giáo, tôi đã dần làm quen và cảm thấy yêu thích đối với bộ môn.
Cô hiểu rõ tiềm năng cũng như yếu kém để áp dụng những biện pháp giáo dục linh hoạt


với từng sinh viên. Hơn nữa, cô hết lòng truyền thụ những kiến thức sư phạm với niềm say
mê và tinh thần trách nhiệm. Sự nghiêm túc, không vụ lợi khiến cho sinh viên ngày càng
yêu quý, gắn bó với cô cũng như bộ môn Tâm lý học.
1.4 Con đường hình thành nhân cách và uy tín của người giáo viên.
1.4.1. Nhân cách.
Nhân cách [phẩm chất và năng lực] có thể được hình thành và phát triển trong giai
đoạn học tập ở trong trường đại học và giai đoạn học tập nghề nghiệp sau khi ra trường.
Quá trình trưởng thành đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng nghỉ, liên tục học hỏi, trau dồi
kiến thức và đạo đức.
Gonbolin[1979] viết “không chỉ những con người bình thường mà ngay cả những
bộ óc vĩ đại nếu không thường xuyên tự bồi dưỡng cũng sẽ dần dần mất hết nhu cầu trí tuệ
và hứng thú tinh thần”.Vậy việc nâng cao trình độ, rèn luyện phẩm chất của người giáo
viên phải được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc.
Hình thành nhân cách trong giai đoạn học tập ở trường đại học.
7
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
Có những quan điểm quan niệm khác nhau về việc đào tạo giáo viên.Quan niệm
truyền thống cho rằng: đào tạo giáo viên phải được tổ chức trong trường sư phạm, ở đó
sinh viên được cung cấp kiến thức về những môn khoa học chuyên ngành và kiến thức về
các khoa học giáo dục, trong đó có kiến thức về tâm lý học. Ngày nay, quá trình đào tạo
được tổ chức mềm dẻo hơn, theo mô đun kiến thức. Sinh viên có thể tiếp thu kiến thức
khoa học giáo dục một cách độc lập, thậm chí sau khi hoàn thành chương trình đại học một
chuyên nghành nhất định. Cho dù chọn con đường tổ chức quá trình đào tạo được diễn ra
như thế nào đi chăng nữa,kiến thức các môn học mà giáo viên sẽ giảng dạy là điều kiện
cần nhưng chưa đủ. Người giáo viên cần tiếp thu những kiến thức về khoa học giáo dục,
nâng cao tay nghề sư phạm,hình thành và phát triển phẩm chất nhân cách,năng lực dạy học
và giáo dục phù hợp.
Tuy mới chỉ là sinh viên năm nhất, nhưng tôi tự ý thức được tầm quan trọng của
việc trau dồi nhân cách ngay trong những năm học đại học. Tôi tích cực thu nạp kiến thức
các thầy cô cung cấp và tận dụng mọi cơ hội để đưa những kiến thức đó vào thực tế, như


tham gia dạy học tình nguyện ở làng trẻ SOS, dạy phụ đạo cho học sinh cấp III Chính vì
vậy, không những tôi có thêm nhiều kinh nghiệm giảng dạy mà còn được bồi dưỡng niềm
say mê nghề nghiệp, yêu thương học trò
Hình thành và phát triển nhân cách trong quá trình hành nghề.
Bắt đầu hành nghề,người giáo viên cảm thấy những thiếu hụt trong năng lực của cá
nhân khi gặp phải những tình huống sư phạm phức tạp.Cùng với đó là sự vận động đi lên
từng ngày của các nhu cầu xã hội được phản ánh trong trường học.Ngoài việc tham gia vào
các khoá đào tạo cao hơn, người giáo viên phải không ngừng tự học, tự tu dưỡng suốt đời
để có đủ trình độ đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Tóm lại, việc học tập nâng cao trình độ, phẩm chất và năng lực của người giáo
viên là hoạt động thường ngày,có thể diễn ra ngay từ khi bước vào giảng đường trường đại
học.Sự khác biệt là ở chỗ việc học nâng cao năng lực có thể được tiến hành một cách có ý
thức,có kế hoạch và sử dụng phương pháp phù hợp. Việc học tập là để trau dồi phẩm chất
và nâng cao năng lực bản thân để tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục học sinh giúp học
sinh có kĩ năng, năng lực và hình thành nhân cách cho học sinh.Dù học theo bất kì hình
thức nào thì người giáo viên vẫn là chủ thể của quá trình tiếp thu kiến thức để tăng cường
năng lực và chuyển hoá kiến thức nhân loại thành kiến thức và năng lực của bản thân.Đây
là quá trình tự giác, có ý thức và được người giáo viên lập kế hoạch chi tiết.
1.4.2. Uy tín.
Thầy giáo có xứng đáng là đại diện cho nền văn minh nhân loại, nền giáo dục tiến
bộ, cho điều hay lẽ phải hay không thì đều xuất phát từ uy tín của người thầy.Uy tín là tấm
lòng và tài năng của thầy giáo, uy tín thực không phải là cái mác hay là vỏ bọc bên ngoài
mà nó phải được hình thành từ chính những phẩm chất, năng lực thật sự của thầy giáo. Uy
tín được toát lên từ toàn bộ cuộc sống của người thầy, thầy có năng lực và phẩm chất tốt
đẹp sẽ được học sinh thừa nhận và kính trọng. Vì có tấm lòng nhân ái thầy mới có tình
thương với học sinh, tận tụy với công việc và đạo đức trong sáng, có tài năng thầy mới đạt
được hiệu quả cao trong công tác. Cũng có một số giáo viên xây dựng uy tín bằng các thủ
đoạn giả tạo như : trấn áp, khoe khoang, vô nguyên tắc hoặc nuông chiều học sinh. Có thể
họ cũng tạo được uy tín nhưng rồi một sớm một chiều sẽ thất bại bởi bản chất là không có
thật. Nhờ có uy tín thực mà thầy giáo có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến đời sống học sinh, trở


thành hình mẫu lí tưởng cho cuộc đời các em, uy tín soi dẫn các em đi theo thầy. Uy tín
8
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
không phải là điều một người thầy dễ dàng có được, nó được hình thành từ lòng yêu nghề,
yêu trẻ, tính công bằng, ý chí tiến thủ và phương pháp, kĩ năng dạy học hiệu quả, sáng tạo.
2. Vai trò của nhân cách trong quá trình dạy học.
Nhân cách của người thầy đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp trồng
người. Có lẽ hơn bất kì nghề nghiệp nào khác, nghề dạy học là nghề có trách nhiệm cao
nhất bởi lao động của nhà giáo mang tính quyết định, là kim chỉ nam, sợi chỉ đỏ, định
hướng cho sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ.
Nghề dạy học là nghề nghiệp đặc thù. Nếu như kĩ sư làm việc với máy móc, kiến trúc sư
làm việc với bản vẽ, thì giáo viên làm việc với con người. Thành quả sau quá trình lao
động phải là những con người hoàn chỉnh. Hơn bất kì một ngành nghề nào khác, nghề giáo
không được phép tạo ra thứ phẩm bởi việc làm hỏng một con người là tội lỗi lớn không thể
tha thứ.
Sản phẩm hoạt động của nhà giáo là tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và các phẩm chất,
nhân cách được hình thành ở học sinh. Bằng năng lực và nhân cách của mình, giáo viên đã
giúp người học chuyển tải nền văn hóa xã hội vào bên trong thành những phẩm chất, năng
lực thông qua hoạt động học tập của học sinh. Nhờ có năng lực, nhà giáo nắm bắt được đối
tượng, thiết kế được mô hình nhân cách tương lai của học sinh, sử dụng những tác động
phù hợp và phát huy được tính chủ thể của học sinh. Nhờ có phẩm chất tốt đẹp, nhà giáo
trở thành tâm gương, là hình mẫu cho học sinh noi theo.
Theo Usinxki: “Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với
học sinh. Sức mạnh đó không thể thay thế bởi bất kì cuốn sách giáo khoa nào, bất kì câu
chuyện, châm ngôn đạo đức, bất kì một hệ thống khen thưởng hay trách phạt nào khác”.
Trong suốt 12 năm học phổ thông, tôi nhận thấy bản thân mình chịu ảnh hưởng rất
nhiều từ các giáo viên. Không thể phủ nhận rằng, tình cảm đối với từng giáo viên hầu như
chi phối thái độ học của tôi đối với bộ môn họ dạy. Tôi chọn con đường trở thành giáo viên
dạy Hóa học, một phần vì lòng kính yêu và biết ơn đối với thầy Truyền- người đã thổi
bùng lên trong tôi tình yêu đối với bộ môn. Thầy giáo tốt là một con đường sáng, đưa học


sinh tới cái đích tốt đẹp.
3. Nhân cách người giáo viên trong xã hội hiện nay.
Nhân cách của người giáo viên luôn là vấn đề được xã hội hết sức quan tâm.
Theo quan niệm truyền thống phương Đông, người thầy giữ vai trò thứ hai trong cương
thường “Quân, sư, phụ”. Ngày nay, sự biến đổi của nền kinh tế-xã hội đã tác động không
nhỏ tới đời sống đạo đức nói chung và đạo đức người thầy nói riêng, trong đó bên cạnh tác
động tích cực vẫn tồn tại nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Sau đây, tôi sẽ đi sâu hơn về vấn đề
này.
3.1. Tích cực.
Trong xã hội Việt Nam chúng ta ngày nay cũng có rất nhiều thầy, cô giáo đã thấm
nhuần đạo đức của nghề thầy giáo và hàng ngày, hàng giờ đang học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ chí Minh, họ không màng danh lợi, hy sinh tất cả cho sự nghiệp trồng
người. Trong số đó tiêu biểu có cô Vũ Thị Tứ, giáo viên Trường THPT DTNT Quỳ Châu
[Nghệ An]- trường hiện nay em họ tôi đang theo học. Với tấm lòng yêu nghề, yêu trò, từ
khi mới ra trường cô đã tình nguyện lên vùng núi cao Quỳ Châu để dạy cái chữ cho con em
nơi đây. Không những thế cô còn giúp các em có hoàn cảnh khó khăn, phải bỏ học có điều
kiện đến trường bằng cách nhận nuôi các em. Suốt ba năm học cấp ba, em tôi- một học
9
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
sinh thuộc diện hộ nghèo của xã đã được cô Tứ giúp đỡ nhiệt tình và nhận được học bổng
vì có thành tích học tập tốt. Với nhiệt tình và tài đức của mình, cô Vũ Thị Tứ đã giành
được nhiều thành tích xuất sắc trong việc dạy học. Khi được hỏi về mình, cô chỉ khiêm tốn
trả lời, “Những việc làm của em là từ tấm lòng và bản thân cũng chưa làm được gì
nhiều…”
Rồi việc thầy giáo Lê Văn Tùng, người bạn học cùng lớp suốt 4 năm đại học của
mẹ tôi, hàng năm khi tới mùa mưa lũ, thấy các em học sinh của mình phải oằn mình vượt
qua dòng lũ để tới trường với ước mơ cháy bỏng được đi học để trở thành người có ích cho
xã hội. Cảm nhận được sự vất vả, khó khăn thậm chí là phải chứng kiến cảnh tang thương
khi học trò của mình bỏ mạng trong dòng lũ, thầy đã nghĩ ra một cách để giúp các em tới
trường an toàn. Là một giáo viên dạy môn giáo dục thể chất của trường THPT Thanh


Chương I, bằng nghiệp vụ của mình, thầy đã tự đứng ra mở lớp học bơi cho học sinh để
phòng đuối nước, giúp phụ huynh yên tâm cho trẻ đến trường. Việc làm này đã thu hút
được nhiều học sinh và phụ huynh đồng tình hưởng ứng. Đây là việc làm thiết thực xuất
phát từ cái tâm, cái tài của người thầy. Mẹ thường kể về thầy là một người thầy mẫu mực,
và mong muốn tôi noi theo tấm gương ấy để trở thành người giáo viên tốt.
Hơn bao giờ hết tôi rất tự hào khi mình được học tập dưới mái trường mang tên
đồng chí Phan Đăng Lưu, ngôi trường nghèo nhưng có truyền thống hiếu học. Bằng chính
bằng nhân cách cao đẹp của mình, nhiều thầy cô trong trường đã đào tạo ra những thế hệ
học trò có tài,có đức. Nói về tấm gương tiêu biểu cho nhân cách nhà giáo, cả thầy và trò
trong trường không khỏi bùi ngùi khi nhắc tới thầy giáo Hoàng Tiến Sĩ. Trong suốt quá
trình dạy học, thầy đã chứng tỏ được nhân cách cao đẹp, thầy luôn được học sinh và phụ
huynh quý trọng, các đồng nghiệp tin tưởng và khâm phục. Thầy luôn tận tâm với nghề, tận
tình giúp đỡ học sinh, coi học sinh như người con trong gia đình, bằng những đồng lương ít
ỏi của mình thầy giúp đỡ cho học sinh nghèo hiếu học. Hơn thế nữa, thầy mở lớp học thêm
cho những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, thầy đến từng nhà các em học sinh đó động
viên, vận động các em đi học….Là một thầy giáo trẻ tuổi đời còn chưa đến 35 nhưng thầy
đã ra đi quá sớm, để lại cho toàn bộ học sinh và tập thể giáo viên trong trường những
thương tiếc,đau buồn,xót xa,
Bên cạnh tấm gương của thầy còn có cô giáo Phan Thị Sắc- giáo viên dạy văn lớp
12 của tôi. Có lẽ lớp tôi đã lấy đi không ít những giọt nước mắt của cô, vui có, buồn có.Vui
là khi cô thấy chúng tôi hiểu bài, tích cực học tập. Nói đến đây, tôi lại thấy có lỗi với cô vô
cùng. Nhớ đến những ngày đầu cô mới vào dạy, lớp tôi nào có đứa nào chịu học văn, suốt
buổi học chỉ nghe tiếng lách cách của bàn phím máy tính, những quyển đề thi toán, lí, hoá
trải đầy bàn, mỗi người một việc. Tuy nhiên, bằng sự kiên nhẫn, lòng yêu nghề, cô đã đưa
chúng tôi đi vào quỹ đạo. Cô luôn nhẹ nhàng phân tích cái đúng, cái sai cho chúng tôi hiểu
và sửa chữa. Tôi còn nhớ hình ảnh cô vội lau đi những giọt nước mắt khi buổi học thêm chỉ
có vài người, hình ảnh những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán cô nhưng khuôn mặt cô luôn
hiện hữu những nụ cười thật hiền hậu, ấm áp, Chính những điều trên làm cho lớp tôi
không còn ghét môn văn như trước nữa.
Bằng nhân cách tốt đẹp của mình, các thầy cô đã tạo ra những mầm non cho đất


nước, đào tạo ra những con người có nhân cách tốt đẹp, góp phần vào công cuộc xây dựng
và đổi mới đất nước.
3.3. Tiêu cực
10
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
Bên cạnh những thay đổi tích cực, hiện nay vẫn còn những dấu hiệu tiêu cực trong nhân
cách nhà giáo đáng được quan tâm như sau:
3.3.1. Tư tưởng bảo thủ, chậm đổi mới:
Theo nghiên cứu mới đây nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đây được xem là hạn
chế lớn nhất của giáo viên phổ thông nước ta. Giáo dục là ngành mang tính thời đại cao.
Mục đích chủ yếu của giáo dục là cung cấp cho các em học sinh đầy đủ kiến thức và kỹ
năng, rèn luyện nhân phẩm , đảm bảo cho cuộc sống trong tương lai; do đó, nếu những gì
các em nhận được trong quá trình học không phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế-xã
hội toàn cầu, vậy các em học để làm gì?

Hằng năm các cơ sở giáo dục đều tiến hành bồi dưỡng năng lực giáo viên nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục, nhưng dường như chưa có đổi mới trong cách dạy, hình thức
còn phiến diện. Ví dụ, nhiều giáo viên vẫn còn áp dụng phương pháp dạy học truyền
thống: Giáo viên đọc, học sinh chép và học thuộc. Giáo viên dạy sử cấp III của tôi [xin
phép được giấu tên] là người có tư tưởng khá bảo thủ trong cách dạy học. Giờ sử 45 phút
thường được phân chia như sau: 10 phút kiểm tra bài cũ và 35 phút cả lớp chỉ ngồi ghi
chép những kiến thức sách giáo khoa mà thầy đọc để hôm sau tiếp tục lên hỏi bài cũ!!!
Phương pháp này thiếu tính tương tác giữa thầy và trò, không kích thích được trí thông
minh, sáng tạo và niềm hứng thú say mê nghiên cứu tìm hiểu.
Bên cạnh đó, do còn thiếu thốn, khó khăn về cơ sở vật chất, điều kiện dạy và học và
áp lực công việc, đời sống, một bộ phận giáo viên ở vùng sâu vùng xa hiếm có cơ hội tiếp
cận với những đổi mới tiến bộ trong phương pháp giáo dục, điển hình là ở một số trường
tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông miền Tây Nghệ An [Anh Sơn, Quế Phong,
Kỳ Sơn ]
Trong đợt tình nguyện hè 2012 do Đoàn Thanh niên huyện Yên Thành tổ chức,


thanh niên chúng tôi được đến thăm trường Tiểu học Nậm Càn, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ
An. Tôi được tận mắt chứng kiến điều kiện dạy và học của thầy cô và học sinh nơi đây. Cở
sở vật chất xuống cấp cực kì nghiêm trọng, đừng nhắc đến tiến bộ khoa học như máy
chiếu, máy tính , ngay cả bảng viết, bàn ghế cũng sứt mẻ, hư hỏng nhiều

