Nguyễn văn minh là ai

[tiếp theo và hết]

QĐND - Năm 2006, tại Mỹ diễn ra Hội thảo quốc tế về “Tình báo trong Chiến tranh Việt Nam”, do Trung tâm Việt Nam, thuộc Đại học Công nghệ Tếch-dớt cùng Trung tâm Nghiên cứu tình báo thuộc CIA phối hợp tổ chức. Một cựu nhân viên CIA đã nhận định rằng: “Đúng là phải có một điệp viên cộng sản từng nằm ngay trong lòng Bộ Tổng Tham mưu [ngụy]. Dường như không phải là sĩ quan cao cấp, không phải là tùy tùng thân cận của Tổng thống Thiệu, song chắc chắn nhân vật này đã gửi ra Bộ Chính trị Bắc Việt nhiều tin tình báo chiến lược”.

Thông tin đó, về sau đã được giải mật. Đó là điệp viên mang bí số H3 của Phòng Tình báo B2, với hơn 20 năm sống trong lòng địch, 16 năm sống trong sào huyệt của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, đã thể hiện bản lĩnh kiên cường và mưu trí “siêu việt”. Giữa “biển giáo, rừng gươm”, một mình hoạt động đơn tuyến, tính mạng lúc nào cũng treo “trên miệng cọp” nhưng ông đã bình tĩnh hoạt động, hoàn thành tốt các chức trách mà quân đội ngụy giao cho, tạo nên “tấm bình phong” an toàn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà cách mạng giao phó. Ông là Đại tá tình báo Nguyễn Văn Minh, Anh hùng LLVT nhân dân.

Điệp viên H3 và Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu [ngụy], nơi ông hoạt động trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ảnh chụp lại

Nguyễn Văn Minh sinh năm 1933, tại quê hương Hưng Yên, trong một gia đình thợ thủ công. Lớn lên, ông vào Sài Gòn tìm việc làm, lòng yêu nước đã thôi thúc ông tìm đến với cách mạng. 20 tuổi, ông đã là một công nhân hoạt động bí mật cho Mặt trận Liên Việt giữa lòng Sài Gòn. Đến năm 1959, ông được Quận ủy Thủ Đức phái khiển tìm cách lọt vào quân đội ngụy quyền Sài Gòn. Năm 1963, lợi dụng sự kiện chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị lật đổ, các phe phái ngụy quân, ngụy quyền chèn ép nhau để tranh quyền, đoạt lợi, ông đã tìm cách chui sâu vào hàng ngũ kẻ thù với chức danh nhân viên văn thư của Văn phòng Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Có. Không lâu sau đó, Nguyễn Cao Kỳ lật đổ Nguyễn Hữu Có nhưng với vỏ bọc là một nhân viên quân sự mẫn cán, tận tụy với công việc, được nhiều người trong văn phòng quý mến nên ông được tân Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên tiếp tục tin dùng. Từ đó, H3 trở thành một trong 4 nhân viên văn thư của Văn phòng Tổng tham mưu trưởng.

Công việc hằng ngày của H3 là tiếp nhận và lưu trữ công văn đi-công văn đến giữa Văn phòng Tổng tham mưu trưởng với các cơ quan, đơn vị trong quân đội ngụy; đặc biệt là trao đổi công văn với Phủ Tổng thống, với các cơ quan Bộ Quốc phòng, các quân đoàn, quân khu. Công việc này tạo cơ hội để H3 tiếp xúc với các tài liệu tối mật của địch. Chính vì vậy, những tài liệu, tin tức mà H3 cung cấp cho ta rất có giá trị, bảo đảm độ chính xác cao.

