Nguồn của luật hình sự việt nam là gì năm 2024

Sau khi Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, chính quyền nhân dân non trẻ, khó khăn chồng chất khó khăn phải đối phó với “thù trong giặc ngoài”; trong khi đó, kinh tế đất nước trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, phải thực hiện đồng thời các nhiệm vụ lớn, đó là: diệt giặc đói, giặc dốt; chống giặc ngoại xâm giữ vững chính quyền. Trước muôn vàn khó khăn, nhưng ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành ngay nhiều sắc lệnh, văn bản để bảo vệ tài sản nhà nước và tài sản của nhân dân, bảo vệ hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, ngăn ngừa những hành vi xâm hại, vi phạm pháp luật của cán bộ, Đảng viên. Tuy nhiên, các quy định về tội phạm về hối lộ trong giai đoạn này vẫn chưa được quy định cụ thể, có thể kể đến một số các văn bản điển hình và quan trọng có quy định về các tội phạm về hối lộ sau đây:

- Sắc lệnh số 223/SL, ngày 27/11/1946 về trừng trị các tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ. Theo đó, chủ thể của các tội phạm này không những là công chức và “còn gồm nhân viên Chính phủ, trong Ủy ban hành chính các cấp, các cơ quan do nhân dân bầu lên, trong bộ đội và tất cả những người phụ trách một công vụ”. Như vậy, chủ thể của tội phạm về tham nhũng, hối lộ khá rộng và được hiểu đó có thể là bất kỳ ai có chức vụ, quyền hạn. Các hình phạt được áp dụng rất nghiêm khắc, thể hiện sự đấu tranh kiên quyết của Đảng, Nhà nước ta với loại tội phạm này.

Điều 1 Sắc lệnh quy định:

Tội đưa hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ hoặc phù lạm, biển thủ công quỹ hay của công dân đều bị phạt khổ sai từ năm đến hai mươi năm và phạt bạc gấp đôi tang vật hối lộ, phù lạm hay biển thủ; tang vật hối lộ bị tịch thu sung công; người phạm tội có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản; các đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt như trên.

Điều 2 Sắc lệnh quy định:

Người phạm tội đưa hối lộ cho một công chức mà tự ý cáo giác cho nhà chức trách việc hối lộ ấy và chứng minh rằng đưa hối lộ là vì bị công chức cưỡng bách ước hứa hay là dùng cách trá ngụy thì người ấy được miễn hết các tội; trong trường hợp này, tang vật hối lộ được hoàn lại.

Có thể đánh giá, mặc dù được ban hành rất khẩn trương sau khi thành lập Nhà nước, Sắc lệnh số 223/SL, ngày 27/11/1946 đã thể hiện thái độ kiên quyết với các tội hối lộ và những hành vi khác lợi dụng chức vụ, quyền hạn xâm phạm tài sản Nhà nước, bảo đảm cho hoạt động đúng đắn của Nhà nước. Mặc dù chưa mô tả hành vi phạm tội và quy định hình phạt tiền cứng nhắc, nhưng Sắc lệnh đã thể hiện sự phân hóa trong đường lối xử lý đối với người phạm tội hối lộ, tham nhũng. Đối xử công bằng với người bị bắt ép hoặc có hành vi cưỡng ép đưa hối lộ, phân biệt rõ các trường hợp vô tình và cố tình, trừng trị nghiêm khắc các hành vi hối lộ, tham nhũng; có chính sách nhân đạo, khoan hồng đối với những người tự thú, tố giác đồng bọn. Bên cạnh đó, Sắc lệnh rất chú trọng đến việc thu hồi tài sản cho Nhà nước và hình phạt có xu hướng mang nặng tính chất kinh tế. Sắc lệnh số 223/SL ngày 27/11/1946 về trừng trị các tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ là văn bản PLHS đầu tiên của Nhà nước quy định về tội phạm về hối lộ, tham nhũng một cách rõ nét.

- Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm tài sản riêng của công dân được ban hành ngày 21/10/1970. Hai Pháp lệnh này được ban hành nhằm bảo vệ cơ sở vật chất XHCN và tạo cơ sở pháp lý cho công tác phòng, chống tội phạm. Một số tội phạm về tham nhũng được quy định là: Tội tham ô; nhận hối lộ, tội cố ý làm trái nguyên tắc chính sách về kinh tế, tài chính gây thiệt hại tài sản XHCN; tội lạm dụng chức quyền chiếm đoạt tài sản riêng của công dân.

- Chỉ thị số 139/TTg, ngày 28/5/1974 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn một số vấn đề xử lý các việc phạm pháp đã phát hiện trong quá trình thực hiện Nghị quyết 288/NQ-TW, ngày 12/01/1974 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về cuộc đấu tranh chống lấy cắp tài sản XHCN, chống làm ăn phi pháp, tăng cường quản lý lao động, quản lý thị trường, giữ vững trật tự trị an, phục vụ tốt đời sống nhân dân.

Sau ngày miền Nam giải phóng, Sắc lệnh số 03/SL ngày 15/3/1976 được Chính phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam ban hành đã quy định thêm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn và quy định tội nhận và đưa hối lộ. Nghị quyết hội nghị lần 06 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV đã đề ra chủ trương “Kiên quyết đấu tranh những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế và xã hội nhất là tệ nạn ăn cắp, hối lộ ức hiếp quần chúng”.

- Sắc lệnh số 03/SL, ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam quy định một số tội phạm trong đó có cả việc trừng trị các tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền hạn, tội đưa và nhận hối lộ [Điều 7]. Tuy nhiên, Sắc lệnh không mô tả dấu hiệu pháp lý của tội phạm, không quy định cụ thể các tình tiết tăng nặng và không quy định hình phạt bổ sung. Hạn chế này đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả phòng, chống các tội phạm cũng như cá thể hóa hình phạt đối với các tội phạm về tham nhũng ở nước ta [68].

Ngày 20/5/1981, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh trừng trị tội hối lộ. Pháp lệnh này ra đời đã thay thế các văn bản trước đó về tội hối lộ, lần đầu tiên trong pháp lệnh tội đưa hối lộ và môi giới hối lộ được quy định tại điều luật một cách độc lập. Pháp lệnh thể hiện tinh thần đấu tranh rất mạnh mẽ và triệt để đối với tội nhận hối lộ. Ngoài ra, tại Điều 9 quy định một trường hợp đặc biệt: “Người nào bị ép buộc đưa hối lộ, nếu chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội”. Chính sự phân hóa cao đối với những đối tượng thực hiện hành vi nhận hối lộ, đưa hối lộ, môi giới hối lộ có nhằm khuyến khích việc phát hiện tội hối lộ để đấu tranh có hiệu quả loại tội phạm thường rất khó phát hiện này. Như vậy, Pháp lệnh ngày 20/5/1981 đã thay thế các văn bản pháp luật hình sự trước đó về các tội hối lộ. Lần đầu tiên trong Pháp lệnh, tội nhận và đưa hối lộ được quy định thành một điều độc lập, các dấu hiệu pháp lý được mô tả, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ cũng được quy định tại các điều khoản cụ thể. Pháp lệnh đã loại bỏ những hạn chế của các văn bản pháp luật hình sự trước đây và giúp cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt được thuận lợi và chính xác.

Số lượng các văn bản kể trên cho thấy, ngay từ khi mới giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ rằng, muốn cho đất nước ổn định, bảo vệ chính quyền non trẻ và xây dựng thành công XHCN, thì phải đấu tranh không khoan nhượng với các tội phạm về tham nhũng, hối lộn nhằm xây dựng một Nhà nước trong sạch, công bằng, dân chủ và văn minh. Trong giai đoạn này, pháp luật hình sự đã quy định một số tội phạm về hối lộ điển hình như: Tội đưa hối lộ, Tội nhận hối lộ và một số tội phạm về tham nhũng, chức vụ [Tội đào nhiệm; tội tham ô; tội cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách về kinh tế, tài chính gây thiệt hại tài sản XHCN; tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn xâm phạm tài sản riêng của công dân; tội cố ý làm trái công vụ gây hậu quả nghiêm trọng...]. Các văn bản pháp luật hình sự trong thời kỳ này cũng đã quy định những hình phạt rất nghiêm khắc, đặc biệt đối với các tội phạm về hối lộ. Ngoài hình phạt chính, hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ, phạt tiền cũng đã được quy định, có tác dụng phòng ngừa, đồng thời bảo đảm cho việc xử lý tội phạm được triệt để.