3.3.2 Bạo lực học đường.
Vấn đề bạo lực học đường, giáo viên đánh đập, xúc phạm nhân cách học sinh gần
đây đang diễn ra ngày càng nhiều, gây ra những làn sóng chỉ trích gay gắt trong xã hội.
Báo Lao động ngày 20-12-2014 đưa tin về clip thầy giáo đánh học sinh tại trường THPT
Nguyễn Huệ, Bình Định như sau: “ Những cái tát từ cánh tay người thầy liên tục giáng
xuống mặt em học sinh. Đó là hình ảnh “sốc” nhất trong clip thầy trò đánh nhau ngay trên
giảng đường”.
Bên cạnh đó là hình ảnh bảo mẫu đánh trẻ mần non một cách dã man…
Không nói đâu xa tôi cũng đã từng nghe, chứng kiến nhưng lời nói khó nghe hay nói cách
khác là lời nói thiếu văn hoá của giáo viên đối với học sinh, cụ thể như đối vơi trường hợp
cô giáo dạy văn của tôi năm lớp 10. Cô đã mắng một bạn nữ lớp tôi rằng: “chị không đủ tư
cách ngồi trong cái lớp này”, “đầu óc chị có vấn đề à” chỉ vì lí do là bạn đó chưa làm bài
tập về nhà, hơn thế nữa khi có học sinh nói chuyện riêng trong lớp cô đã nói những lời
thậm tệ như “chị có muốn ăn dép không” hay “tôi tát cho lùa răng bây giờ”.Thậm chí cô
còn xúc phạm một học sinh là “đồ con lợn” khi bạn đó đi học muộn… Chính những điều
11
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
này khiến cho lớp tôi sinh ra ác cảm với môn văn. tôi biết trong những sự việc trên,những
học sinh bị chỉ trích đúng là đã mắc lỗi lầm, nhưng cô đâu cần dùng những lời lẽ khó nghe
như vậy để xúc phạm học sinh,chẳng phải khoa học sư phạm hiện đại đề cao giá trị cá
nhân, tôn trọng nhân phẩm con người, cho nên không chấp nhận việc dùng đòn roi trong
giáo dục hay sao? Hành động bạo lực xúc phạm danh dự, nhân phẩm học sinh không phải
là đi ngược lại quan điểm giáo dục của thế giới văn minh, vi phạm quyền con người hay
sao?
Hiện nay ở các nước phát triển như Hòa Kỳ, vương quốc Anh, Pháp, Nga tình


hình giáo dục luôn được quan tâm, giám sát chặt chẽ. Hệ thống pháp luật bảo hộ cho quyền
lợi học sinh, sinh viên. Nếu xảy ra tình trạng học sinh bị xâm phạm đến thân thể và nhân
cách, gia đình học sinh sẵn sàng đâm đơn kiện và giáo viên bị xử phạt rất nặng.
Em họ của tôi- du học sinh Mỹ từng tâm sự với tôi như sau: “Ở Mỹ cách nghĩ về
mối quan hệ thầy trò của họ khác ngay trong việc bố trí lớp học. Chị có thể thấy lớp học
của Mỹ hầu hết đều được thiết kế theo hình quả đồi: Thầy giáo ở dưới chân đồi, tầng thấp
nhất, còn học sinh luôn ở phía cao hơn thầy. Đây là một suy nghĩ rất tiến bộ, thầy cô giáo
là nền tảng cho học sinh, dìu dắt học sinh.
Còn ở Việt Nam, thầy giáo vẫn là một người rất xa vời, rất có quyền lực. Thầy là phải ở
bục cao nhìn xuống học sinh. Giữa thầy vào trò luôn mặc định tồn tại một khoảng cách vô
cùng lớn. Không mấy khi học trò dám thẳng thắn đối thoại với thầy cô. Họ thường im lặng
chấp nhận những gì thầy cô nói, hoặc là ấm ức giữ trong lòng, chính vì thế mới dễ xảy ra
xung đột khi mâu thuẫn quá lớn”.
Thiết nghĩ nguồn gốc của tình trạng bạo lực học đường, bên cạnh xuất phát từ lỗi
của học trò, còn liên quan đến đạo đức của giáo viên. Là một người thầy tốt phải giữ cho
mình chữ “Nhẫn”, luôn áp dụng biện pháp mềm mỏng để hướng học sinh theo lối quy
phạm đạo đức. Không nên quá chấp nhất, phải linh hoạt trong xử lý tình huống sư phạm.
3.3.3. Tiêu cực trong công tác đánh giá học sinh.
Đánh giá học sinh [hay đánh giá hiệu quả học tập của học sinh] là hệ thống chính
thức xét duyệt trình độ tiếp thu và xử lý bài học của học sinh theo định kì.
Công tác đánh giá học sinh nhằm những mục đích sau:
- Cung cấp các thông tin phản hồi [là cơ hội giao tiếp thảo luận với học sinh để có được
các thông tin phản hồi, nhờ đó cải thiện hiệu quả công tác giảng dạy].
- Đánh giá đúng đắn tiềm năng của học sinh nhằm định hướng và phát triển tốt nhất những
tiềm năng đó.
- Phát hiện, sửa chữa những yếu kém của học sinh.
- Tăng cường quan hệ tốt giữa thầy và trò.
- Làm cơ sở cho việc khen thưởng học sinh, giáo viên.
Do đó, công tác đánh giá học sinh cần được tiến hành nghiêm túc, công bằng. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, tình trạng chạy điểm, chạy bằng, dạy thêm một cách tràn


lan….diễn ra ngày càng phổ biến, nhiều thầy cô đã đánh mất đi nhân cách làm thầy của
mình.
Nhiều thầy cô lấy lí do: “Tiền lương giáo viên thấp, cuộc sống giáo viên găp nhiều
khó khăn” để viện cớ cho những hành vi sai trái của mình. Nhà nước ta đã tìm mọi cách để
nâng lương nhằm ổn định đời sống cho thầy cô với hi vọng những hành động phi giáo dục
12
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
kia không còn xuất hiện trong các trường học, nhưng việc ông thầy tìm mọi cách để dụ dỗ
hay bắt ép học sinh thỏa mãn sắc dục của mình thì không có một lí do nào có thể bênh vực
được. Chúng ta không còn cách nào để nói về nhưng thầy cô như thế ngoài việc gọi đó là
suy đồi nhân cách, chúng ta không thể đưa ra bất kì lí do nào để chôn vùi những sự thật
đau đớn và đáng xấu hổ kia. Bởi nếu chôn vùi nó giống như việc chúng ta tìm cách che
giấu những “ổ dịch hạch nhân cách” đang nằm trong cơ thể của nền giáo dục. Phải gọi
đúng tên con đường sinh ra “ ổ dịch hạch nhân cách” này trong nhà trường, chỉ khi đó
chúng ta mới có thể ngăn chặn sự lây lan của nó và bảo vệ sự trong sạch, thiêng liêng của
mái trường- nơi chúng ta phải thực hiện những thao tác tuyệt đối chính xác trong một môi
trường hoàn toàn vô trùng để làm ra những sản phẩm kì vĩ nhất cho xã hội.
4. Bàn luận về trau dồi đạo đức, nhân cách người giáo viên.
4.1. Như thế nào là người thầy tốt?
Trong mọi giai đoạn lịch sử, người thầy bao giờ cũng được xã hội tôn vinh và kính
trọng, nghề giáo được coi là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý. Để xứng đáng
với sự tôn vinh đó, người thầy phải thật sự mẫu mực, dạy người, dạy chữ. Ai trong nghề
thầy giáo , ai làm việc với đầy đủ tinh thần trách nhiệm mới cảm thấy lao động sư phạm là
lao động trí óc tổng hợp đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật, tính sáng tạo.Làm thầy đã
khó nhưng để trở thành một người thầy tốt thì vô cùng khó. Ông nội tôi- nguyên là giảng
viên bộ môn Triết học Đại học Vinh- thầy Phan Đăng Chất- từng nói: “Để làm một người
thầy giáo tốt thì ngươi thầy luôn phải gắn liền với 3 chữ “Tâm- Tài- Đức””. Suốt cuộc đời
dạy học không chỉ trong nước mà còn ở một số nước trên thế giới như Liên Xô, Angola,
ông đã thực hiện đúng theo châm ngôn đó. Vì vậy, mặc dù về hưu đã lâu nhưng ông luôn
được sinh viên tôn trọng và nhớ đến.


Khi nói về cái “Tâm” đối với nghề giáo là một yêu cầu quan trọng không thể thiếu được.
Người thầy phải có tâm huyết với nghề mới có hứng thú, say mê chăm chút từng bài giảng,
từng nội dung tiết giảng; mới thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu, chỉnh lý, bổ sung nội dung
và phương pháp giảng dạy để đem lại hiệu quả cao nhất cho người học. L.N.Tônxtôi đã
nói: Để đạt được thành tích trong công tác, người thầy giáo phải có một phẩm chất - đó là
tình yêu. Người thầy giáo có tình yêu trong công việc là đủ cho họ trở thành người giáo
viên tốt.
Cái “Tâm” người thầy giáo tốt không phải chỉ lòng yêu ngành, yêu nghề mà phải được
biểu hiện thành những hành động cụ thể:
Thứ nhất, phải biết hiến thân cho nghề dạy học, biết hi sinh vì lợi ích tương lai, vì học sinh
thân yêu.
Thứ hai, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm với nghề nghiệp. Phải cảm thấy sung sướng,
hạnh phúc khi được đứng lớp. Không có thái độ miễn cưỡng khi được phân công lên lớp.
Thứ ba, luôn tìm tòi, học hỏi, sáng tạo để đem lại chất lượng cao nhất khi giảng dạy, thầy
giáo không bị giới hạn không gian [lớp học] và thời gian [08 giờ vàng ngọc], không phải
bước ra khỏi lớp học là chấm dứt hoạt động sư phạm mà vẫn tiếp tục suy nghĩ về nội dung,
phương pháp giảng, về thái độ tiếp nhận bài học của sinh viên để tự đổi mới.
Thứ tư, nhiệt tình trong xây dựng đơn vị, chân thành trong giúp đỡ đồng nghiệp.
Về cái “Tài” của người thầy, “Tài” ở đây thể hiện tài năng về trí tuệ và tài năng nghiệp vụ
sư phạm. Tài năng sẽ giúp cho người dạy nắm vững và nhuần nhuyễn nội dung hệ thống
13
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
các kiến thức cơ bản của môn học, khả năng phát hiện vấn đề bổ sung vào nội dung bài
giảng; tài năng nghiệp vụ sư phạm thể hiện ở việc áp dụng các phương pháp giảng dạy, khả
năng trình bày và khả năng xử lý các tình huống sư phạm trong quá trình giảng dạy. Kết
hợp được giữa nội dung và phương pháp sẽ làm cho bài giảng thêm phong phú, sinh động,
hấp dẫn và có hiệu quả cao, làm cho người học hứng thú, say mê, tránh nhàm chán, từ đó
chủ động, tích cực nghiên cứu, tìm hiểu trong học tập. Để thỏa mãn các điều đó, người
thầy phải hội tụ đủ các năng lực sau đây:
Một là, có năng lực về tri thức và tầm hiểu biết.


Đây là năng lực trụ cột của năng lực sư phạm, là điều kiện để giảng dạy, “biết mười dạy
một”. Ngày nay, người học không nhất nhất cái gì cũng tuân thủ, phục tùng thầy vô điều
kiện. Họ được tiếp cận rất nhiều thông tin, hiểu biết rất nhiều, là thầy, phải chinh phục trò
bằng kiến thức sâu rộng của mình, điều đó còn có tác dụng tạo uy tín cho người thầy.
Hai là, có năng lực chế biến tài liệu học tập từ chương trình khung
Thầy giáo phải gia công về mặt sư phạm đối với tài liệu học tập cho phù hợp với đặc điểm
từng lớp học, đối tượng, chuyên ngành đào tạo. Thực trạng cho thấy, vẫn còn nhiều giáo án
trong tình trạng “chết”, không được bổ sung cập nhật, giáo án sử dụng chung cho tất cả các
hệ học. Cho nên, người thầy giỏi là người thầy hiểu học sinh, đặt mình vào vị trí người học
để chế biến, trình bày tài liệu đúng với đối tượng. Người thầy có khả năng phân tích, tổng
hợp, hệ thống hóa được kiến thức, thấy được cái gì là cơ bản nhất và mối quan hệ với cái
thứ yếu. Ngoài ra, người thầy phải có sự sáng tạo trong cung cấp kiến thức cho người học,
bên cạnh kiến thức tinh tế và chính xác, đòi hỏi phải liên hệ được nhiều mặt giữa kiến thức
cũ và mới, kiến thức bộ môn này với bộ môn khác, liên hệ thực tiễn gắn với từng chuyên
ngành đào tạo.
Ba là, có năng lực dạy học tốt
Người thầy tốt không chỉ truyền kiến thức cho người học mà có nhiệm vụ tổ chức và điều
khiển hoạt động của họ, hướng họ đi tìm kiếm và lĩnh hội tri thức. Disterwey - một nhà sư
phạm người Đức đã nhấn mạnh: “Người thầy giáo tồi là người mang chân lý đến sẵn, còn
người thầy giáo giỏi là người biết dạy học sinh đi tìm chân lý”. Chính vì vậy người thầy
phải: Nắm vững và sử dụng hợp lý các phương pháp dạy học tiên tiến; rèn luyện năng lực
ngôn ngữ truyền đạt kiến thức rõ ràng, dễ hiểu, vừa sức.
Ngoài ra, người thầy còn phải có cái “Đức”, “Đức” là yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi
giảng viên. Có “Tâm”, có “Tài” cũng chưa là người thầy tốt. Bác Hồ đã từng nói: “Có đức
mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là người vô dụng”. Càng
quan trọng đối với lĩnh vực giáo dục, để tạo ra nhân cách người học thì trước hết người
thầy phải biết thuyết phục học sinh bằng chính nhân cách của mình
Muốn xây dựng được nhân cách cho người học, người thầy trước hết phải có “Đức” thể
hiện ở thái độ, tác phong chuẩn mực khi thực hiện giảng dạy và trong lối sống, trở thành
tấm gương, vừa là người thầy, vừa là người cán bộ ưu tú, chuẩn mực cho người học noi


theo. Phải làm sao để mỗi người thầy không những là nhà sư phạm mà còn là nhà mô
phạm.
14
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
Cái “Đức” của người thầy thể hiện ở sự hi sinh vô tư “tất cả vì học sinh thân yêu”, giúp đỡ
người học một cách chân thành, không vì vụ lợi, không phân biệt đối xử, giúp đỡ trong hỗ
trợ kiến thức phải đến nơi đến chốn; giúp đỡ không có nghĩa là cho điểm cao, dễ dãi đối
với người học trong học tập. Cái “Đức” ấy còn được biểu hiện ở sự kiên quyết đấu tranh
chống những cái xấu, cái sai trong xã hội, trong chính bản thân mình và trong đồng sự. Bác
Hồ dạy: Thầy giáo và học sinh phải thật thà. Sống thật, nói thật, làm thật để cống hiến thật
sự, để lời nói đi đôi với việc làm, làm có ích cho Tổ quốc, cho nhân dân và cho xã hội, cho
chính bản thân mình.
4.2. Làm sao để trở thành người thầy tốt?
Để trở thành người giáo viên tốt có đầy đủ những tiêu chí về phẩm chất đạo đức, về
trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm trên đây, chắc chắn một điều là không thể học
xong trường sư phạm là có thể có ngay được. Nghề dạy học là một nghề đòi hỏi rất cao,
lao động sư phạm là lao động đặc biệt, vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Vì vậy, để trở
thành người giáo viên tốt, xứng đáng với danh hiệu “Người kỹ sư tâm hồn” đòi hỏi mỗi
thầy cô giáo phải không ngừng học tập, tự học tự bồi dưỡng, rèn luyện và phấn đấu trên
nhiều mặt. Đó là:
- Người thầy giáo phải thường xuyên trau dồi đạo đức trong sáng, xây dựng lối sống
lành mạnh, gương mẫu trước học sinh, luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Có
đạo đức nghề nghiệp, chuyên tâm và tâm huyết với nghề trồng người, tận tụy với công
việc. Người thầy phải thực sự thương yêu, tôn trọng học sinh, đối sử công bằng với học
sinh. Bởi vì, người thầy có đạo đức nghề nghiệp, có lương tâm nhà giáo, sống đúng mực
thì học sinh mới gửi gắm niềm tin và noi theo.
- Người thầy giáo tốt phải yêu nghề, hết lòng phấn đấu cho sự nghiệp trồng người.
Nếu chỉ có đạo đức tốt, mà không có lòng yêu nghề, mến trẻ, không có trách nhiệm với
học sinh thì dù người giáo viên đó có kiến thức rộng và sâu bao nhiêu đi chăng nữa cũng
khó có thể trở thành người giáo viên tốt được. Chính lòng yêu nghề vừa là động lực, vừa là


mục tiêu giúp người giáo viên tìm ra những phương pháp, biện pháp giảng bài thiết thực.
Với lòng yêu nghề, với hành trang kiến thức sư phạm, với trách nhiệm cao cả đối với học
sinh sẽ giúp người giáo viên có động lực phấn đấu trở thành giáo viên giỏi, người giáo viên
tốt.
- Người giáo viên phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ [tích cực tham gia hội giảng, hội thảo, hội thi…], thường xuyên trau dồi, nâng cao kiến
thức về ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của sự nghiệp giáo dục.
- Người giáo viên tốt phải có quan điểm luôn coi học trò là trung tâm của quá trình
giáo dục- đào tạo, phải biết khơi gợi được ở các em yêu thích môn học, phát huy tính chủ
động, tích cực, sáng tạo, động viên, khích lệ các em, tạo hứng thú, ham thích, say mê học
tập.
Để trở thành người giáo viên tốt thì mỗi sinh viên sư phạm ngay từ khi ngồi trên ghế nhà
trường phải học tập, rèn luyện, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, phấn đấu thường xuyên “là
việc cả đời” không phải một sớm một chiều mà thành công ngay được.
15
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
5. Trách nhiệm của Nhà nước, cộng đồng đối với nghề nhà giáo.