Làm việc trong môi trường tối mật như vậy, H3 luôn bị các cơ quan mật vụ, an ninh của địch để ý, theo dõi nhưng anh đã tìm ra cách hoạt động để che mắt kẻ thù. Không thể tiến hành sao chụp tài liệu vì nếu làm như thế dễ bị lộ, H3 đã rèn luyện để ghi nhớ, chép lại toàn bộ các công văn ông tiếp xúc hằng ngày rồi chuyển về lưới tình báo do đồng chí Hai Kim phụ trách. Cách làm này đòi hỏi trí não ông hoạt động không ngơi nghỉ. Đôi mắt ông lúc về già bị mờ đi rất nhanh do hoạt động quá tải trong hàng chục năm ròng. Để có thể nắm nhiều tài liệu của địch, ông khéo léo nhận về mình nhiều phần việc trong số 4 nhân viên văn thư. Ngày làm việc cho địch, đêm thức viết lại để báo cho tổ chức; rất nhiều đêm ông thức trắng để báo cáo cho hết các nội dung công văn đã nắm được hằng ngày.

Hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân của ông viết ngắn gọn, nhưng đã phần nào ghi lại những thành tích “huyền thoại” của ông: “Được sự chỉ đạo chặt chẽ của cơ quan tình báo, đồng chí đã cung cấp nhiều tài liệu có giá trị chiến dịch, chiến lược quan trọng mà tình báo cần, với nhiều tài liệu nguyên bản đạt độ tin cậy và chính xác cao, giúp cho cơ quan chỉ đạo chiến lược của ta hiểu rõ âm mưu ý đồ của địch như: Ý đồ bình định nông thôn, kế hoạch lấn chiếm xóa các vùng giải phóng theo kiểu “lấp lỗ da báo”. Các tin tình báo do đồng chí Minh cung cấp là cơ sở tin cậy cho cơ quan chỉ đạo đánh giá đúng âm mưu ý đồ của Mỹ sau khi ký Hiệp định Pa-ri năm 1973. Tin của đồng chí luôn giúp trên khẳng định: “Đối với Mỹ không có nửa hòa, nửa chiến, Mỹ chỉ tìm cách xóa ta, nếu ta mạnh, Mỹ chịu thua, nếu ta yếu, Mỹ lấn tới”.

Tháng 3-1974, đồng chí Nguyễn Văn Minh đã cung cấp kế hoạch quân sự vùng 4 [kế hoạch Lý Thường Kiệt], đây là kế hoạch quân sự hằng năm sau khi Hiệp định Pa-ri về Việt Nam được ký kết.

Tháng 4-1974, đồng chí tiếp tục báo cáo bổ sung về hoạt động của các đơn vị dự bị chiến lược dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân, không quân..., đồng thời báo cáo tóm tắt kế hoạch quân sự toàn miền Nam của Mỹ-ngụy

Những tin tức của đồng chí cung cấp đã phục vụ cho Quân ủy Trung ương giải đáp một loạt các vấn đề chiến lược quan trọng trong một thời điểm then chốt.

Khi ta chuẩn bị Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, tin tức của đồng chí đã giúp trên khẳng định: “Khi ta đánh vào Sài Gòn thì Mỹ không trực tiếp tham chiến trở lại”, “Mỹ coi như chiến tranh ở Việt Nam đối với Mỹ đã kết thúc, Mỹ sẽ không chi viện cho quân ngụy bằng lực lượng chiến đấu của Mỹ”. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chọn giải pháp cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 trong thời gian ngắn nhất".

Ngoài những tin tức có ý nghĩa chiến lược trên, đồng chí còn cung cấp những tin tức về chủ trương mới của quân ngụy; theo dõi diễn biến toàn miền; tin địch nhận định về ta; chủ trương đối phó của địch; việc bố trí binh lực giữa các quân khu; việc sử dụng lực lượng tổng trù bị dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân, không quân; việc địch tổ chức lại lực lượng sau những lần tổn thất; những hoạt động của địch nhằm phát hiện việc điều động bố trí lực lượng lớn của ta; những hoạt động đánh phá ngăn chặn ta và những khó khăn, lúng túng của địch...

Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Minh.

Hơn 20 năm hoạt động bí mật giữa lòng địch, có 16 năm hoạt động trong quân đội ngụy, trong đó có gần 10 năm nằm trong cơ quan Bộ Tổng Tham mưu ngụy, đồng chí đã tạo cho mình một vỏ bọc ở vị trí cao sâu. Những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước [1973-1975], đồng chí là cơ sở chủ yếu cung cấp được khối lượng lớn tin tức, tài liệu về chiến dịch, chiến lược của địch, góp phần tích cực vào đại thắng Mùa xuân 1975, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao.