2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước năm 1999

Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam cho thấy, từ khi thành lập nước cho đến trước khi thông qua Bộ luật hình sự năm 1985, khái niệm tội phạm về hối lộ chưa được đề cập, quy định trong các văn bản pháp luật hình sự. Tuy nhiên, theo thời gian và quá trình vận động, phát triển của xã hội và hệ thống văn bản pháp luật hình sự, các tội phạm về hối lộ được nghiên cứu, bổ sung và phát triển về mặt lý luận và các chế định pháp luật. Mặc dù vậy, về mặt kỹ thuật lập pháp hình sự, các văn bản pháp luật cũng mới chỉ mô tả dấu hiệu chung là dấu hiệu lới dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, còn khái niệm tội phạm về hối lộ chưa được chính thức ghi nhận trong hệ thống các văn bản pháp lý đó, về mặt thực tế, có thể khẳng định các nội dung đó đã được hình thành và áp dụng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Trên cơ sở kế thừa và phát triển luật hình sự từ năm 1945 đến năm 1980, tổng kết thực tiễn đấu tranh phòng, chống hối lộ và có những dự báo về diễn biến loại tội phạm này trong thời gian tới cũng như dựa trên các khái niệm chung về tội phạm, các nhà làm luật đã nghiên cứu, khái quát các khái niệm về tội phạm về chức vụ trong Điều 219 Bộ luật hình sự năm 1985. Khái niệm tội phạm về chức vụ trong Bộ luật hình sự đầu tiên ở nước ta phản ánh đầy đủ những dấu hiệu chung nhất, đặc trưng nhất cho một nhóm tội phạm cụ thể dựa trên tiêu chí cơ bản và quan trọng nhất là: Khách thể của tội phạm, chủ thể của tội phạm và yếu tố lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội... Đây chính là nền móng quan trọng cho quá trình kiến giải lập pháp, hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam sau này.

Ngày 27/6/1985 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa VII đã thông qua Bộ luật hình sự và đã có hiệu lực ngày 01/01/1986. Bộ luật hình sự năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu của luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đây là Bộ luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta, bộ luật gồm 2 phần: Phần chung và Phần các tội phạm, tổng cộng có 20 Chương với 280 Điều, trong đó Chương 9 quy định các tội về tham nhũng một cách tương đối và đầy đủ tạo điều kiện cho việc xử lý tội phạm tham nhũng thời gian qua, trong đó quy định về các tội phạm về hối lộ, cụ thể:

Điều 226 - Tội nhận hối lộ, quy định cụ thể người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền của hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm một việc thuộc trách nhiệm của mình hoặc không làm một việc phải làm, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm. Phạm tội trong trường hợp lạm dụng chức vụ, quyền hạn để làm một việc không được phép làm, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 10 năm. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Về tội nhận hối lộ, tuy đã được sửa đổi, bổ sung 03 lần [năm 1991, 1992 và 1997] nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Nhiều trường hợp do còn có những quan điểm khác nhau về đánh giá chứng cứ, đánh giá các dấu hiệu cấu thành tội phạm nên khó vận dụng, khó truy cứu trách nhiệm hình sự, dẫn đến hiệu quả đấu tranh chưa cao.

Điều 227 - Tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ, quy định người nào đưa hối lộ hoặc làm môi giới hối lộ thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp [có tổ chức, dùng thủ đoạn xảo quyệt, của hối lộ có giá trị lớn, gây hậu quả nghiêm trọng, phạm tội nhiều lần] sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến 15 năm. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù… Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.