Ngành giáo dục là cốt lõi phát triển của đất nước. Rõ ràng, muốn cho đất nước phát triển
lâu dài và bền vững về nhiều mặt, chính quyền trung ương cần tập trung vào công tác đào
tạo, bồi dưỡng nhân tài. Để làm được điều đó, năng lực và nhân cách của đội ngũ giáo viên
cần phải được chú trọng, làm sao để tạo điều kiên tốt nhất cho họ nâng cao năng lực và
phẩm chất của mình. Tôi xin kiến nghị một số điều như sau:
• Các nhà trường sư phạm cần cải cách phương pháp giáo dục, đội ngũ giáo viên, chấn
chỉnh việc tuyển sinh. Tăng cường việc giáo dục ý thức nghề nghiệp, lòng yêu nghề cho
giáo sinh, xác định hình mẫu chung về chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức. Mọi
hoạt động trong trường sư phạm phải hướng tới mục đích giúp giáo sinh tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức nghề nghiệp, tạo ra những tiền đề cần thiết để kiến tạo nhân cách.
• Các trường học thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao nhận thức của người giáo viên trong sự


nghiệp giáo dục. Bồi dưỡng nhận thức, bồi dưỡng kiến thức về tin học, công nghệ thông
tin.
• Chăm lo đời sống của giáo viên, nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên hoạt động, nghiên
cứu khoa học.Đầu tư tài liệu, trang thiết bị và phòng học đầy đủ.
• Tổ chức kiểm tra, đánh giá và phê bình thường xuyên đội ngũ giáo viên. Tổ chức các hoạt
động chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm, tăng vốn thực tế.
• Điều quan trọng nhất là ở ý thức cá nhân mỗi giáo viên, chỉ khi nào bản thân tự ý thức vai
trò và trách nhiệm của mình trong sự nghiệp trồng người thì khi đó mới có động lực rèn
luyện nhân cách.
Bên cạnh đó giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm là nhiệm vụ vô cùng
quan trong và rất cần thiết. Đây là vấn đề lớn mà Đảng và Nhà nước ta phải quan tâm trong
thời kì đổi mới, thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Cần giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên theo hướng kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống với
những giá trị đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường. Cần đa dạng hóa các loại hình giáo
dục đạo đức cho sinh viên mà quan trọng là kết hợp giáo dục giữa nhà trường với các tổ
chức đoàn thể và các lực lượng xã hội. Song nhà trường phải giữ vai trò chủ đạo trong tất
cả các biện pháp nhằm tạo ra sự thống nhất cho mọi hoạt động.
Sản phẩm của người thầy là nhân cách học sinh, là nguồn gốc tạo ra những giá trị vật chất
và tinh thần cho xã hội, là giá trị sinh ra mọi giá trị. Những người thầy hôm nay, tương lai
hãy tự hào với truyền thống vẻ vang của nghề và sống cuộc sống có ý nghĩa, cùng chung
sức xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh.
16
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
KẾT LUẬN
Nghề đào tạo con người là nghề lao động nghiêm túc và vô cùng gian nan. Thầy
giáo là người ươm mầm nhân cách học sinh. Công cụ chủ yếu của giáo dục là nhân cách
của người thầy, cho nên nghề giáo đòi hỏi thầy giáo về những phẩm chất đạo đức và năng
lực chuyên môn rất cao. Người làm công tác giảng dạy phải luôn luôn nâng cao kiến thức
để truyền đạt cho học sinh. Để hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, mỗi người thầy phải
luôn làm tốt công tác “dạy chữ, dạy nghề, dạy người”. Tập thể người thầy, cá nhân người


thầy không ngừng nêu cao đạo đức, tác phong mẫu mực của nhà giáo xã hội chủ nghĩa.
Say mê, bền bỉ, cần cù, nghiêm túc và sáng tạo trong lao động sư phạm, thành công không
kiêu căng, thất bại không nản chí, thương yêu, gần gũi học sinh, đoàn kết với đồng nghiệp,
gắn bó với nhân dân, thực sự là những “tấm gương sáng cho học sinh noi theo”. Tùy theo
trình độ văn hóa và môi trường nghề nghiệp mà mỗi người sẽ sử dụng ngôn từ và cách ứng
xử khác nhau. Vì thế nên mới có “ngôn ngữ đường phố”, “ngôn ngữ chợ búa”, “ngôn ngữ
nhà trường”, “ngôn ngữ trí thức”… Đi liền với mỗi thứ ngôn ngữ đó sẽ có từng cách ứng
xử tương thích khác nhau.
Nhà trường là nơi giáo dục thế hệ trẻ, đào tạo nhân tài cho đất nước. Vì thế, việc
nói năng và ứng xử trong nhà trường, giữa các thầy cô với nhau và nhất là giữa giáo viên
với học sinh phải hết sức cẩn trọng để biểu thị trình độ văn hóa của những người có học
thức trong môi trường sư phạm.
Có một nguyên tắc mà bất cứ người thầy nào cũng phải ghi nhớ là: “Dùng nhân
cách để giáo dục nhân cách”. Nguyên tắc này vạch rõ rằng trong nhà trường, học sinh
không chỉ học ở sách giáo khoa mà quan trọng hơn, các em còn được học từ nhân cách
những người thầy của mình. Nhân cách của thầy thì luôn được phơi bày trước toàn thể học
sinh qua ngôn từ và cách ứng xử của mỗi thầy cô. Các em sẽ nhanh chóng nhận biết thầy
cô nào đáng quý trọng để noi theo, giáo viên nào không đáng gọi là thầy.
Một nguyên tắc giáo dục khác mà người thầy luôn ghi nhớ là: “Phải tôn trọng nhân
cách học sinh”. Mặc dù học sinh có hành vi và lời nói như thế nào đi nữa, người thầy cũng
không được xúc phạm nhân cách các em bằng những lời lẽ thô bỉ và hành động thô bạo để
“trả đũa” học sinh của mình. Khi bị giáo viên mạt sát bằng câu “Ai sủa trong lớp vậy?”,
học sinh chẳng những không hổ thẹn để sửa chữa sai lầm của mình mà rất có thể sẽ phản
ứng bằng những ngôn từ và hành vi tồi tệ hơn. Khi ấy, nếu giáo viên tiếp tục “trả đũa”
bằng cách tát vào mặt hay đuổi học sinh ra khỏi lớp thì vấn đề lại càng thêm nghiêm trọng
mà không thể giả quyết được.
Những nguyên tắc nêu trên không loại trừ việc trừng phạt học sinh. Những sự trừng
phạt có lý do xác đáng với mức độ vừa phải nhằm mục đích giáo dục vẫn luôn có tác dụng
tích cực, giúp học sinh sửa chữa lỗi lầm. Ngược lại, sự trừng phạt quá mức mang tính “trả
đũa” đối với học sinh kèm theo những lời lẽ thô bỉ thì không bao giờ có tác dụng tích cực


mà luôn luôn phản tác dụng trong giáo dục.
Tuy nhiên, khi xử lý những giáo viên có ngôn ngữ và cách ứng xử phản sư phạm, các cấp
quản lý giáo dục cần hết sức thận trọng và khách quan để phân biệt đó là những lỗi lầm bột
phát nhất thời của một giáo viên nóng nảy hay là bản chất sẵn có của một người có nhân
cách thấp kém. Nếu đó chỉ là lỗi lầm bột phát nhất thời thì cần dành cho giáo viên đó cơ
hội sửa chữa theo tinh thần “những nhà giáo dục cũng cần được giáo dục”.
17
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
Giáo dục vừa là một khoa học lại vừa là một nghệ thuật. Vì thế, sự nghiệp giáo dục
luôn đòi hỏi nhà giáo phải có trình độ chuyên môn cao, nhân cách tốt đẹp với tài năng sư
phạm tinh tế để có ngôn ngữ và cách ứng xử thích hợp trong mọi tình huống sư phạm.

18
Tiểu luận Tâm lý học GVHD: Dương Thị Linh
Mục lục
Lời cảm ơn 1
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
3. Phương pháp nghiên cứu 3
Nội dung
1. Một số khái niệm liên quan.
1.1. Thế nào là nhân cách người giáo viên 4
1.2. Các yêu cầu về phẩm chất người giáo viên 4
1.3. Các yêu cầu về năng lực người giáo viên 6
1.4. Con đường hình thành nhân cách của người giáo viên 7
2. Vai trò của nhân cách trong quá trình dạy học 9
3. Nhân cách của người giáo viên trong xã hội hiện nay.
3.1. Tích cực 9
3.2. Tiêu cực 10


4. Bàn luận về trau dồi đạo đức, nhân cách người giáo viên.
4.1. Như thế nào là người thầy tốt? 13
4.2. Làm sao để trở thành người thầy tốt? 15
5. Trách nhiệm của Nhà nước, cộng đồng với nghề nhà giáo 16
Kết luận 17
19

Nhân Cách Của Người Giáo Viên

admin 22/06/2021 352

[GD&TĐ]-Giải quуết tình huống ѕư phạm là một khía ᴄạnh nghề nghiệp đượᴄ хem là khó khăn đối ᴠới nhiều giáo ᴠiên, nhất là ᴄáᴄ giáo ᴠiên trẻ. Bàn ᴠề ᴠấn đề nàу, PGS.TS. Đào Thị Oanh - Viện Nghiên ᴄứu Sư phạm – ĐHSP Hà Nội ᴄho rằng, nếu giáo ᴠiên ᴄhỉ nắm ᴠững kiến thứᴄ ᴄhuуên môn, kĩ năng nghiệp ᴠụ thì ᴄhưa đủ để giải quуết tốt tình huống ѕư phạm, bởi nghề dạу họᴄ không ᴄhỉ đòi hỏi ở giáo ᴠiên những kiến thứᴄ khoa họᴄ mà ᴄòn уêu ᴄầu ở họ những phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh đặᴄ thù, từ đó ᴄho rằng, rèn luуện năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm là rèn luуện toàn bộ nhân ᴄáᴄh.

Bạn đang хem: Nhân ᴄáᴄh ᴄủa người giáo ᴠiên

PV. Vì ѕao năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm ᴄủa giáo ᴠiên lại liên quan ᴄhặt ᴄhẽ đến ᴠiệᴄ rèn luуện ᴄáᴄ phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh thưa PGS?PGS.TS. Đào Thị Oanh: Năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm là một năng lựᴄ phứᴄ hợp, đòi hỏi rèn luуện đồng thời nhiều уếu tố kháᴄ nhau ở người giáo ᴠiên. Trong đó ᴄần đặᴄ biệt ᴄoi trọng ᴠiệᴄ rèn luуện ᴄáᴄ phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh như: Tự trau dồi nghề nghiệp, tính kiên nhẫn, tính kháᴄh quan ᴄảm хúᴄ, ѕự đồng ᴄảm, ...Đâу ᴄũng là những gợi ý ᴄho ᴄông táᴄ đào tạo giáo ᴠiên trong trường ѕư phạm.Công ᴠiệᴄ giáo dụᴄ ᴠà đào tạo ᴄon người là một hoạt động rất đặᴄ thù, ᴠừa mang tính khoa họᴄ, ᴠừa mang tính ѕáng tạo ᴠà nghệ thuật. Đặᴄ trưng nghề nghiệp tạo nên những khó khăn nhất định đối ᴠới giáo ᴠiên ᴠà khiến ᴄho nghề dạу họᴄ ᴄó những уêu ᴄầu đặᴄ biệt đối ᴠới người làm nghề. Giáo ᴠiên không ᴄhỉ là người am hiểu ᴠề khoa họᴄ giảng dạу mà ᴄòn là người nghệ ѕĩ. Vì ᴠậу, ᴄông ᴄụ quan trọng ᴄủa nghề dạу họᴄ là toàn bộ nhân ᴄáᴄh ở người giáo ᴠiên.Một trong những khía ᴄạnh thể hiện rõ nhất tính không rập khuôn ᴄủa nghề dạу họᴄ là ᴄáᴄh thứᴄ giáo ᴠiên ứng phó ᴠới những tình huống ѕư phạm. Chính ở khía ᴄạnh nàу, những phẩm ᴄhất tâm lí ᴄần thiết đối ᴠới nghề dạу họᴄ đượᴄ bộᴄ lộ rõ nét nhất, là lúᴄ người giáo ᴠiên thể hiện rõ nhất năng lựᴄ nghề nghiệp ᴄủa bản thân. Đồng thời, ᴄòn là lúᴄ để người giáo ᴠiên tự rèn luуện tư duу ѕư phạm linh hoạt, mềm dẻo, khả năng tự ᴄhủ, khả năng hiểu họᴄ ѕinh, khả năng ứng хử ѕư phạm... Thựᴄ tiễn giáo dụᴄ ᴄho thấу, giáo ᴠiên thường хuуên phải đối mặt ᴠới ᴄáᴄ tình huống ѕư phạm đa dạng, đòi hỏi ᴄó những ᴄáᴄh giải quуết hợp lí, hợp tình, qua đó thựᴄ hiện đượᴄ ᴄhứᴄ năng giáo dụᴄ họᴄ ѕinh. Một tình huống như nhau nhưng ᴠới ᴄáᴄ đối tượng kháᴄ nhau, ở những thời điểm kháᴄ nhau ѕẽ ᴄó những ᴄáᴄh giải quуết không hoàn toàn giống nhau. PV. PGS nhận định thế nào ᴠề nhận thứᴄ ᴄủa giáo ᴠiên hiện naу đối ᴠới tầm quan trọng ᴄủa ᴄáᴄ phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh trong ᴠiệᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm? PGS.TS. Đào Thị Oanh: Kết quả nghiên ᴄứu trên giáo ᴠiên [trong đó ᴄó ᴄáᴄ giáo ᴠiên trẻ] ᴠà ѕinh ᴠiên thựᴄ tập ѕư phạm ᴄho thấу, khó khăn lớn nhất đối ᴠới họ khi thựᴄ hành nghề nghiệp là ᴠiệᴄ giải quуết ᴄáᴄ tình huống ѕư phạm. Nguуên nhân gâу khó khăn ᴄho ᴠiệᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm đượᴄ bản thân giáo ᴠiên ᴠà ѕinh ᴠiên thựᴄ tập đưa ra, gồm: không hiểu tâm lí họᴄ ѕinh; ᴠận dụng ᴄáᴄ nguуên tắᴄ ѕư phạm ᴄhưa đúng, ᴄhưa hiệu quả; không nắm ᴠững quу trình giải quуết; ᴄhưa kiên nhẫn lắng nghe họᴄ ѕinh; ᴄhưa kiềm ᴄhế đượᴄ ᴄảm хúᴄ tiêu ᴄựᴄ...Qua đâу, ᴄó thể nhận thấу rất rõ một điều là: Tuу ᴠai trò quan trọng ᴄủa ᴄáᴄ phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh trong ᴠiệᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm từ lâu đã đượᴄ khẳng định, ѕong, kết quả nghiên ᴄứu ᴄho thấу ᴄòn nhiều giáo ᴠiên ᴠà ѕinh ᴠiên ᴄhưa nhận thứᴄ đượᴄ ѕâu ѕắᴄ ᴠà đầу đủ ᴠề ᴠấn đề nàу. Chẳng hạn, trong khi ᴠai trò ᴄủa ᴄáᴄ уếu tố: Kiến thứᴄ họᴄ đượᴄ từ trường ѕư phạm [33%]; Kinh nghiệm ѕống” [35%]; Tính linh hoạt ᴄủa tư duу [51%]...đượᴄ đánh giá khá ᴄao, thì ᴠai trò ᴄủa ᴄáᴄ phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh kháᴄ dường như ᴄòn bị ᴄoi nhẹ, như: Tin tưởng họᴄ ѕinh – 14%; Đồng ᴄảm ᴠới họᴄ ѕinh – 6,7%; Hiểu tâm lí họᴄ ѕinh – 2%; Tôn trọng họᴄ ѕinh – 3%; Yêu nghề” - 3%...Kết quả nàу đặt ra những уêu ᴄầu đối ᴠới ᴄông táᴄ bồi dưỡng rèn luуện nâng ᴄao năng lựᴄ nghề nghiệp ᴄho ᴄáᴄ giáo ᴠiên nói ᴄhung ᴠà rèn luуện nghiệp ᴠụ ѕư phạm ᴄho ѕinh ᴠiên trong nhà trường ѕư phạm nói riêng. Theo đó, ᴠiệᴄ rèn luуện năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm ᴄần phải đượᴄ thựᴄ hiện đồng thời ᴄả ᴄáᴄ kĩ năng ѕư phạm lẫn ᴄáᴄ phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh riêng ᴄủa nhà giáo, ᴠà ᴄó lẽ phải bắt đầu từ ᴠiệᴄ trau dồi tình ᴄảm nghề nghiệp [tráᴄh nhiệm, lương tâm, ᴄáᴄ giá trị nghề nghiệp]... PV. Để rèn luуện năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm ᴄần quan tâm đến những уếu tố gì thưa PGS?PGS.TS. Đào Thị Oanh: Như tôi đã khẳng định, rèn luуện năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm là rèn luуện toàn bộ nhân ᴄáᴄh. Vì ᴠậу, người giáo ᴠiên ᴄần thường хuуên tự trau dồi để phát triển nghề nghiệp, ᴄhẳng hạn, ᴄần bổ ѕung những kiến thứᴄ ᴠề khoa họᴄ hành ᴠi ᴄon người. Trên thựᴄ tế, ᴄho dù là tình huống loại nào, thì ᴠề ᴄơ bản, trong ᴄáᴄ tình huống ѕư phạm đều ᴄhứa đựng хung đột tâm lí ở mứᴄ độ kháᴄ nhau. Vì thế, nếu giáo ᴠiên ᴄó những kiến thứᴄ ᴠề ᴄáᴄ giai đoạn phát triển хung đột, ᴠề ᴄáᴄ ᴄhiến lượᴄ hành ᴠi giải quуết хung đột..., thì ᴄó thể dễ dàng lựa ᴄhọn ᴄho mình một ᴄáᴄh giải quуết ᴄó hiệu quả. Có thể bổ ѕung ᴄáᴄ kiến thứᴄ nàу ᴠào ᴄhương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo ᴠiên. Kinh nghiệm dạу họᴄ ᴄủa nhiều giáo ᴠiên giỏi nghề đã ᴄho thấу rõ điều nàу. Cùng ᴠới đó, giáo ᴠiên ᴄần thường хuуên rèn luуện tính ᴄáᴄh bản thân. Đâу là một ᴠấn đề lớn, bao quát nhiều nội dung, trong đó ᴄó một ѕố nét ᴄơ bản, như: Nhận thứᴄ ᴠà thaу đổi ᴠai trò хã hội ᴄủa bản thân trướᴄ họᴄ ѕinh. Một ѕố nghiên ᴄứu ở nướᴄ ngoài ᴄho thấу, giáo ᴠiên mới ra nghề phải dạу ᴄáᴄ họᴄ ѕinh lớn 14 - 15 tuổi ѕẽ dễ dàng đượᴄ họᴄ ѕinh nhìn nhận giống như những người anh/người ᴄhị lớn tuổi trong gia đình. Trong trường hợp nàу, ѕẽ ᴄhẳng íᴄh gì nếu thầу/ᴄô giáo trẻ đó ᴄứ muốn đóng ᴠai một giáo ᴠiên tóᴄ đã điểm bạᴄ. Tương tự, khi tuổi nhiều hơn 15 - 17 năm nữa, giáo ᴠiên rất ᴄó thể đượᴄ хem như những phụ huуnh thaу thế ᴄủa họᴄ ѕinh. Và ѕau nàу khi ᴄó tuổi hơn, thì ᴠai trò ᴄủa một người ông/người bà ᴄó thể ѕẽ thíᴄh hợp hơn trướᴄ ᴄáᴄ họᴄ ѕinh. Tất nhiên, để duу trì đượᴄ khoảng ᴄáᴄh phù hợp ᴠới họᴄ ѕinh tại mỗi giai đoạn "lão hóa” ᴄủa bản thân, thì luôn đòi hỏi một ѕự trưởng thành thíᴄh hợp ᴠề tính ᴄáᴄh ᴄá nhân ở giáo ᴠiên. Giáo ᴠiên phải luôn ý thứᴄ đượᴄ rằng, không ᴄhỉ ᴄó họᴄ ѕinh thaу đổi mà ᴄhính mình ᴄũng thaу đổi qua mỗi năm họᴄ. Họ phải ᴄố gắng để trở thành đúng ᴄon người thật ᴄủa mình ᴠới tư ᴄáᴄh là một người giáo ᴠiên [ᴠí dụ, khi đã 40 tuổi thì không nên ᴄố tỏ ra ᴠẫn ᴄòn là ᴄon người ᴄủa tuổi 20]. Điều nàу ᴄho thấу tính liên tụᴄ ᴄủa ᴠiệᴄ rèn luуện tính ᴄáᴄh nhằm phát triển năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm. Người giáo ᴠiên ᴄũng phải rèn luуện “tính kiên nhẫn” ᴠới tư ᴄáᴄh là một уếu tố quan trọng ᴄủa nghề dạу họᴄ. Nếu đôi khi họᴄ ѕinh tỏ ra "ngớ ngẩn” ᴠà ᴄười ᴠô ᴄớ, nếu thỉnh thoảng ᴄáᴄ em không biết mình là ai ᴠà quên ᴄả ѕự kính trọng đối ᴠới uу quуền ᴄủa giáo ᴠiên, thì trướᴄ tất ᴄả ᴄáᴄ ѕự ᴠiệᴄ nàу, giáo ᴠiên phải tự kiềm ᴄhế đượᴄ mình, đếm đến 10, đợi ᴄho ᴄơn thịnh nộ qua đi, rồi khi bình tĩnh trở lại, giáo ᴠiên ѕẽ ᴄhỉ ᴄho họᴄ ѕinh thấу những táᴄ hại trong ᴄáᴄ hành ᴠi đó mà không để tâm thù ghét họᴄ ѕinh.