Trong sự kiện ngày 30-4-1975, khi Quân giải phóng đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu ngụy, chính Nguyễn Văn Minh đã động viên các viên chức trong văn phòng của tướng Cao Văn Viên gìn giữ, niêm phong kho tàng, hồ sơ, bảo toàn tài liệu, máy móc trong văn phòng để bàn giao cho Quân giải phóng. Chuyện kể rằng, khi đồng chí Bảy Vĩnh [cũng là một cán bộ tình báo], chỉ huy một bộ phận Quân giải phóng xông vào Bộ Tổng Tham mưu ngụy đã “đụng” một viên thượng sĩ nhất của ngụy như đang chờ đợi. Viên thượng sĩ “quèn” đó đã ở lại cho tới 3 giờ chiều, khi mọi việc giao nộp sổ sách cho Quân giải phóng xong xuôi. Hệ thống máy tính lưu trữ hồ sơ của hơn 1 triệu quân ngụy cùng toàn bộ giấy tờ tại Văn phòng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên được niêm phong không mất một tờ nào. Viên thượng sĩ ấy trực tiếp trao chìa khoá, dẫn Quân giải phóng tiếp quản tất cả những gì còn lại ở cơ quan đầu não của Quân đội Việt Nam Cộng hòa.

32 năm sau [năm 2007], trong một gian nhà nhỏ ở TP Hồ Chí Minh, Đại tá tình báo Bảy Vĩnh [cũng là Anh hùng LLVT nhân dân] nhớ lại khoảnh khắc đó: "Khi tôi và anh em xông vào thì thấy 2 nhân viên văn phòng ngồi chờ. Các ngăn tủ đã được khoá kín. Tôi hỏi đường lên nóc Bộ Tổng Tham mưu thì một người đàn ông cao, gầy chỉ đường... Mãi về sau này, tôi mới có dịp gặp lại “kẻ chỉ đường” trong một tình huống hoàn toàn bất ngờ: Cuộc gặp mặt những anh em đồng đội của Phòng tình báo J22-Bộ Tham mưu Quân giải phóng miền Nam”. Cả 2 ông khi đó đã vào tuổi "thất thập cổ lai hy", đều cùng nghỉ hưu với quân hàm đại tá.

Thiếu tướng tình báo Sáu Trí [Nguyễn Văn Khiêm], nguyên Trưởng phòng tình báo Miền J22, đã ghi lại những dòng tưởng thưởng về người đồng đội ẩn danh H3: "Anh đã lấy tin, tài liệu về các phòng hành quân [BTTM]; tin tức, tài liệu giá trị lâu dài như kế hoạch Lý Thường Kiệt; về lực lượng đặc biệt. Âm mưu và thủ đoạn bình định của địch. Tình hình quân số, bố trí quân [chủ lực và địa phương]. Có những tin định kỳ quan trọng như biệt kích đổ bộ; tàu lặn, tinh thần quân đội Sài Gòn ở Quân khu 1 sau chiến dịch Quảng Trị của ta...

Chất lượng công tác của H3 đáp ứng đúng yêu cầu của lãnh đạo trong giai đoạn then chốt của cuộc chiến tranh: Ta cần hiểu sâu về địch để giành toàn thắng”.

H3-Nguyễn Văn Minh trở thành một trong những điệp viên huyền thoại, khiến kẻ thù kinh ngạc về bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần “thép” của ông. Năm 1999, ông vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng LLVT nhân dân.

HỒNG HẢI, THANH XUÂN, THU HÙNG

Bài 1: Đinh Thị Vân - Nữ anh hùng “uy vũ bất năng khuất”

Bài 2: Tư Cang-Hai Trung: Cặp đôi hoàn hảo

Bài 3: Phạm Ngọc Thảo: Điệp viên "có một không hai"

Bài 4: Đặng Trần Đức: Điệp viên giữa sào huyệt tình báo địch

Video liên quan

Chủ Đề