Như vậy, Bộ luật hình sự năm 1985 đã cụ thể hóa các hành vi đưa, nhận và làm môi giới hối lộ trong cơ quan nhà nước; trong đó chỉ quy định ba hành vi phạm tội về hối lộ trong 02 điều, đã bước đầu đã xác định dấu hiệu pháp lý của các tội phạm này trong Bộ luật hình sự.

3. Giai đoạn từ năm 1999 đến trước năm 2015

Mặc dù Bộ luật hình sự năm 1985 đã sửa đổi, bổ sung ba lần, nhưng còn nhiều điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, nhằm đáp ứng nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Để đáp ứng yêu cầu đó, ngày 24/12/1999 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa X tại kỳ họp thứ 6, đã thông qua Bộ luật hình sự năm 1999. Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời là kết quả của sự tổng kết thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, Bộ luật hình sự này còn thể hiện toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, nó thực sự là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng của các đòng bào người dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, góp phần vào công cuộc đổi mới của đất nước, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bộ luật hình sự năm 1999, đã quy định các tội phạm về hối lộ một cách cụ thể và chặt chẽ hơn so với Bộ luật hình sự năm 1985. Các tội phạm về hối lộ được quy định ở Mục A trong Chương XXI Bộ luật hình sự năm 1999. Tội nhận hối lộ được quy định tại Điều 279. Không chỉ dừng lại ở đó, mà trong thời gian gần đây nhất, Quốc hội vừa thông qua luật Phòng, chống tham nhũng ngày 29/11/2005 và đã có hiệu lực ngày 01/6/2006. Luật phòng, chống tham nhũng này đã thay thế cho các văn bản quy phạm về phòng, chống tham nhũng trước đây.

Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành đã dành riêng 01 chương quy định về các tội phạm về chức vụ trong đó 01 mục [mục A] với 07 điều luật quy định về các tội phạm tham nhũng và 01 mục [mục B] với 07 điều luật quy định về các tội phạm khác về chức vụ. Tuy nhiên, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã quy định 12 hành vi tham nhũng chứ không phải 07 hành vi. Như vậy, các tội phạm về tham nhũng quy định tại Mục A, Chương XXI, Bộ luật hình sự năm 1999 không còn phù hợp với quy định về hành vi tham nhũng của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005. Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009 nhưng không sửa đổi, bổ sung các tội phạm về tham nhũng, nên các tội phạm về tham nhũng quy định tại Mục A, Chương XXI vẫn là 07 tội. Sự không thống nhất này giữa Luật Phòng, chống tham nhũng với Bộ luật hình sự tạo ra những hạn chế, rắc rối trong việc áp dụng các quy định của pháp luật.

Nguồn của luật hình sự là gì?

Nguồn của luật hình sự là cơ sở pháp lý của hoạt động áp dụng pháp luật, là đường biên ngăn ngừa các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự, đồng thời cũng là nhân tố quan trọng xác định cơ chế bảo vệ quyền con người của pháp luật hình sự Việt Nam.

Nguồn của luật dân sự là gì?

Vì thế, nguồn của luật dân sự là quy tắc ứng xử được ghi nhận trong các văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ban hành, những tập quán, khuôn mẫu được xác định từ án lệ mà theo đó, các chủ thể phải tuân theo khi tham gia và thực hiện các quan hệ dân sự.

Nguồn của pháp luật Việt Nam là gì?

Như vậy, hiểu một cách đơn giản nhất về nguồn của pháp luật là nơi tìm thấy các quy phạm pháp luật. Ở Việt Nam hiện nay có 3 loại nguồn luật cơ bản, đó là: văn bản quy phạm pháp luật [VBQPPL], tập quán pháp và tiền lệ pháp.

Bộ luật hình sự là do ai ban hành?

1. Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, xác định những hành vi nào nguy hiểm cho xã hội là tội phạm, đồng thời quy định hình phạt đối với các tội phạm.

Chủ Đề