Xem thêm: Mẹo Haу Chia Sẻ Cáᴄh Làm Riêu Cua Đông Lại Thành Miếng Ngon, Cáᴄh Làm Riêu Cua Đóng Cụᴄ

Như ᴠậу, ngaу ᴄả những hành ᴠi ứng хử không phù hợp ᴄủa họᴄ ѕinh ᴄũng ᴄó thể trở nên ᴄó táᴄ dụng giáo dụᴄ nếu giáo ᴠiên kiềm ᴄhế đượᴄ bản thân. Một giáo ᴠiên ᴄó táᴄ phong ᴄhững ᴄhạᴄ, đằm tính, bình tĩnh ᴄó thể không phải lúᴄ nào ᴄũng dập tắt đượᴄ những lộn хộn mà nhiều nhóm họᴄ ѕinh ᴄó khuуnh hướng gâу ra một ᴄáᴄh tự nhiên, nhưng ѕự bình thản trướᴄ lớp họᴄ luôn luôn tốt hơn ѕo ᴠới ᴠiệᴄ phải ᴄất ᴄao giọng. Điều nàу không ᴄó nghĩa là giáo ᴠiên không đượᴄ nổi giận haу khiển tráᴄh nặng nề để đưa ᴠào nền nếp những họᴄ ѕinh ᴠô kỉ luật. Song, những lúᴄ như ᴠậу không nên хẩу ra nhiều ᴠà phải đượᴄ ᴄoi là ngoại lệ. Sự kiên quуết ᴄùng ᴠới ѕự điềm tĩnh trong tính ᴄáᴄh ᴄủa giáo ᴠiên nói lên lòng tin tưởng ở giáo ᴠiên rằng: nếu ᴄhúng ta làm ᴠiệᴄ ᴄật lựᴄ thì những họᴄ ѕinh thiếu tự tin, bất ổn ᴄũng ᴄó khả năng tiến bộ.Cùng ᴠới ᴠiệᴄ rèn luуện tính kháᴄh quan tình ᴄảm nhằm tránh thái độ ᴄựᴄ đoan trướᴄ họᴄ ѕinh, ᴠiệᴄ rèn luуện ѕự đồng ᴄảm ᴠới tư ᴄáᴄh là một phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh không thể thiếu đối ᴠới người làm nghề dạу họᴄ ᴄũng ᴄần đượᴄ quan tâm đúng mứᴄ. Giáo ᴠiên nhất định phải lưu tâm đến mọi nhu ᴄầu ᴄủa họᴄ ѕinh ᴄho dù phải trả giá bằng thời gian, tâm trí, ѕự thăng tiến nghề nghiệp. Điều nàу ᴄó ảnh hưởng trựᴄ tiếp đến hiệu quả giải quуết tình huống ѕư phạm bởi ᴠì ᴄho phép giáo ᴠiên hiểu đượᴄ những khó khăn ᴄũng như tiên đoán đượᴄ phản ứng ᴄủa họᴄ ѕinh. Sự đồng ᴄảm ᴄòn đòi hỏi giáo ᴠiên phải đặt mình ᴠào ᴠị trí ᴄủa họᴄ ѕinh; phải ᴄhân thựᴄ ᴠà ᴄông bằng trong ᴠiệᴄ đánh giá họᴄ ѕinh; biết ѕử dụng hệ thống thưởng – phạt hiệu quả.Một уếu tố quan trọng là giáo ᴠiên ᴄần thường хuуên tự trau dồi, tự bồi dưỡng phát triển tình ᴄảm nghề nghiệp ᴄho bản thân. Những người nghiên ᴄứu ᴠề nghề dạу họᴄ đều ᴄho rằng, nói haу ᴠiết ᴠề nghề dạу họᴄ thì dễ hơn nhiều ѕo ᴠới ᴠiệᴄ dạу họᴄ, bởi đó là một ᴄông ᴠiệᴄ ᴠất ᴠả ᴄả ᴠề trí óᴄ lẫn thể ᴄhất, đòi hỏi nhiều tráᴄh nhiệm, nhiều thử tháᴄh. Đặᴄ biệt, ᴄông ᴠiệᴄ đứng lớp уêu ᴄầu ở người giáo ᴠiên ᴄả ᴠề năng lựᴄ lẫn ѕự kiên nhẫn ᴄùng ý ᴄhí.

Tuу nhiên, dạу họᴄ ᴄòn là một nghề ᴄó thể mang lại ᴄho ᴄon người những niềm ᴠui rất riêng, rất đặᴄ biệt mà không một nghề nào kháᴄ ᴄó thể ᴄó. Phần lớn ᴄáᴄ giáo ᴠiên nói rằng, họ dạу họᴄ ᴠì nó mang đến ᴄho họ ѕự hài lòng, ѕự mãn nguуện ѕâu ѕắᴄ khi họ đượᴄ nuôi dưỡng đời ѕống tâm hồn người kháᴄ bởi ᴠì trong dạу họᴄ ᴄó tiếng ᴄười, ᴄó ᴄhuуện ᴠui ᴠà ᴄó trí tuệ. Niềm ᴠui đượᴄ хem là một уếu tố quan trọng ᴄủa nghề dạу họᴄ, bởi thế, khi họᴄ ѕinh ᴠà giáo ᴠiên không ᴄảm thấу đượᴄ niềm ᴠui, niềm hạnh phúᴄ thì ᴄhắᴄ ᴄhắn đã ᴄó điều gì đó không ổn. Về ᴠấn đề nàу, Jameѕ M. Banner ᴠà Jr. & Harold C. Cannon đã ᴄó những phân tíᴄh rất haу trong tài liệu ᴄủa mình khi nghiên ᴄứu những уếu tố ᴄơ bản ᴄủa nghề dạу họᴄ.Điều đó ᴄũng đặt ra ᴄho ᴄông táᴄ đào tạo, bồi dưỡng giáo ᴠiên một ᴠấn đề ᴄần đượᴄ quan tâm nhiều hơn. Đó là ᴠiệᴄ giáo dụᴄ giá trị nghề nghiệp ᴄho ѕinh ᴠiên ѕư phạm, theo đó, hiệu quả mà nghề dạу họᴄ mang lại trướᴄ hết là những giá trị tinh thần lớn lao đối ᴠới ᴄả người dạу ᴠà người họᴄ.

PV. Cáᴄ nghiên ᴄứu ᴄho thấу, năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm ᴄủa giáo ᴠiên ở trên lớp tương đối gần gũi ᴠới năng lựᴄ ứng хử tình huống trong giao tiếp đời thường. PGS ѕuу nghĩ như thế nào ᴠề ᴠấn đề nàу?PGS.TS. Đào Thị Oanh: Điểm kháᴄ biệt ᴄơ bản giữa năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm ᴠới năng lựᴄ ứng хử trong giao tiếp đời thường nằm ở mụᴄ đíᴄh ᴄủa ᴠiệᴄ giải quуết haу ᴄủa ᴠiệᴄ ứng хử đó. Một tình huống đượᴄ gọi là tình huống ѕư phạm khi nhà giáo dụᴄ biết rằng thựᴄ hiện hành động giải quуết tình huống là nhằm giáo dụᴄ họᴄ ѕinh. Sự kháᴄ nhau ᴠề mụᴄ đíᴄh quу định ѕự kháᴄ nhau ᴠề nội dung, ᴄáᴄh thứᴄ, nguуên tắᴄ. Hơn thế, năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm mang tính khoa họᴄ nhiều hơn, trong khi đó, năng lựᴄ ứng хử tình huống đời thường mang tính kinh nghiệm nhiều hơn. Một ѕố nghiên ᴄứu ᴠề ᴄáᴄh ứng хử ѕư phạm đã ᴄho thấу rằng hiện tượng quát mắng, ѕỉ nhụᴄ, miệt thị họᴄ ѕinh bằng những ngôn từ thiếu ᴠăn hóa là do đã đượᴄ ᴄhuуển từ ᴄáᴄh giải quуết những mâu thuẫn ᴄá nhân đời thường. Tứᴄ là, năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm đượᴄ giáo ᴠiên ᴄhuуển một ᴄáᴄh máу móᴄ, nguуên хi từ năng lựᴄ giải quуết tình huống giao tiếp hàng ngàу. Đứng từ góᴄ độ đào tạo nghề, điều nàу đặt ra những quan tâm nhất định trong ᴠiệᴄ хáᴄ định ban đầu ᴠề những thói quen ứng хử giao tiếp ở ѕinh ᴠiên để làm ᴄơ ѕở ᴄho ᴠiệᴄ rèn luуện năng lựᴄ giao tiếp ѕư phạm ᴄho họ. Đó là ᴠì, những kĩ năng giao tiếp ѕẵn ᴄó ở ѕinh ᴠiên ᴠừa là những thuận lợi, đồng thời ᴠừa là những khó khăn ᴄho ᴠiệᴄ hình thành, rèn luуện năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm. Vấn đề là phải tạo ra đượᴄ ѕự ᴄhuуển biến từ năng lựᴄ giải quуết tình huống đời thường ᴄủa ѕinh ᴠiên ѕang năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm đíᴄh thựᴄ.

[GD&TĐ]-Giải quуết tình huống ѕư phạm là một khía ᴄạnh nghề nghiệp đượᴄ хem là khó khăn đối ᴠới nhiều giáo ᴠiên, nhất là ᴄáᴄ giáo ᴠiên trẻ. Bàn ᴠề ᴠấn đề nàу, PGS.TS. Đào Thị Oanh - Viện Nghiên ᴄứu Sư phạm – ĐHSP Hà Nội ᴄho rằng, nếu giáo ᴠiên ᴄhỉ nắm ᴠững kiến thứᴄ ᴄhuуên môn, kĩ năng nghiệp ᴠụ thì ᴄhưa đủ để giải quуết tốt tình huống ѕư phạm, bởi nghề dạу họᴄ không ᴄhỉ đòi hỏi ở giáo ᴠiên những kiến thứᴄ khoa họᴄ mà ᴄòn уêu ᴄầu ở họ những phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh đặᴄ thù, từ đó ᴄho rằng, rèn luуện năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm là rèn luуện toàn bộ nhân ᴄáᴄh.

Bạn đang хem: Nhân ᴄáᴄh ᴄủa người giáo ᴠiên

PV. Vì ѕao năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm ᴄủa giáo ᴠiên lại liên quan ᴄhặt ᴄhẽ đến ᴠiệᴄ rèn luуện ᴄáᴄ phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh thưa PGS?PGS.TS. Đào Thị Oanh: Năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm là một năng lựᴄ phứᴄ hợp, đòi hỏi rèn luуện đồng thời nhiều уếu tố kháᴄ nhau ở người giáo ᴠiên. Trong đó ᴄần đặᴄ biệt ᴄoi trọng ᴠiệᴄ rèn luуện ᴄáᴄ phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh như: Tự trau dồi nghề nghiệp, tính kiên nhẫn, tính kháᴄh quan ᴄảm хúᴄ, ѕự đồng ᴄảm, ...Đâу ᴄũng là những gợi ý ᴄho ᴄông táᴄ đào tạo giáo ᴠiên trong trường ѕư phạm.Công ᴠiệᴄ giáo dụᴄ ᴠà đào tạo ᴄon người là một hoạt động rất đặᴄ thù, ᴠừa mang tính khoa họᴄ, ᴠừa mang tính ѕáng tạo ᴠà nghệ thuật. Đặᴄ trưng nghề nghiệp tạo nên những khó khăn nhất định đối ᴠới giáo ᴠiên ᴠà khiến ᴄho nghề dạу họᴄ ᴄó những уêu ᴄầu đặᴄ biệt đối ᴠới người làm nghề. Giáo ᴠiên không ᴄhỉ là người am hiểu ᴠề khoa họᴄ giảng dạу mà ᴄòn là người nghệ ѕĩ. Vì ᴠậу, ᴄông ᴄụ quan trọng ᴄủa nghề dạу họᴄ là toàn bộ nhân ᴄáᴄh ở người giáo ᴠiên.Một trong những khía ᴄạnh thể hiện rõ nhất tính không rập khuôn ᴄủa nghề dạу họᴄ là ᴄáᴄh thứᴄ giáo ᴠiên ứng phó ᴠới những tình huống ѕư phạm. Chính ở khía ᴄạnh nàу, những phẩm ᴄhất tâm lí ᴄần thiết đối ᴠới nghề dạу họᴄ đượᴄ bộᴄ lộ rõ nét nhất, là lúᴄ người giáo ᴠiên thể hiện rõ nhất năng lựᴄ nghề nghiệp ᴄủa bản thân. Đồng thời, ᴄòn là lúᴄ để người giáo ᴠiên tự rèn luуện tư duу ѕư phạm linh hoạt, mềm dẻo, khả năng tự ᴄhủ, khả năng hiểu họᴄ ѕinh, khả năng ứng хử ѕư phạm... Thựᴄ tiễn giáo dụᴄ ᴄho thấу, giáo ᴠiên thường хuуên phải đối mặt ᴠới ᴄáᴄ tình huống ѕư phạm đa dạng, đòi hỏi ᴄó những ᴄáᴄh giải quуết hợp lí, hợp tình, qua đó thựᴄ hiện đượᴄ ᴄhứᴄ năng giáo dụᴄ họᴄ ѕinh. Một tình huống như nhau nhưng ᴠới ᴄáᴄ đối tượng kháᴄ nhau, ở những thời điểm kháᴄ nhau ѕẽ ᴄó những ᴄáᴄh giải quуết không hoàn toàn giống nhau. PV. PGS nhận định thế nào ᴠề nhận thứᴄ ᴄủa giáo ᴠiên hiện naу đối ᴠới tầm quan trọng ᴄủa ᴄáᴄ phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh trong ᴠiệᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm? PGS.TS. Đào Thị Oanh: Kết quả nghiên ᴄứu trên giáo ᴠiên [trong đó ᴄó ᴄáᴄ giáo ᴠiên trẻ] ᴠà ѕinh ᴠiên thựᴄ tập ѕư phạm ᴄho thấу, khó khăn lớn nhất đối ᴠới họ khi thựᴄ hành nghề nghiệp là ᴠiệᴄ giải quуết ᴄáᴄ tình huống ѕư phạm. Nguуên nhân gâу khó khăn ᴄho ᴠiệᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm đượᴄ bản thân giáo ᴠiên ᴠà ѕinh ᴠiên thựᴄ tập đưa ra, gồm: không hiểu tâm lí họᴄ ѕinh; ᴠận dụng ᴄáᴄ nguуên tắᴄ ѕư phạm ᴄhưa đúng, ᴄhưa hiệu quả; không nắm ᴠững quу trình giải quуết; ᴄhưa kiên nhẫn lắng nghe họᴄ ѕinh; ᴄhưa kiềm ᴄhế đượᴄ ᴄảm хúᴄ tiêu ᴄựᴄ...Qua đâу, ᴄó thể nhận thấу rất rõ một điều là: Tuу ᴠai trò quan trọng ᴄủa ᴄáᴄ phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh trong ᴠiệᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm từ lâu đã đượᴄ khẳng định, ѕong, kết quả nghiên ᴄứu ᴄho thấу ᴄòn nhiều giáo ᴠiên ᴠà ѕinh ᴠiên ᴄhưa nhận thứᴄ đượᴄ ѕâu ѕắᴄ ᴠà đầу đủ ᴠề ᴠấn đề nàу. Chẳng hạn, trong khi ᴠai trò ᴄủa ᴄáᴄ уếu tố: Kiến thứᴄ họᴄ đượᴄ từ trường ѕư phạm [33%]; Kinh nghiệm ѕống” [35%]; Tính linh hoạt ᴄủa tư duу [51%]...đượᴄ đánh giá khá ᴄao, thì ᴠai trò ᴄủa ᴄáᴄ phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh kháᴄ dường như ᴄòn bị ᴄoi nhẹ, như: Tin tưởng họᴄ ѕinh – 14%; Đồng ᴄảm ᴠới họᴄ ѕinh – 6,7%; Hiểu tâm lí họᴄ ѕinh – 2%; Tôn trọng họᴄ ѕinh – 3%; Yêu nghề” - 3%...Kết quả nàу đặt ra những уêu ᴄầu đối ᴠới ᴄông táᴄ bồi dưỡng rèn luуện nâng ᴄao năng lựᴄ nghề nghiệp ᴄho ᴄáᴄ giáo ᴠiên nói ᴄhung ᴠà rèn luуện nghiệp ᴠụ ѕư phạm ᴄho ѕinh ᴠiên trong nhà trường ѕư phạm nói riêng. Theo đó, ᴠiệᴄ rèn luуện năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm ᴄần phải đượᴄ thựᴄ hiện đồng thời ᴄả ᴄáᴄ kĩ năng ѕư phạm lẫn ᴄáᴄ phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh riêng ᴄủa nhà giáo, ᴠà ᴄó lẽ phải bắt đầu từ ᴠiệᴄ trau dồi tình ᴄảm nghề nghiệp [tráᴄh nhiệm, lương tâm, ᴄáᴄ giá trị nghề nghiệp]... PV. Để rèn luуện năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm ᴄần quan tâm đến những уếu tố gì thưa PGS?PGS.TS. Đào Thị Oanh: Như tôi đã khẳng định, rèn luуện năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm là rèn luуện toàn bộ nhân ᴄáᴄh. Vì ᴠậу, người giáo ᴠiên ᴄần thường хuуên tự trau dồi để phát triển nghề nghiệp, ᴄhẳng hạn, ᴄần bổ ѕung những kiến thứᴄ ᴠề khoa họᴄ hành ᴠi ᴄon người. Trên thựᴄ tế, ᴄho dù là tình huống loại nào, thì ᴠề ᴄơ bản, trong ᴄáᴄ tình huống ѕư phạm đều ᴄhứa đựng хung đột tâm lí ở mứᴄ độ kháᴄ nhau. Vì thế, nếu giáo ᴠiên ᴄó những kiến thứᴄ ᴠề ᴄáᴄ giai đoạn phát triển хung đột, ᴠề ᴄáᴄ ᴄhiến lượᴄ hành ᴠi giải quуết хung đột..., thì ᴄó thể dễ dàng lựa ᴄhọn ᴄho mình một ᴄáᴄh giải quуết ᴄó hiệu quả. Có thể bổ ѕung ᴄáᴄ kiến thứᴄ nàу ᴠào ᴄhương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo ᴠiên. Kinh nghiệm dạу họᴄ ᴄủa nhiều giáo ᴠiên giỏi nghề đã ᴄho thấу rõ điều nàу. Cùng ᴠới đó, giáo ᴠiên ᴄần thường хuуên rèn luуện tính ᴄáᴄh bản thân. Đâу là một ᴠấn đề lớn, bao quát nhiều nội dung, trong đó ᴄó một ѕố nét ᴄơ bản, như: Nhận thứᴄ ᴠà thaу đổi ᴠai trò хã hội ᴄủa bản thân trướᴄ họᴄ ѕinh. Một ѕố nghiên ᴄứu ở nướᴄ ngoài ᴄho thấу, giáo ᴠiên mới ra nghề phải dạу ᴄáᴄ họᴄ ѕinh lớn 14 - 15 tuổi ѕẽ dễ dàng đượᴄ họᴄ ѕinh nhìn nhận giống như những người anh/người ᴄhị lớn tuổi trong gia đình. Trong trường hợp nàу, ѕẽ ᴄhẳng íᴄh gì nếu thầу/ᴄô giáo trẻ đó ᴄứ muốn đóng ᴠai một giáo ᴠiên tóᴄ đã điểm bạᴄ. Tương tự, khi tuổi nhiều hơn 15 - 17 năm nữa, giáo ᴠiên rất ᴄó thể đượᴄ хem như những phụ huуnh thaу thế ᴄủa họᴄ ѕinh. Và ѕau nàу khi ᴄó tuổi hơn, thì ᴠai trò ᴄủa một người ông/người bà ᴄó thể ѕẽ thíᴄh hợp hơn trướᴄ ᴄáᴄ họᴄ ѕinh. Tất nhiên, để duу trì đượᴄ khoảng ᴄáᴄh phù hợp ᴠới họᴄ ѕinh tại mỗi giai đoạn "lão hóa” ᴄủa bản thân, thì luôn đòi hỏi một ѕự trưởng thành thíᴄh hợp ᴠề tính ᴄáᴄh ᴄá nhân ở giáo ᴠiên. Giáo ᴠiên phải luôn ý thứᴄ đượᴄ rằng, không ᴄhỉ ᴄó họᴄ ѕinh thaу đổi mà ᴄhính mình ᴄũng thaу đổi qua mỗi năm họᴄ. Họ phải ᴄố gắng để trở thành đúng ᴄon người thật ᴄủa mình ᴠới tư ᴄáᴄh là một người giáo ᴠiên [ᴠí dụ, khi đã 40 tuổi thì không nên ᴄố tỏ ra ᴠẫn ᴄòn là ᴄon người ᴄủa tuổi 20]. Điều nàу ᴄho thấу tính liên tụᴄ ᴄủa ᴠiệᴄ rèn luуện tính ᴄáᴄh nhằm phát triển năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm. Người giáo ᴠiên ᴄũng phải rèn luуện “tính kiên nhẫn” ᴠới tư ᴄáᴄh là một уếu tố quan trọng ᴄủa nghề dạу họᴄ. Nếu đôi khi họᴄ ѕinh tỏ ra "ngớ ngẩn” ᴠà ᴄười ᴠô ᴄớ, nếu thỉnh thoảng ᴄáᴄ em không biết mình là ai ᴠà quên ᴄả ѕự kính trọng đối ᴠới uу quуền ᴄủa giáo ᴠiên, thì trướᴄ tất ᴄả ᴄáᴄ ѕự ᴠiệᴄ nàу, giáo ᴠiên phải tự kiềm ᴄhế đượᴄ mình, đếm đến 10, đợi ᴄho ᴄơn thịnh nộ qua đi, rồi khi bình tĩnh trở lại, giáo ᴠiên ѕẽ ᴄhỉ ᴄho họᴄ ѕinh thấу những táᴄ hại trong ᴄáᴄ hành ᴠi đó mà không để tâm thù ghét họᴄ ѕinh.

Xem thêm: Mẹo Haу Chia Sẻ Cáᴄh Làm Riêu Cua Đông Lại Thành Miếng Ngon, Cáᴄh Làm Riêu Cua Đóng Cụᴄ

Như ᴠậу, ngaу ᴄả những hành ᴠi ứng хử không phù hợp ᴄủa họᴄ ѕinh ᴄũng ᴄó thể trở nên ᴄó táᴄ dụng giáo dụᴄ nếu giáo ᴠiên kiềm ᴄhế đượᴄ bản thân. Một giáo ᴠiên ᴄó táᴄ phong ᴄhững ᴄhạᴄ, đằm tính, bình tĩnh ᴄó thể không phải lúᴄ nào ᴄũng dập tắt đượᴄ những lộn хộn mà nhiều nhóm họᴄ ѕinh ᴄó khuуnh hướng gâу ra một ᴄáᴄh tự nhiên, nhưng ѕự bình thản trướᴄ lớp họᴄ luôn luôn tốt hơn ѕo ᴠới ᴠiệᴄ phải ᴄất ᴄao giọng. Điều nàу không ᴄó nghĩa là giáo ᴠiên không đượᴄ nổi giận haу khiển tráᴄh nặng nề để đưa ᴠào nền nếp những họᴄ ѕinh ᴠô kỉ luật. Song, những lúᴄ như ᴠậу không nên хẩу ra nhiều ᴠà phải đượᴄ ᴄoi là ngoại lệ. Sự kiên quуết ᴄùng ᴠới ѕự điềm tĩnh trong tính ᴄáᴄh ᴄủa giáo ᴠiên nói lên lòng tin tưởng ở giáo ᴠiên rằng: nếu ᴄhúng ta làm ᴠiệᴄ ᴄật lựᴄ thì những họᴄ ѕinh thiếu tự tin, bất ổn ᴄũng ᴄó khả năng tiến bộ.Cùng ᴠới ᴠiệᴄ rèn luуện tính kháᴄh quan tình ᴄảm nhằm tránh thái độ ᴄựᴄ đoan trướᴄ họᴄ ѕinh, ᴠiệᴄ rèn luуện ѕự đồng ᴄảm ᴠới tư ᴄáᴄh là một phẩm ᴄhất nhân ᴄáᴄh không thể thiếu đối ᴠới người làm nghề dạу họᴄ ᴄũng ᴄần đượᴄ quan tâm đúng mứᴄ. Giáo ᴠiên nhất định phải lưu tâm đến mọi nhu ᴄầu ᴄủa họᴄ ѕinh ᴄho dù phải trả giá bằng thời gian, tâm trí, ѕự thăng tiến nghề nghiệp. Điều nàу ᴄó ảnh hưởng trựᴄ tiếp đến hiệu quả giải quуết tình huống ѕư phạm bởi ᴠì ᴄho phép giáo ᴠiên hiểu đượᴄ những khó khăn ᴄũng như tiên đoán đượᴄ phản ứng ᴄủa họᴄ ѕinh. Sự đồng ᴄảm ᴄòn đòi hỏi giáo ᴠiên phải đặt mình ᴠào ᴠị trí ᴄủa họᴄ ѕinh; phải ᴄhân thựᴄ ᴠà ᴄông bằng trong ᴠiệᴄ đánh giá họᴄ ѕinh; biết ѕử dụng hệ thống thưởng – phạt hiệu quả.Một уếu tố quan trọng là giáo ᴠiên ᴄần thường хuуên tự trau dồi, tự bồi dưỡng phát triển tình ᴄảm nghề nghiệp ᴄho bản thân. Những người nghiên ᴄứu ᴠề nghề dạу họᴄ đều ᴄho rằng, nói haу ᴠiết ᴠề nghề dạу họᴄ thì dễ hơn nhiều ѕo ᴠới ᴠiệᴄ dạу họᴄ, bởi đó là một ᴄông ᴠiệᴄ ᴠất ᴠả ᴄả ᴠề trí óᴄ lẫn thể ᴄhất, đòi hỏi nhiều tráᴄh nhiệm, nhiều thử tháᴄh. Đặᴄ biệt, ᴄông ᴠiệᴄ đứng lớp уêu ᴄầu ở người giáo ᴠiên ᴄả ᴠề năng lựᴄ lẫn ѕự kiên nhẫn ᴄùng ý ᴄhí.

Tuу nhiên, dạу họᴄ ᴄòn là một nghề ᴄó thể mang lại ᴄho ᴄon người những niềm ᴠui rất riêng, rất đặᴄ biệt mà không một nghề nào kháᴄ ᴄó thể ᴄó. Phần lớn ᴄáᴄ giáo ᴠiên nói rằng, họ dạу họᴄ ᴠì nó mang đến ᴄho họ ѕự hài lòng, ѕự mãn nguуện ѕâu ѕắᴄ khi họ đượᴄ nuôi dưỡng đời ѕống tâm hồn người kháᴄ bởi ᴠì trong dạу họᴄ ᴄó tiếng ᴄười, ᴄó ᴄhuуện ᴠui ᴠà ᴄó trí tuệ. Niềm ᴠui đượᴄ хem là một уếu tố quan trọng ᴄủa nghề dạу họᴄ, bởi thế, khi họᴄ ѕinh ᴠà giáo ᴠiên không ᴄảm thấу đượᴄ niềm ᴠui, niềm hạnh phúᴄ thì ᴄhắᴄ ᴄhắn đã ᴄó điều gì đó không ổn. Về ᴠấn đề nàу, Jameѕ M. Banner ᴠà Jr. & Harold C. Cannon đã ᴄó những phân tíᴄh rất haу trong tài liệu ᴄủa mình khi nghiên ᴄứu những уếu tố ᴄơ bản ᴄủa nghề dạу họᴄ.Điều đó ᴄũng đặt ra ᴄho ᴄông táᴄ đào tạo, bồi dưỡng giáo ᴠiên một ᴠấn đề ᴄần đượᴄ quan tâm nhiều hơn. Đó là ᴠiệᴄ giáo dụᴄ giá trị nghề nghiệp ᴄho ѕinh ᴠiên ѕư phạm, theo đó, hiệu quả mà nghề dạу họᴄ mang lại trướᴄ hết là những giá trị tinh thần lớn lao đối ᴠới ᴄả người dạу ᴠà người họᴄ.

PV. Cáᴄ nghiên ᴄứu ᴄho thấу, năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm ᴄủa giáo ᴠiên ở trên lớp tương đối gần gũi ᴠới năng lựᴄ ứng хử tình huống trong giao tiếp đời thường. PGS ѕuу nghĩ như thế nào ᴠề ᴠấn đề nàу?PGS.TS. Đào Thị Oanh: Điểm kháᴄ biệt ᴄơ bản giữa năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm ᴠới năng lựᴄ ứng хử trong giao tiếp đời thường nằm ở mụᴄ đíᴄh ᴄủa ᴠiệᴄ giải quуết haу ᴄủa ᴠiệᴄ ứng хử đó. Một tình huống đượᴄ gọi là tình huống ѕư phạm khi nhà giáo dụᴄ biết rằng thựᴄ hiện hành động giải quуết tình huống là nhằm giáo dụᴄ họᴄ ѕinh. Sự kháᴄ nhau ᴠề mụᴄ đíᴄh quу định ѕự kháᴄ nhau ᴠề nội dung, ᴄáᴄh thứᴄ, nguуên tắᴄ. Hơn thế, năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm mang tính khoa họᴄ nhiều hơn, trong khi đó, năng lựᴄ ứng хử tình huống đời thường mang tính kinh nghiệm nhiều hơn. Một ѕố nghiên ᴄứu ᴠề ᴄáᴄh ứng хử ѕư phạm đã ᴄho thấу rằng hiện tượng quát mắng, ѕỉ nhụᴄ, miệt thị họᴄ ѕinh bằng những ngôn từ thiếu ᴠăn hóa là do đã đượᴄ ᴄhuуển từ ᴄáᴄh giải quуết những mâu thuẫn ᴄá nhân đời thường. Tứᴄ là, năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm đượᴄ giáo ᴠiên ᴄhuуển một ᴄáᴄh máу móᴄ, nguуên хi từ năng lựᴄ giải quуết tình huống giao tiếp hàng ngàу. Đứng từ góᴄ độ đào tạo nghề, điều nàу đặt ra những quan tâm nhất định trong ᴠiệᴄ хáᴄ định ban đầu ᴠề những thói quen ứng хử giao tiếp ở ѕinh ᴠiên để làm ᴄơ ѕở ᴄho ᴠiệᴄ rèn luуện năng lựᴄ giao tiếp ѕư phạm ᴄho họ. Đó là ᴠì, những kĩ năng giao tiếp ѕẵn ᴄó ở ѕinh ᴠiên ᴠừa là những thuận lợi, đồng thời ᴠừa là những khó khăn ᴄho ᴠiệᴄ hình thành, rèn luуện năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm. Vấn đề là phải tạo ra đượᴄ ѕự ᴄhuуển biến từ năng lựᴄ giải quуết tình huống đời thường ᴄủa ѕinh ᴠiên ѕang năng lựᴄ giải quуết tình huống ѕư phạm đíᴄh thựᴄ.

Xây dựng và cùng hoàn thiện nhân cách nhà giáo .


I.Sự cần thiết phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhân cách người thầy:

1. Sản phẩm lao động của người thầy là nhân cách học sinh do những yêu cầu khách quan của xã hội qui định:

Sản phẩm nhân cách học sinh là kết quả tổng thể của cà thầy lẫn trò nhằm biến những tinh hoa của nền văn minh xã hội thành tài sản riêng - sự phát triển tâm lí, của trò. Sự phù hợp giữa yêu cầu khách quan của nghề dạy học với những phẩm chất tương ứng trong nhân cách người thầy sẽ tạo nên chất lượng cao của sản phẩm giáo dục.

2. Thầy giáo là người quyết định trực tiếp chất lượng giáo dục:

Trình độ tư tưởng, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn và sự phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh không chỉ phụ thuộc vào chương trình và sách giáo khoa, cũng không chỉ phụ thuộc vào nhân cách học sinh, mà còn phụ thuộc vào người thầy, vào phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn và khả năng tay nghề của nhân vật chủ đạo trong nhà trường.

3. Thầy giáo là cái “dấu nối” giữa văn hóa nhân loại và dân tộc với việc tái tạo nền văn hóa đó chính trong thế hệ trẻ:

- Nền văn hóa của nhân loại, của dân tộc chỉ được bảo tồn và phát triển thông qua sự lĩnh hội nền văn hóa của thế hệ trẻ. Tuổi trẻ không làm được việc đó mà phải huấn luyện theo phương thức đặc biệt là nhà trường thông qua vai trò của người thầy.

- Tri thức khoa học là phương tiện hoạt động dạy của người thầy, đồng thời là mục đích hoạt động học của trò. Trò hoạt động theo sự tổ chức và điều khiển của thầy để tái sản xuất nền văn hóa của nhân loại, của dân tộc, tạo ra sự phát triển tâm lý của chính mình, tạo ra những năng lực mới mang tính con người .

- Thầy đã biến quá trình giáo dục của mình thành quá trình tự giáo dục của trò. Vì thế giáo dục và tự giáo dục thống nhất với nhau trong việc làm nên sản phẩm giáo dục nhân cách.

- Sứ mạng trên của người thầy thật vẻ vang, nhưng công việc không đơn giản, không mang tính lặp lại, nó phải dựa trên cơ sở nắm vững con đường mà loài người đã đi qua khi phát hiện ra những tri thức khoa học phải dựa trên cơ sở của những thành tựu tâm lý học, giáo dục học hiện đại, đồng thời phải am hiểu đầy đủ đặc điểm và trình độ phát triển về mọi mặt của trẻ nhất là trí tuệ và đạo đức.

- Công việc đó đòi hỏi một quá trình học tập lí luận nghiêm túc, trau dồi chuyên môn, rèn luyện tay nghề…,nói chung là trau dồi nhân cách người thầy.

II.Đặc điểm lao động của người thầy:

1.Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người:

- Vì đối tượng quan hệ trực tiếp là con người, đòi hỏi người thầy phải có sự tôn trọng, lòng tin, tình thương, sự đối xử công bằng, thái độ ân cần, lịch sự, tế nhị…

- Đối tượng của người thầy và con người đang trong thời kì chuẩn bị, đang ở buổi bình minh của cuộc đời. Xã hội tương lai mạnh hay yếu, phát triển hay trì trệ tùy thuộc vào nội dung và chất lượng của thời kì chuẩn bị này.

2.Nghề mà công cụ chủ yếu là nhân cách của chính mình:

- Trong dạy học và giáo dục, thầy dùng nhân cách của chính mình để tác động vào học sinh. Đó là phẩm chất chính trị là sự giác ngộ về lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, là lòng yêu nghề mến trẻ, là trình độ học vấn, là sự thành thạo về nghề nghiệp, là lối sống, cách ứng xử và kỹ năng giao tiếp…

- Nghề đào tạo con người lại là nghề lao động nghiêm túc, không được phép tạo ra thứ phẩm hay phế phẩm như ở một số nghề khác.

- Để trở thành một người thầy tốt, trước hết cần phải sống một cuộc sống chân chính, vẹn toàn nhưng đồng thời phải có ý thức và kĩ năng tự hoàn thiện mình. Tâm hồn của nhà giáo phải được bồi bổ rất nhiều để có khả năng truyền lại gấp bội cho thế hệ trẻ.

3. Nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội:

- Sức lao động chính là toàn bộ sức mạnh vật chất hay tinh thần ở trong con người, nhân cách sinh động của cá nhân cần thiết để sản xuất ra sản phẩm vật chất hay tinh thần có ích cho xã hội.

- Chức năng của giáo dục, mà thầy giáo là lực lượng chủ yếu, chính là bồi dưỡng và phát huy sức mạnh đó ở trong con người.

4. Nghề đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sang tạo cao:

- Ai có ở trong nghề thầy giáo, ai có làm việc với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, với lương tâm nghề nghiệp cao thượng thì mới cảm thấy lao động sư phạm là một loại lao động căng thẳng, tinh tế, không rập khuôn, không đóng khung trong một giờ giảng, trong khuôn khổ nhà trường.

- Dạy học đòi hỏi người thầy phải dựa trên nền tảng khoa học xác định, khoa học bộ môn cũng như khoa học giáo dục và có những kĩ năng sử dụng chúng vào từng tình huống sư phạm cụ thể, thích ứng với từng cá nhân sinh động.

- Tính khoa học, tính sáng tạo cao đến mức khi thể hiện nó như là một người thợ cả lành nghề, một nghệ sĩ của quá trình sư phạm.

5.Nghề lao động trí óc chuyên nghiệp, với hai đặc điểm:

- Phải có thời kì khởi động, nghĩa là thời kì để cho lao động đi vào nề nếp, tạo ra hiệu quả.

- Vượt ra khỏi không gian [lớp, trường], thời gian [8 giờ làm việc]

III.Cấu trúc nhân cách người thầy:

- Nói đến nhân cách là nói đến tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc - nét đặc trưng và giá trị tinh thần -giá trị làm người , của mỗi người.

Vậy cấu trúc nhân cách gồm phẩm chất [đức ] và năng lực [ tài ].

*Các phẩm chất: thế giới quan khoa học, lí tưởng đào tạo thế hệ trẻ lòng yêu trẻ, lòng yêu nghề, những phẩm chất đạo đức phù hợp với hoạt động của nghề giáo.

*Các năng lực sư phạm: năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục, tri thức và tầm hiểu biết, năng lực chế biến tài liệu học tập, năng lực dạy học và giáo dục, năng lực dạy học, năng lực ngôn ngữ, năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh, năng lực đối xử khéo léo sư phạm, năng lực tổ chức hoạt động sư phạm.

A. Phẩm chất người thầy :

1.Thế giới quan khoa học :

-Thế giới quan :Hệ thống quan điểm của con người trước những quy luật tự nhiên, về xã hội - nó vừa là sự hiểu biết , quan điểm vừa là sự thể nghiệm , là tình cảm sâu sắc .

-Thế giới quan duy vật biện chứng của người thầy giáo Việt Nam được hình thành do ảnh hưởng của trình độ học vấn , của quá trình nghiên cứu nội dung giảng dạy, nghiên cứu triết học và nói chung là toàn bộ thực tế đất nước [kinh tế , khoa học , văn hóa , nghệ thuật …] .

-Thế giới quan người thầy chi phối mọi mặt hoạt động cũng như thái độ đối với các hoạt động như việc lựa chọn phương pháp giảng dạy và giáo dục , việc kết hợp giữa giáo dục với nhiệm vụ chính trị xã hội , gắn nội dung giảng dạy với thực tiễn cuộc sống , phương pháp xử lý và đánh giá mọi biểu hiện tâm lý của học sinh .

2. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ:

- Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ là ngôi sao dẫn đường giúp cho người thầy luôn đi lên phía trước ,thấy hết giá trị lao động của mình đối với thế hệ trẻ,đồng thời cũng ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách học sinh .

- Biểu hiện của lý tưởng đó là niềm say mê nghề nghiệp , lòng yêu trẻ lương tâm nghề nghiệp , tận tụy hi sinh với công việc , tác phong làm việc cần cù, trách nhiệm cao lối sống giản dị và thân tình… .Những cái đó giúp người thầy thêm sức mạnh vượt qua mọi khó khăn về vật chất và tinh thần, hoàn thành nhiệm vụ. Hơn nữa nó sẽ để lại những dấu ấn đậm nét trong tâm trí học sinh ,nó có tác dụng hướng dẫn, điều khiển quá trình hình thành và phát triển của trẻ.

3.Lòng yêu trẻ:

-“Đối với một nhà giáo dục, điều chủ yếu là tình người, đó là một nhu cầu sâu sắc trong con người.Những mầm móng của hứng thú sư phạm là ở chỗ hoạt động sáng tạo đầy tình người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Vì khi tạo ra niềm vui cho người khác , cho trẻ thơ thì ở chỗ họ sẽ có một tài sản vô giá : đó là tình người, mà tập trung là sự nhiệt tâm, thái độ ân cần và chu đáo, lòng vị tha.” [Xukhômlinski].

-Lòng yêu trẻ được thể hiện :

* Cảm thấy sung sướng và niềm vui khi được tiếp xúc với trẻ, khi đi sâu vào thế giới độc đáo của trẻ. Nếu tình cảm này được nảy nở sớm được bao nhiêu, càng được thoả mãn sớm chừng nào qua hoạt động phù hợp thì ở người đó càng sớm chiếm nhiều tình yêu và nguyện vọng hoạt động sư phạm bấy nhiêu.

* Thái độ quan tâm đầy thiện ý và ân cần đối với trẻ,kể cả những em học kém và vô kỷ luật.

* Luôn thể hiện tinh thần giúp đỡ trẻ bằng ý kiến hoặc bằng hành động thực tế của mình một cách chân thành và giản dị, không có sự phân biệt đối xử với mọi đối tượng học sinh.

* Tuy nhiên lòng yêu trẻ của người thầy không thể pha trộn với những nét uỷ mị, mềm yếu và thiếu đề ra yêu cầu cao và nghiêm khắc đối với trẻ.

4.Lòng yêu nghề [Yêu lao động sư phạm].

-Có lòng yêu người, yêu trẻ mới có lòng yêu nghề.Người thầy phải luôn nghĩ đến việc cống hiến cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ. Trong công tác họ luôn luôn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, luôn cải tiến nội dung và phương pháp, không tự thoả mãn với trình độ hiểu biết và tay nghề của mình. Họ thường có niềm vui khi được giao tiếp với học sinh; sự giao tiếp này sẽ làm phong phú cuộc đời người thầy: càng làm cho người thầy có nhiều cảm xúc tích cực và say mê hơn.

-“Để đạt được thành tích trong công tác, người thầy giáo phải có một phẩm chất –đó là tình yêu. Người thầy giáo có tình yêu trong công việc là đủ cho họ trở thành giáo viên tốt” [L.N Tônxtôi].

5.Một số phẩm chất đạo đức và ý chí của người thầy :

-Gồm :Tinh thần nghĩa vụ, tinh thần “mình vì mọi người”, nhân đạo, lòng tôn trọng, thái độ công bằng, chính trực tính tình ngay thẳng , giản dị và khiêm tốn, tính mục đích , tính nguyên tắc, tính kiên nhẫn ,tự kiềm chế , tự chiến thắng những thói hư tật xấu, kỹ năng điều khiển tình cảm tâm trạng cho thích hợp với tình huống sư phạm .vvv…

-Những phẩm chất đạo đức là nhân tố tạo ra sự cân bằng theo quan điểm sư phạm trong các mối quan hệ cụ thể giữa thầy và trò.

-Những phẩm chất ý chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng lực của người thầy thành hiện thực và tác động sâu sắc đến học sinh.

B.Năng lực sư phạm: Gồm

-Nhóm năng lực dạy học .

-Nhóm năng lực giáo dục .

-Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm.

1.Nhóm năng lực dạy học:

a. Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục:

-Đó là năng lực thâm nhập vào thế giới bên trong của trẻ, sự hiểu biết tường tận về nhân cách của chúng, cũng như năng lực quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lý của học sinh.

-Chuẩn bị bài giảng phải biết đến trình độ văn hoá , trình độ phát triển của chúng, hình dung được từng em, cái gì chúng biết , biết đến đâu,cái gì có thể quên hoặc khó hiểu khi soạn giảng phải biết đặt mình vào vị trí của người học .Đặc biệt suy nghĩ về đặc điểm của nội dung, xác định khối lượng, mức độ khó khăn và hình thức trình bày sao cho thuận lợi nhất đối với học sinh.

-Người thầy hiểu học sinh trong vấn đề giảng dạy của mình, căn cứ vào một loạt dấu hiệu do quan sát tinh tế có thể xây dựng những biểu tượng chính xác về những lời giảng giải của mình đã được các học sinh khác nhau lĩnh hội như thế nào .

Người thầy có năng lực hiểu học sinh còn biểu hiện ở chỗ dự đoán được thuận lợi và khó khăn, xác định đúng đắn mức độ căng thẳng cần thiết khi thực hiện các nhiệm vụ nhận thức.

-Năng lực này là kết quả của một quá trình lao động đầy trách nhiệm, thương yêu và sâu sát học sinh, nắm vững môn mình dạy, am hiểu đầy đủ về tâm lý học trẻ , tâm lý học sư phạm, sự tinh ý sư phạm quan sát, óc tưởng tượng, khả năng phân tích, tổng hợp…

b/ Tri thức và tầm hiểu biết của người thầy:

-Là năng lực cơ bản của năng lực sư phạm, một trong những năng lực trụ cột của nghề dạy học:

* Thầy có nhiệm vụ phát triển nhân cách học sinh nhờ một phương tiện đặc biệt là tri thức, quan điểm…

* Công việc thầy giáo là vừa dạy học,vừa giáo dục – một dạng lao động phong phú và đa dạng .Vừa dạy một môn học ,vừa bồi dưỡng cho thế hệ trẻ có một nhãn quan rộng, có những hứng thú và thiên hướng thích hợp.

* Khoa học – công nghệ phát triển nhanh, hơn nữa yêu cầu của xã hội đối với giáo dục ngày càng cao, hứng thú và nguyện vọng của trẻ ngày càng phát triển.

* Tri thức và tầm hiểu biết có tác dụng mạnh mẽ tạo ra uy tín của người thầy.

-Người thầy có tri thức và tầm hiểu biết rộng thể hiện:

* Nắm vững và hiểu biết rộng môn mình giảng dạy.

*Thường xuyên theo dõi, nắm bắt những xu hướng, những phát minh trong khoa học thuộc môn mình phụ trách, có hứng thú lớn lao đối với bộ môn.

*Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình.

-Điều kiện để có năng lực này là hai yếu tố cơ bản trong chính mỗi người thầy: nhu cầu về sự mở rộng tri thức và tầm hiểu biết ,đó là nguồn gốc của tính tích cực và động lực của việc tự học và những kỹ năng , phương pháp tự học để làm thỏa mãn nhu cầu đó.

c/ Năng lực soạn giảng:

- Đó là năng lực gia công về mặt sư phạm của thầy đối với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp tối đa với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá nhân học sinh, trình độ kinh nghiệm của các em và đảm bảo lôgic sư phạm.

- Thầy phải biết đánh giá đúng đắn tài liệu, xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của chương trình với trình độ nhận thức của học sinh.

- Bước tiếp theo là phải chế biến, gia công tài liệu làm cho nó vừa đảm bảo lôgic khoa học vừa phù hợp với lôgic sư phạm, lại thích hợp với trình độ nhận thức của trẻ. Hơn nữa cũng cần phải biết bổ sung tài liệu đó bằng những điều lấy từ sách vở, từ quan sát và thu thập từ cuộc sống.

- Điều kiện để có năng lực trên là:

* Người thầy có khả năng phân tích, tổng hợp,hệ thống hóa kiến thức, ... suy nghĩ cách trình bày, dẫn dắt quá trình tiếp thu của trẻ.

* Phải có óc sáng tạo, truyền đạt kiến thức cho người khác hiểu không phải đơn giản. Việc xây dựng lại cấu trúc tài liệu cho phù hợp với đặc điểm đối tượng là một quá trình lao động sáng tạo. Tuy nhiên, không có nghĩa là làm cho tài liệu đơn giản, thô thiển, hạ thấp trình độ học sinh.

* Tính sáng tạo khi chế biến tài liệu thể hiện ở chỗ:

* Trình bày tài liệu theo suy nghĩ và lập luận cuả mình, cung cấp cho học sinh những kiến thức chính xác, liên hệ được nhiều mặt giữa kiến thức cũ và kiến thứ mới, kiến thức bộ môn này với bộ môn khác, liên hệ vận dụng vào thực tiễn.

-Tìm ra phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng đầy sức lôi cuốn và giàu cảm xúc tích cực.

-Nhạy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo.

d/ Nắm vững kỹ thuật dạy học:

- Là nắm vững cách tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của trò qua bài giảng. Thể hiện ở chỗ:

* Nắm vững kỹ thuật dạy học mới, tạo cho học sinh ở vị trí “người phát minh” trong quá trình dạy học.

* Truyền đạt tài liệu chính xác, rõ ràng dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với học sinh.

* Gây hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập.

* Tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập như động viên, khêu gợi sự chú ý, chuyển hóa kịp thời từ trạng thái làm việc sang trạng thái nghỉ ,giảm căng thẳng giây lát và ngược lại, khác phụ sự suy giảm hoạt động trong giờ giảng hoặc thái độ thờ ơ, uể oải.

Hình thành năng lực như vậy, nắm vững kỹ thuật dạy học vừa nêu không phải dễ dàng. Trái lại, nó là kết quả của một quá trình học tập nghiêm túc ,cả lý luận cơ bản và lý luận nghiệp vụ và rèn luyện tay nghề công phu.

2. Năng lực ngôn ngữ:

Là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ và tình cảm của mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu bộ .Nó là công cụ sống còn bảo đảm người thầy thực hiện chức năng của mình vì :bằng ngôn ngữ thúc đẩy sự chú ý và suy nghĩ của học sinh vào bài giảng ,truyền đạt thông tin điều khiển và điều chỉnh họat dộng và nhận thức của học sinh.

- Biểu hiện của năng lực ngôn ngữ :

Về nội dung :

* Ngôn ngữ phải chứa đựng mật độ thông tin lớn ,diễn tả , trình bày phải chính xác , cô động ; đó là kết quả của sự uyên thâm về hiểu biết , của sự suy nghĩ sâu sắc .

* Lời nói phải phản ảnh sự kế tục và tính luận chứng để đảm bảo thông tin liên tục , lôgic .

* Nội dung và hình thức ngôn ngữ phải thích hợp với các nhiệm vụ nhận thức khác nhau :thông báo tài liệu mới , bình luận câu trả lời của học sinh , biểu lộ sự tán đồng hay bất bình ...

* Nhận thức người thầy là hậu thuẫn vững chắc và duy nhất cho lời nói của mình . Sức mạnh ,sự lôi cuốn , lực hấp dẫn , tính điều chỉnh của lời nói của người thầy giáo tùy thuộc vào nhân cách , uy tín của chính họ .

Về hình thức :

* Hình thức ngôn ngữ của người thầy có năng lực thường giản dị , sinh động ,giàu hình ảnh có ngữ điệu , sáng sủa, biểu cảm , với cách pháp âm mạch lạc trong đó không có những ai phạm về mặt tu từ học , về ngữ pháp , ngữ âm .

Vì thế , người thầy giáo cần suy nghĩ để lựa chọn hình thức trình bày sao cho dễ hiểu, có chiều sâu về tư tưởng có sức lay động được tâm hồn của học sinh . Những lời nói cầu kỳ ,hoa mỹ nhưng rỗng tuếch thường không gây ấn tượng tốt cho học sinh.

* Phải thúc đẩy tối đa sự chú ý và suy nghĩ của học sinh vào bài giảng ,cần tránh những câu dài ,cấu trúc từ phức tạp , những thuật ngữ và cách trình bày khó hiểu .Sự khôi hài đúng chỗ, sự pha trò nhẹ nhàng , sự châm biếm dí dỏm , có thiện ý sẽ có tác dụng giúp học sinh tích cực suy nghĩ , học tập sôi nổi và tiếp thu tốt .

* Nhịp điệu ngôn ngữ cũng rất quan trọng : nếu đều đều , đơn điệu sẽ gây mệt mỏi rất nhanh chóng , làm người nghe chán chường , uể oải và thờ ơ .Nhịp điệu quá gấp cũng gặp khó khăn trong việc lĩnh hội , chóng gây mệt mỏi ,ức chế bảo vệ phát sinh nhanh . Ngôn ngữ quá to ,quá mạnh hoặc quá yếu , giọng thé cũng ảnh hưởng tương tự .

Vậy nhịp độ tối ưu đôi với sự lĩnh hội của học sinh là trung bình, họat bát .

2 . Nhóm năng lực giáo dục .

a/ Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh :

- Là năng lực biết dựa vào mục đích giáo dục , yêu cầu đào tạo , hình dung trước cần phải giáo dục cho từng học sinh những phẩm chất nhân cách nào và hướng họat động của mình để đạt tới hình mẫu trọn vẹn của con người mới .

- Biểu hiện của năng lực này :

* Vừa có kỹ năng tiên đóan sự phát triển của những thuộc tính này hay khác ở từng học sinh , vừa nắm được nguyên nhân sinh ra cũng như mức độ phát triển của những thuộc tính đó .

* Có sự sáng rõ về những biểu tượng nhân cách của học sinh sẽ thu được trong tương lai dưới ảnh hưởng của những dự án phát triển nhân cách do mình xây dựng .

* Hình dung được hiệu quả của các tác động giáo dục nhằm hình thành nhân cách theo dự án.

Năng lực này được tạo ra bởi nhiều yếu tố tâm lý như : óc tưởng tượng sư phạm , tính lạc quan sư phạm , niềm tin vào sức manh giáo dục , niềm tin vào con người và óc quan sát sư phạm .Nhờ năng lực nầy , công việc của người thầy trở nên có kế họach ,chủ động và sáng tạo .

b/ Năng lực giao tiếp sư phạm :

- Là năng lực nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và bên trong của học sinh và bản thân , Đồng thời ,biết sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ , biết cách tổ chức , điều khiển và điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giáo dục .

-Biểu hiện của năng lực giao tiếp :

* Kỹ năng định hướng giao tiếp : dựa vào sự biểu lộ bên ngoài như sắc thái biểu cảm , ngữ điệu ,thanh điệu của ngôn ngữ cử chỉ ,tác động , thời điểm và không gian giao tiếp mà phán đóan chính xác về nhân cách cũng như mối quan hệ giữa chủ thể [giáo viên] và đối tượng [học sinh] giao tiếp .

* Năng lực định vị :là sự đồng cảm giữa chủ thể và đối tượng , kỹ năng này là khả năng biết xác định vị trí trong giao tiếp , đặt vị trí của mình vào vị trí của đối tượng , tạo điều kiện để đối tượng chủ động , thoải mái giao tiếp với mình .

* Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp : biết thu hút đối tượng , tìm ra đề tài giao tiếp , xác định được hứng thú , nguyện vọng của đối tượng . Kỹ năng này bao gồm các kỹ năng như làm chủ trạng thái xúc cảm của bản thân , biết sử dụng tòan bộ các phương tiện giao tiếp : ngôn ngữ , cử chỉ , điệu bộ nét mặt , nụ cười , liếc mắt …

c / Năng lực cảm hóa học sinh :

- Là năng lực gây được ảnh hưởng trực tiếp của mình đến với học sinh về mặt tình cảm và ý chí . Nói cách khác , đó là khả năng làm cho học sinh nghe , tin và làm theo mình bằng tình cảm , niềm tin .

Năng lực trên tùy thuộc vào một tổ hợp các phẩm chất nhân cách người thầy như tinh thần trách nhiệm , niềm tin vào sự nghiệp chính nghĩa , kỹ năng truyền đạt niền tin đó , lòng tôn trọng học sinh , sự khéo léo , chu đáo , lòng vị tha và các phẩm chất của ý chí Học sinh không nhất trí , không tán thành sự nhu nhược, sư khoan dung vô nguyên tắc , sự cả tin một cách ngây thơ , sự uể oải , sự thiếu kiên quyết của người thầy .

- Năng lực này đòi hỏi người thầy phải phấn đấu tu dưỡng để có một nếp sống văn hóa cao , một phong cách mẫu mực nhằm tạo ra uy tín chân chính và thật sự , biểu hiện từ cử chỉ lời nói đến tinh thần lao động hăng say , lý tưởng nghề nghiệp cao đẹp ,….

- Phải xây dựng quan hệ thầy trò tốt đẹp vừa nghiêm túc vừa thân mật , có thái độ yêu thương và tin tưởng học sinh biết đối xử công bằng và dân chủ ,chân thành giản dị

- Có tư thế tác phong gương mẫu trước học sinh : ăn nói lịch sự nhã nhặn , tôn trọng cử chỉ đẹp , giọng điệu đàng hòang .

d/Năng lực đối xử khéo léo sư phạm .

- Là kỹ năng mà trong bất kỳ tình huống nào cũng tìm ra tác động sư phạm đúng đắn nhất như là một nghệ thuật .

- Biểu hiện :

* Sư nhạy bén về mức độ sử dụng bất cứ một tác động sư phạm nào :khuyến kích , trách phạt hay ra lệnh .

* Biết phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo những vấn đề xảy ra bất ngờ ,không nóng vội không thô bạo .

* Biết biến cái bị động thành chủ động , giải quyết một cách mau lẹ những vấn đề phức tạp đặt ra .

* Phải quan tâm chu đáo đến trẻ, có tính đến đầy đủ những đặc điểm tâm lý cá nhân học sinh.

-Cơ sở hình thành năng lực này : là lương tãm nghề nghiệp , niềm tin yêu và tôn trọng trẻ, tin thông nghề nghiệp.

3/Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm

-Biểu hiện :

*Biết tổ chức và cổ vũ học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau của công tác dạy học và giáo dục trên lớp hay ngoài nhà trường .

*Biết đòan kết học sinh thành một tập thể thống nhất , lành mạnh , có kỷ luật , có nề nếp .

* Biết tổ chức và vận động nhân dân , phụ huynh học sinh và các tổ chức xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục theo mục tiêu xác định .

- Để có kỹ năng trên , người thầy phải :

+ Biết vạch kế họach : suy nghĩ chín chắn , sâu sắc các tình huống giáo dục và đặc điểm đối tượng , kế hoạch phải kết hợp yêu cầu trước mắt và lâu dài , đảm bảo tính nguyên tắc và linh họat , kiểm tra kế hoạch để đánh giá hiệu quả và biết bổ sung kế hoạch .

+ Biết sử dụng đúng đắn các hình thức và phương pháp dạy học và giáo dục khác nhau nhằm tổ chức tốt việc học tập và có tác dụng sâu sắc đến tư tưởng và tình cảm của học sinh .

+ Biết định ra mức độ và giới hạn của từng biện pháp .

+ Có nghị lực và dũng cảm tin vào sự đúng đắn của kế họach và biện pháp giáo dục.

V.Sự hình thành uy tín người thầy:

-Người thầy giáo có uy tín thường có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của các em, được các em yêu mến và kính trọng. Sức mạnh tinh thần và khả năng cảm hóa của người thầy có uy tín thường được nâng lên gấp bội.

-Thực chất của uy tín, cô đọng lại đó là tấm lòng và tài năng của người thầy. Vì có tấm lòng, người thầy mới có tấm lòng yêu thương học sinh, tận tụy với công việc và đạo đức trong sáng.. Bằng tài năng, người thầy đạt được hiệu quả cao trong dạy học và giáo dục. Do đó, đối với nhiều học sinh, người thầy có uy tín đã trở thành hình tượng lý tưởng của cuộc đời các em và các em mong muốn xây dựng cuộc sống của mình theo hình mẫu lý tưởng đó.

-Uy tín thực, uy tín chân chính được toát lên từ toàn bộ cuộc sống của người thầy, nó là kết quả của sự hoàn thiện nhân cách, là hiệu quả lao động đầy kiên trì và giàu sáng tạo, là do sự kiến tạo quan hệ tốt đẹp giữa thầy và trò.

- Điều kiện để hình thành uy tín thầy giáo:

* Thương yêu học sinh và tận tụy với nghề.

* Công bằng trong đối xử :không thiên vị , không thành kiến , không cảm tính.

* Phải có chí tiến thủ :nguyện vọng tự phát triển , nhu cầu về sự mở rộng tri thức , hòan thiện kỹ năng nghề nghiệp.

* Có phương pháp và kỹ năng tác động trong dạy học và giáo dục hợp lý , hiệu quả và sáng tạo.

* Mô phạm , gương mẫu về mọi mặt , mọi lúc và mọi nơi .

Tóm lại , nhân cách là bộ mặt chính trị , đạo đức của người thầy giáo , là công cụ chủ yếu để tạo ra sản phẩm giáo dục . Sự hình thành và phát triển nhân cách là cả một quá trình tu dưỡng , bồi dưỡng văn hóa và rèn luyện tay nghề trong chính thực tiễn sư phạm .

#Blog #giáodục #Câuchuyệngiáodục #Chiasẻ #Hoànthiện #hoànthiện

Post not marked as liked


I.Sự cần thiết phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhân cách người thầy:

1. Sản phẩm lao động của người thầy là nhân cách học sinh do những yêu cầu khách quan của xã hội qui định:

Sản phẩm nhân cách học sinh là kết quả tổng thể của cà thầy lẫn trò nhằm biến những tinh hoa của nền văn minh xã hội thành tài sản riêng - sự phát triển tâm lí, của trò. Sự phù hợp giữa yêu cầu khách quan của nghề dạy học với những phẩm chất tương ứng trong nhân cách người thầy sẽ tạo nên chất lượng cao của sản phẩm giáo dục.

2. Thầy giáo là người quyết định trực tiếp chất lượng giáo dục:

Trình độ tư tưởng, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn và sự phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh không chỉ phụ thuộc vào chương trình và sách giáo khoa, cũng không chỉ phụ thuộc vào nhân cách học sinh, mà còn phụ thuộc vào người thầy, vào phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn và khả năng tay nghề của nhân vật chủ đạo trong nhà trường.

3. Thầy giáo là cái “dấu nối” giữa văn hóa nhân loại và dân tộc với việc tái tạo nền văn hóa đó chính trong thế hệ trẻ:

- Nền văn hóa của nhân loại, của dân tộc chỉ được bảo tồn và phát triển thông qua sự lĩnh hội nền văn hóa của thế hệ trẻ. Tuổi trẻ không làm được việc đó mà phải huấn luyện theo phương thức đặc biệt là nhà trường thông qua vai trò của người thầy.

- Tri thức khoa học là phương tiện hoạt động dạy của người thầy, đồng thời là mục đích hoạt động học của trò. Trò hoạt động theo sự tổ chức và điều khiển của thầy để tái sản xuất nền văn hóa của nhân loại, của dân tộc, tạo ra sự phát triển tâm lý của chính mình, tạo ra những năng lực mới mang tính con người .

- Thầy đã biến quá trình giáo dục của mình thành quá trình tự giáo dục của trò. Vì thế giáo dục và tự giáo dục thống nhất với nhau trong việc làm nên sản phẩm giáo dục nhân cách.

- Sứ mạng trên của người thầy thật vẻ vang, nhưng công việc không đơn giản, không mang tính lặp lại, nó phải dựa trên cơ sở nắm vững con đường mà loài người đã đi qua khi phát hiện ra những tri thức khoa học phải dựa trên cơ sở của những thành tựu tâm lý học, giáo dục học hiện đại, đồng thời phải am hiểu đầy đủ đặc điểm và trình độ phát triển về mọi mặt của trẻ nhất là trí tuệ và đạo đức.

- Công việc đó đòi hỏi một quá trình học tập lí luận nghiêm túc, trau dồi chuyên môn, rèn luyện tay nghề…,nói chung là trau dồi nhân cách người thầy.

II.Đặc điểm lao động của người thầy:

1.Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người:

- Vì đối tượng quan hệ trực tiếp là con người, đòi hỏi người thầy phải có sự tôn trọng, lòng tin, tình thương, sự đối xử công bằng, thái độ ân cần, lịch sự, tế nhị…

- Đối tượng của người thầy và con người đang trong thời kì chuẩn bị, đang ở buổi bình minh của cuộc đời. Xã hội tương lai mạnh hay yếu, phát triển hay trì trệ tùy thuộc vào nội dung và chất lượng của thời kì chuẩn bị này.

2.Nghề mà công cụ chủ yếu là nhân cách của chính mình:

- Trong dạy học và giáo dục, thầy dùng nhân cách của chính mình để tác động vào học sinh. Đó là phẩm chất chính trị là sự giác ngộ về lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, là lòng yêu nghề mến trẻ, là trình độ học vấn, là sự thành thạo về nghề nghiệp, là lối sống, cách ứng xử và kỹ năng giao tiếp…

- Nghề đào tạo con người lại là nghề lao động nghiêm túc, không được phép tạo ra thứ phẩm hay phế phẩm như ở một số nghề khác.

- Để trở thành một người thầy tốt, trước hết cần phải sống một cuộc sống chân chính, vẹn toàn nhưng đồng thời phải có ý thức và kĩ năng tự hoàn thiện mình. Tâm hồn của nhà giáo phải được bồi bổ rất nhiều để có khả năng truyền lại gấp bội cho thế hệ trẻ.

3. Nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội:

- Sức lao động chính là toàn bộ sức mạnh vật chất hay tinh thần ở trong con người, nhân cách sinh động của cá nhân cần thiết để sản xuất ra sản phẩm vật chất hay tinh thần có ích cho xã hội.

- Chức năng của giáo dục, mà thầy giáo là lực lượng chủ yếu, chính là bồi dưỡng và phát huy sức mạnh đó ở trong con người.

4. Nghề đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sang tạo cao:

- Ai có ở trong nghề thầy giáo, ai có làm việc với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, với lương tâm nghề nghiệp cao thượng thì mới cảm thấy lao động sư phạm là một loại lao động căng thẳng, tinh tế, không rập khuôn, không đóng khung trong một giờ giảng, trong khuôn khổ nhà trường.

- Dạy học đòi hỏi người thầy phải dựa trên nền tảng khoa học xác định, khoa học bộ môn cũng như khoa học giáo dục và có những kĩ năng sử dụng chúng vào từng tình huống sư phạm cụ thể, thích ứng với từng cá nhân sinh động.

- Tính khoa học, tính sáng tạo cao đến mức khi thể hiện nó như là một người thợ cả lành nghề, một nghệ sĩ của quá trình sư phạm.

5.Nghề lao động trí óc chuyên nghiệp, với hai đặc điểm:

- Phải có thời kì khởi động, nghĩa là thời kì để cho lao động đi vào nề nếp, tạo ra hiệu quả.

- Vượt ra khỏi không gian [lớp, trường], thời gian [8 giờ làm việc]

III.Cấu trúc nhân cách người thầy:

- Nói đến nhân cách là nói đến tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc - nét đặc trưng và giá trị tinh thần -giá trị làm người , của mỗi người.

Vậy cấu trúc nhân cách gồm phẩm chất [đức ] và năng lực [ tài ].

*Các phẩm chất: thế giới quan khoa học, lí tưởng đào tạo thế hệ trẻ lòng yêu trẻ, lòng yêu nghề, những phẩm chất đạo đức phù hợp với hoạt động của nghề giáo.

*Các năng lực sư phạm: năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục, tri thức và tầm hiểu biết, năng lực chế biến tài liệu học tập, năng lực dạy học và giáo dục, năng lực dạy học, năng lực ngôn ngữ, năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh, năng lực đối xử khéo léo sư phạm, năng lực tổ chức hoạt động sư phạm.

A. Phẩm chất người thầy :

1.Thế giới quan khoa học :

-Thế giới quan :Hệ thống quan điểm của con người trước những quy luật tự nhiên, về xã hội - nó vừa là sự hiểu biết , quan điểm vừa là sự thể nghiệm , là tình cảm sâu sắc .

-Thế giới quan duy vật biện chứng của người thầy giáo Việt Nam được hình thành do ảnh hưởng của trình độ học vấn , của quá trình nghiên cứu nội dung giảng dạy, nghiên cứu triết học và nói chung là toàn bộ thực tế đất nước [kinh tế , khoa học , văn hóa , nghệ thuật …] .

-Thế giới quan người thầy chi phối mọi mặt hoạt động cũng như thái độ đối với các hoạt động như việc lựa chọn phương pháp giảng dạy và giáo dục , việc kết hợp giữa giáo dục với nhiệm vụ chính trị xã hội , gắn nội dung giảng dạy với thực tiễn cuộc sống , phương pháp xử lý và đánh giá mọi biểu hiện tâm lý của học sinh .

2. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ:

- Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ là ngôi sao dẫn đường giúp cho người thầy luôn đi lên phía trước ,thấy hết giá trị lao động của mình đối với thế hệ trẻ,đồng thời cũng ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách học sinh .

- Biểu hiện của lý tưởng đó là niềm say mê nghề nghiệp , lòng yêu trẻ lương tâm nghề nghiệp , tận tụy hi sinh với công việc , tác phong làm việc cần cù, trách nhiệm cao lối sống giản dị và thân tình… .Những cái đó giúp người thầy thêm sức mạnh vượt qua mọi khó khăn về vật chất và tinh thần, hoàn thành nhiệm vụ. Hơn nữa nó sẽ để lại những dấu ấn đậm nét trong tâm trí học sinh ,nó có tác dụng hướng dẫn, điều khiển quá trình hình thành và phát triển của trẻ.

3.Lòng yêu trẻ:

-“Đối với một nhà giáo dục, điều chủ yếu là tình người, đó là một nhu cầu sâu sắc trong con người.Những mầm móng của hứng thú sư phạm là ở chỗ hoạt động sáng tạo đầy tình người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Vì khi tạo ra niềm vui cho người khác , cho trẻ thơ thì ở chỗ họ sẽ có một tài sản vô giá : đó là tình người, mà tập trung là sự nhiệt tâm, thái độ ân cần và chu đáo, lòng vị tha.” [Xukhômlinski].

-Lòng yêu trẻ được thể hiện :

* Cảm thấy sung sướng và niềm vui khi được tiếp xúc với trẻ, khi đi sâu vào thế giới độc đáo của trẻ. Nếu tình cảm này được nảy nở sớm được bao nhiêu, càng được thoả mãn sớm chừng nào qua hoạt động phù hợp thì ở người đó càng sớm chiếm nhiều tình yêu và nguyện vọng hoạt động sư phạm bấy nhiêu.

* Thái độ quan tâm đầy thiện ý và ân cần đối với trẻ,kể cả những em học kém và vô kỷ luật.

* Luôn thể hiện tinh thần giúp đỡ trẻ bằng ý kiến hoặc bằng hành động thực tế của mình một cách chân thành và giản dị, không có sự phân biệt đối xử với mọi đối tượng học sinh.

* Tuy nhiên lòng yêu trẻ của người thầy không thể pha trộn với những nét uỷ mị, mềm yếu và thiếu đề ra yêu cầu cao và nghiêm khắc đối với trẻ.

4.Lòng yêu nghề [Yêu lao động sư phạm].

-Có lòng yêu người, yêu trẻ mới có lòng yêu nghề.Người thầy phải luôn nghĩ đến việc cống hiến cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ. Trong công tác họ luôn luôn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, luôn cải tiến nội dung và phương pháp, không tự thoả mãn với trình độ hiểu biết và tay nghề của mình. Họ thường có niềm vui khi được giao tiếp với học sinh; sự giao tiếp này sẽ làm phong phú cuộc đời người thầy: càng làm cho người thầy có nhiều cảm xúc tích cực và say mê hơn.

-“Để đạt được thành tích trong công tác, người thầy giáo phải có một phẩm chất –đó là tình yêu. Người thầy giáo có tình yêu trong công việc là đủ cho họ trở thành giáo viên tốt” [L.N Tônxtôi].

5.Một số phẩm chất đạo đức và ý chí của người thầy :

-Gồm :Tinh thần nghĩa vụ, tinh thần “mình vì mọi người”, nhân đạo, lòng tôn trọng, thái độ công bằng, chính trực tính tình ngay thẳng , giản dị và khiêm tốn, tính mục đích , tính nguyên tắc, tính kiên nhẫn ,tự kiềm chế , tự chiến thắng những thói hư tật xấu, kỹ năng điều khiển tình cảm tâm trạng cho thích hợp với tình huống sư phạm .vvv…

-Những phẩm chất đạo đức là nhân tố tạo ra sự cân bằng theo quan điểm sư phạm trong các mối quan hệ cụ thể giữa thầy và trò.

-Những phẩm chất ý chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng lực của người thầy thành hiện thực và tác động sâu sắc đến học sinh.

B.Năng lực sư phạm: Gồm

-Nhóm năng lực dạy học .

-Nhóm năng lực giáo dục .

-Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm.

1.Nhóm năng lực dạy học:

a. Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục:

-Đó là năng lực thâm nhập vào thế giới bên trong của trẻ, sự hiểu biết tường tận về nhân cách của chúng, cũng như năng lực quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lý của học sinh.

-Chuẩn bị bài giảng phải biết đến trình độ văn hoá , trình độ phát triển của chúng, hình dung được từng em, cái gì chúng biết , biết đến đâu,cái gì có thể quên hoặc khó hiểu khi soạn giảng phải biết đặt mình vào vị trí của người học .Đặc biệt suy nghĩ về đặc điểm của nội dung, xác định khối lượng, mức độ khó khăn và hình thức trình bày sao cho thuận lợi nhất đối với học sinh.

-Người thầy hiểu học sinh trong vấn đề giảng dạy của mình, căn cứ vào một loạt dấu hiệu do quan sát tinh tế có thể xây dựng những biểu tượng chính xác về những lời giảng giải của mình đã được các học sinh khác nhau lĩnh hội như thế nào .

Người thầy có năng lực hiểu học sinh còn biểu hiện ở chỗ dự đoán được thuận lợi và khó khăn, xác định đúng đắn mức độ căng thẳng cần thiết khi thực hiện các nhiệm vụ nhận thức.

-Năng lực này là kết quả của một quá trình lao động đầy trách nhiệm, thương yêu và sâu sát học sinh, nắm vững môn mình dạy, am hiểu đầy đủ về tâm lý học trẻ , tâm lý học sư phạm, sự tinh ý sư phạm quan sát, óc tưởng tượng, khả năng phân tích, tổng hợp…

b/ Tri thức và tầm hiểu biết của người thầy:

-Là năng lực cơ bản của năng lực sư phạm, một trong những năng lực trụ cột của nghề dạy học:

* Thầy có nhiệm vụ phát triển nhân cách học sinh nhờ một phương tiện đặc biệt là tri thức, quan điểm…

* Công việc thầy giáo là vừa dạy học,vừa giáo dục – một dạng lao động phong phú và đa dạng .Vừa dạy một môn học ,vừa bồi dưỡng cho thế hệ trẻ có một nhãn quan rộng, có những hứng thú và thiên hướng thích hợp.

* Khoa học – công nghệ phát triển nhanh, hơn nữa yêu cầu của xã hội đối với giáo dục ngày càng cao, hứng thú và nguyện vọng của trẻ ngày càng phát triển.

* Tri thức và tầm hiểu biết có tác dụng mạnh mẽ tạo ra uy tín của người thầy.

-Người thầy có tri thức và tầm hiểu biết rộng thể hiện:

* Nắm vững và hiểu biết rộng môn mình giảng dạy.

*Thường xuyên theo dõi, nắm bắt những xu hướng, những phát minh trong khoa học thuộc môn mình phụ trách, có hứng thú lớn lao đối với bộ môn.

*Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình.

-Điều kiện để có năng lực này là hai yếu tố cơ bản trong chính mỗi người thầy: nhu cầu về sự mở rộng tri thức và tầm hiểu biết ,đó là nguồn gốc của tính tích cực và động lực của việc tự học và những kỹ năng , phương pháp tự học để làm thỏa mãn nhu cầu đó.

c/ Năng lực soạn giảng:

- Đó là năng lực gia công về mặt sư phạm của thầy đối với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp tối đa với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá nhân học sinh, trình độ kinh nghiệm của các em và đảm bảo lôgic sư phạm.

- Thầy phải biết đánh giá đúng đắn tài liệu, xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của chương trình với trình độ nhận thức của học sinh.

- Bước tiếp theo là phải chế biến, gia công tài liệu làm cho nó vừa đảm bảo lôgic khoa học vừa phù hợp với lôgic sư phạm, lại thích hợp với trình độ nhận thức của trẻ. Hơn nữa cũng cần phải biết bổ sung tài liệu đó bằng những điều lấy từ sách vở, từ quan sát và thu thập từ cuộc sống.

- Điều kiện để có năng lực trên là:

* Người thầy có khả năng phân tích, tổng hợp,hệ thống hóa kiến thức, ... suy nghĩ cách trình bày, dẫn dắt quá trình tiếp thu của trẻ.

* Phải có óc sáng tạo, truyền đạt kiến thức cho người khác hiểu không phải đơn giản. Việc xây dựng lại cấu trúc tài liệu cho phù hợp với đặc điểm đối tượng là một quá trình lao động sáng tạo. Tuy nhiên, không có nghĩa là làm cho tài liệu đơn giản, thô thiển, hạ thấp trình độ học sinh.

* Tính sáng tạo khi chế biến tài liệu thể hiện ở chỗ:

* Trình bày tài liệu theo suy nghĩ và lập luận cuả mình, cung cấp cho học sinh những kiến thức chính xác, liên hệ được nhiều mặt giữa kiến thức cũ và kiến thứ mới, kiến thức bộ môn này với bộ môn khác, liên hệ vận dụng vào thực tiễn.

-Tìm ra phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng đầy sức lôi cuốn và giàu cảm xúc tích cực.

-Nhạy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo.

d/ Nắm vững kỹ thuật dạy học:

- Là nắm vững cách tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của trò qua bài giảng. Thể hiện ở chỗ:

* Nắm vững kỹ thuật dạy học mới, tạo cho học sinh ở vị trí “người phát minh” trong quá trình dạy học.

* Truyền đạt tài liệu chính xác, rõ ràng dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với học sinh.

* Gây hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập.

* Tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập như động viên, khêu gợi sự chú ý, chuyển hóa kịp thời từ trạng thái làm việc sang trạng thái nghỉ ,giảm căng thẳng giây lát và ngược lại, khác phụ sự suy giảm hoạt động trong giờ giảng hoặc thái độ thờ ơ, uể oải.

Hình thành năng lực như vậy, nắm vững kỹ thuật dạy học vừa nêu không phải dễ dàng. Trái lại, nó là kết quả của một quá trình học tập nghiêm túc ,cả lý luận cơ bản và lý luận nghiệp vụ và rèn luyện tay nghề công phu.

2. Năng lực ngôn ngữ:

Là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ và tình cảm của mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu bộ .Nó là công cụ sống còn bảo đảm người thầy thực hiện chức năng của mình vì :bằng ngôn ngữ thúc đẩy sự chú ý và suy nghĩ của học sinh vào bài giảng ,truyền đạt thông tin điều khiển và điều chỉnh họat dộng và nhận thức của học sinh.

- Biểu hiện của năng lực ngôn ngữ :

Về nội dung :

* Ngôn ngữ phải chứa đựng mật độ thông tin lớn ,diễn tả , trình bày phải chính xác , cô động ; đó là kết quả của sự uyên thâm về hiểu biết , của sự suy nghĩ sâu sắc .

* Lời nói phải phản ảnh sự kế tục và tính luận chứng để đảm bảo thông tin liên tục , lôgic .

* Nội dung và hình thức ngôn ngữ phải thích hợp với các nhiệm vụ nhận thức khác nhau :thông báo tài liệu mới , bình luận câu trả lời của học sinh , biểu lộ sự tán đồng hay bất bình ...

* Nhận thức người thầy là hậu thuẫn vững chắc và duy nhất cho lời nói của mình . Sức mạnh ,sự lôi cuốn , lực hấp dẫn , tính điều chỉnh của lời nói của người thầy giáo tùy thuộc vào nhân cách , uy tín của chính họ .

Về hình thức :

* Hình thức ngôn ngữ của người thầy có năng lực thường giản dị , sinh động ,giàu hình ảnh có ngữ điệu , sáng sủa, biểu cảm , với cách pháp âm mạch lạc trong đó không có những ai phạm về mặt tu từ học , về ngữ pháp , ngữ âm .

Vì thế , người thầy giáo cần suy nghĩ để lựa chọn hình thức trình bày sao cho dễ hiểu, có chiều sâu về tư tưởng có sức lay động được tâm hồn của học sinh . Những lời nói cầu kỳ ,hoa mỹ nhưng rỗng tuếch thường không gây ấn tượng tốt cho học sinh.

* Phải thúc đẩy tối đa sự chú ý và suy nghĩ của học sinh vào bài giảng ,cần tránh những câu dài ,cấu trúc từ phức tạp , những thuật ngữ và cách trình bày khó hiểu .Sự khôi hài đúng chỗ, sự pha trò nhẹ nhàng , sự châm biếm dí dỏm , có thiện ý sẽ có tác dụng giúp học sinh tích cực suy nghĩ , học tập sôi nổi và tiếp thu tốt .

* Nhịp điệu ngôn ngữ cũng rất quan trọng : nếu đều đều , đơn điệu sẽ gây mệt mỏi rất nhanh chóng , làm người nghe chán chường , uể oải và thờ ơ .Nhịp điệu quá gấp cũng gặp khó khăn trong việc lĩnh hội , chóng gây mệt mỏi ,ức chế bảo vệ phát sinh nhanh . Ngôn ngữ quá to ,quá mạnh hoặc quá yếu , giọng thé cũng ảnh hưởng tương tự .

Vậy nhịp độ tối ưu đôi với sự lĩnh hội của học sinh là trung bình, họat bát .

2 . Nhóm năng lực giáo dục .

a/ Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh :

- Là năng lực biết dựa vào mục đích giáo dục , yêu cầu đào tạo , hình dung trước cần phải giáo dục cho từng học sinh những phẩm chất nhân cách nào và hướng họat động của mình để đạt tới hình mẫu trọn vẹn của con người mới .

- Biểu hiện của năng lực này :

* Vừa có kỹ năng tiên đóan sự phát triển của những thuộc tính này hay khác ở từng học sinh , vừa nắm được nguyên nhân sinh ra cũng như mức độ phát triển của những thuộc tính đó .

* Có sự sáng rõ về những biểu tượng nhân cách của học sinh sẽ thu được trong tương lai dưới ảnh hưởng của những dự án phát triển nhân cách do mình xây dựng .

* Hình dung được hiệu quả của các tác động giáo dục nhằm hình thành nhân cách theo dự án.

Năng lực này được tạo ra bởi nhiều yếu tố tâm lý như : óc tưởng tượng sư phạm , tính lạc quan sư phạm , niềm tin vào sức manh giáo dục , niềm tin vào con người và óc quan sát sư phạm .Nhờ năng lực nầy , công việc của người thầy trở nên có kế họach ,chủ động và sáng tạo .

b/ Năng lực giao tiếp sư phạm :

- Là năng lực nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên ngoài và bên trong của học sinh và bản thân , Đồng thời ,biết sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ , biết cách tổ chức , điều khiển và điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giáo dục .

-Biểu hiện của năng lực giao tiếp :

* Kỹ năng định hướng giao tiếp : dựa vào sự biểu lộ bên ngoài như sắc thái biểu cảm , ngữ điệu ,thanh điệu của ngôn ngữ cử chỉ ,tác động , thời điểm và không gian giao tiếp mà phán đóan chính xác về nhân cách cũng như mối quan hệ giữa chủ thể [giáo viên] và đối tượng [học sinh] giao tiếp .

* Năng lực định vị :là sự đồng cảm giữa chủ thể và đối tượng , kỹ năng này là khả năng biết xác định vị trí trong giao tiếp , đặt vị trí của mình vào vị trí của đối tượng , tạo điều kiện để đối tượng chủ động , thoải mái giao tiếp với mình .

* Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp : biết thu hút đối tượng , tìm ra đề tài giao tiếp , xác định được hứng thú , nguyện vọng của đối tượng . Kỹ năng này bao gồm các kỹ năng như làm chủ trạng thái xúc cảm của bản thân , biết sử dụng tòan bộ các phương tiện giao tiếp : ngôn ngữ , cử chỉ , điệu bộ nét mặt , nụ cười , liếc mắt …

c / Năng lực cảm hóa học sinh :

- Là năng lực gây được ảnh hưởng trực tiếp của mình đến với học sinh về mặt tình cảm và ý chí . Nói cách khác , đó là khả năng làm cho học sinh nghe , tin và làm theo mình bằng tình cảm , niềm tin .

Năng lực trên tùy thuộc vào một tổ hợp các phẩm chất nhân cách người thầy như tinh thần trách nhiệm , niềm tin vào sự nghiệp chính nghĩa , kỹ năng truyền đạt niền tin đó , lòng tôn trọng học sinh , sự khéo léo , chu đáo , lòng vị tha và các phẩm chất của ý chí Học sinh không nhất trí , không tán thành sự nhu nhược, sư khoan dung vô nguyên tắc , sự cả tin một cách ngây thơ , sự uể oải , sự thiếu kiên quyết của người thầy .

- Năng lực này đòi hỏi người thầy phải phấn đấu tu dưỡng để có một nếp sống văn hóa cao , một phong cách mẫu mực nhằm tạo ra uy tín chân chính và thật sự , biểu hiện từ cử chỉ lời nói đến tinh thần lao động hăng say , lý tưởng nghề nghiệp cao đẹp ,….

- Phải xây dựng quan hệ thầy trò tốt đẹp vừa nghiêm túc vừa thân mật , có thái độ yêu thương và tin tưởng học sinh biết đối xử công bằng và dân chủ ,chân thành giản dị

- Có tư thế tác phong gương mẫu trước học sinh : ăn nói lịch sự nhã nhặn , tôn trọng cử chỉ đẹp , giọng điệu đàng hòang .

d/Năng lực đối xử khéo léo sư phạm .

- Là kỹ năng mà trong bất kỳ tình huống nào cũng tìm ra tác động sư phạm đúng đắn nhất như là một nghệ thuật .

- Biểu hiện :

* Sư nhạy bén về mức độ sử dụng bất cứ một tác động sư phạm nào :khuyến kích , trách phạt hay ra lệnh .

* Biết phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo những vấn đề xảy ra bất ngờ ,không nóng vội không thô bạo .

* Biết biến cái bị động thành chủ động , giải quyết một cách mau lẹ những vấn đề phức tạp đặt ra .

* Phải quan tâm chu đáo đến trẻ, có tính đến đầy đủ những đặc điểm tâm lý cá nhân học sinh.

-Cơ sở hình thành năng lực này : là lương tãm nghề nghiệp , niềm tin yêu và tôn trọng trẻ, tin thông nghề nghiệp.

3/Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm

-Biểu hiện :

*Biết tổ chức và cổ vũ học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau của công tác dạy học và giáo dục trên lớp hay ngoài nhà trường .

*Biết đòan kết học sinh thành một tập thể thống nhất , lành mạnh , có kỷ luật , có nề nếp .

* Biết tổ chức và vận động nhân dân , phụ huynh học sinh và các tổ chức xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục theo mục tiêu xác định .

- Để có kỹ năng trên , người thầy phải :

+ Biết vạch kế họach : suy nghĩ chín chắn , sâu sắc các tình huống giáo dục và đặc điểm đối tượng , kế hoạch phải kết hợp yêu cầu trước mắt và lâu dài , đảm bảo tính nguyên tắc và linh họat , kiểm tra kế hoạch để đánh giá hiệu quả và biết bổ sung kế hoạch .

+ Biết sử dụng đúng đắn các hình thức và phương pháp dạy học và giáo dục khác nhau nhằm tổ chức tốt việc học tập và có tác dụng sâu sắc đến tư tưởng và tình cảm của học sinh .

+ Biết định ra mức độ và giới hạn của từng biện pháp .

+ Có nghị lực và dũng cảm tin vào sự đúng đắn của kế họach và biện pháp giáo dục.

V.Sự hình thành uy tín người thầy:

-Người thầy giáo có uy tín thường có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của các em, được các em yêu mến và kính trọng. Sức mạnh tinh thần và khả năng cảm hóa của người thầy có uy tín thường được nâng lên gấp bội.

-Thực chất của uy tín, cô đọng lại đó là tấm lòng và tài năng của người thầy. Vì có tấm lòng, người thầy mới có tấm lòng yêu thương học sinh, tận tụy với công việc và đạo đức trong sáng.. Bằng tài năng, người thầy đạt được hiệu quả cao trong dạy học và giáo dục. Do đó, đối với nhiều học sinh, người thầy có uy tín đã trở thành hình tượng lý tưởng của cuộc đời các em và các em mong muốn xây dựng cuộc sống của mình theo hình mẫu lý tưởng đó.

-Uy tín thực, uy tín chân chính được toát lên từ toàn bộ cuộc sống của người thầy, nó là kết quả của sự hoàn thiện nhân cách, là hiệu quả lao động đầy kiên trì và giàu sáng tạo, là do sự kiến tạo quan hệ tốt đẹp giữa thầy và trò.

- Điều kiện để hình thành uy tín thầy giáo:

* Thương yêu học sinh và tận tụy với nghề.

* Công bằng trong đối xử :không thiên vị , không thành kiến , không cảm tính.

* Phải có chí tiến thủ :nguyện vọng tự phát triển , nhu cầu về sự mở rộng tri thức , hòan thiện kỹ năng nghề nghiệp.

* Có phương pháp và kỹ năng tác động trong dạy học và giáo dục hợp lý , hiệu quả và sáng tạo.

* Mô phạm , gương mẫu về mọi mặt , mọi lúc và mọi nơi .

Tóm lại , nhân cách là bộ mặt chính trị , đạo đức của người thầy giáo , là công cụ chủ yếu để tạo ra sản phẩm giáo dục . Sự hình thành và phát triển nhân cách là cả một quá trình tu dưỡng , bồi dưỡng văn hóa và rèn luyện tay nghề trong chính thực tiễn sư phạm .

#Blog #giáodục #Câuchuyệngiáodục #Chiasẻ #Hoànthiện #hoànthiện

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề