Mục đích của nhân giống cây trồng là gì

Nhân giống [Breeding] là quá trình là sinh sản hữu tính tạo ra thế hệ kế tiếp [con cái] thường chỉ về động vật hoặc thực vật. Nó chỉ có thể xảy ra giữa một động vật hoặc thực vật giống đưc và giống cái [con giống]. Trong tiếng Việt, thuật ngữ nhân giống có thể chỉ về:

  • Nhân giống vật nuôi [là phương pháp nhân nuôi các loài động vật đã được con người thuần hoá để tạo ra các thế hệ, các lứa của giống vật nuôi]
  • Nhân giống cây trồng [là phương pháp nông nghiệp và làm vườn để gieo tạo ra các giống cây trồng, cây cảnh]

Ngoài ra, nhân giống còn đề cập đến:

  • Nhân giống chọn lọc
  • Nhân giống trong tự nhiên là việc các loài động vật, thực vật sinh sản trong tự nhiên theo quy luật
  • Nhân giống nuôi nhốt là một hình thức của nhân giống vật nuôi và thuật ngữ này được mở rộng cho cả khái niệm nhân giống các loài động vật hoang dã trong môi trường nuôi nhốt với mục đích bảo tồn động vật hoang dã
  • Nhân giống thuần chủng là biện pháp tạo ra các giống thuần chủng trong chăn nuôi
  • Nhân giống tạp giao
  • Nhân giống vô tính

Trang định hướng này liệt kê những bài viết liên quan đến tiêu đề Nhân giống.
Nếu bạn đến đây từ một liên kết trong một bài, bạn có thể muốn thay đổi liên kết trỏ trực tiếp đến bài viết dự định.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nhân_giống&oldid=64550904”

Nhân giống cây trồng là quá trình trồng cây mới từ nhiều nguồn khác nhau: hạt giống, cành giâm và các bộ phận khác của cây. Nhân giống thực vật cũng có thể đề cập đến sự phân tán bằng hình thức nhân tạo hoặc tự nhiên của thực vật.

Cây giống Gentian trong vườn ươm thực vật

 

Một cách để nhân giống bơ

Hạt và bào tử có thể được sử dụng để sinh sản [thông qua gieo hạt]. Hạt thường được sản xuất từ giới tính sinh sản trong một loài, vì tái tổ hợp di truyền đã xảy ra. Một cây được trồng từ hạt có thể có những đặc điểm khác với bố mẹ của nó. Một số loài sản xuất hạt giống cần điều kiện đặc biệt để nảy mầm, chẳng hạn như xử lý lạnh. Hạt giống của nhiều loại cây và thực vật Úc từ miền nam châu Phi và phía tây nước Mỹ đòi hỏi phải có khói hoặc lửa để hạt nảy mầm. Một số loài thực vật, bao gồm nhiều cây thân gỗ, không tạo ra hạt cho đến khi chúng đạt đến độ chín, có thể tiêu tốn khá nhiều thời gian. Hạt giống có thể khó thu được và một số cây không tạo ra hạt giống. Một số thực vật [như một số cây [1] được biến đổi bằng công nghệ hạn chế sử dụng di truyền] có thể tạo ra hạt giống, nhưng không phải là hạt giống màu mỡ.[2] Trong một số trường hợp nhất định, điều này được thực hiện để ngăn chặn sự lây lan vô tình của những cây này, ví dụ như bởi chim và các động vật khác.

 

Hoa hồng cắt dưới nhà kính chai nhựa

Thực vật có một số cơ chế để sinh sản vô tính hoặc sinh dưỡng. Một số trong số này đã được áp dụng trong trồng trọt và người làm vườn để nhân giống hoặc bản sao các cây nhanh chóng. Con người có thể sử dụng các quá trình này như các phương pháp nhân giống, chẳng hạn như nuôi cấy mô và ghép mô. Thực vật được sản xuất bằng vật liệu từ một bố mẹ duy nhất và do đó không có sự trao đổi vật liệu di truyền, do đó phương pháp nhân giống sinh dưỡng hầu như luôn tạo ra những cây giống hệt bố mẹ. Sinh sản sinh dưỡng sử dụng các bộ phận của cây như rễ, thân và lá.

Trong một số cây, hạt giống có thể được tạo ra mà không cần thông qua quá trình thụ tinh và hạt chỉ chứa vật liệu di truyền của cây mẹ. Do đó, nhân giống qua hạt vô tính hoặc tiếp hợp vô tính là sinh sản vô tính nhưng không phải là nhân giống sinh dưỡng.

 

Thân gỗ mềm ra rễ trong môi trường có kiểm soát

Kỹ thuật nhân giống sinh dưỡng bao gồm:

  • Chiết cành không khí hoặc mặt đất
  • giâm cành
  • Phân chia
  • Ghép và ghép chồi, được sử dụng rộng rãi trong nhân giống cây ăn quả
  • Vi nhân giống
  • Thân bò lan hoặc thân bò
  • Các cơ quan lưu trữ như thân hành, giả thân hành, củ và thân rễ
  • Giâm cành
  • Chia tỷ lệ
  • Chồi mầm

Một máy nhân giống được làm nóng là một thiết bị trồng trọt để duy trì môi trường ấm áp và ẩm ướt cho hạt và cành giâm phát triển.

Máy này có thể ở dạng một thùng kín sạch đặt trên một lớp đệm nóng, hoặc thậm chí là một lò sưởi di động chỉa vào thùng. Điều quan trọng là giữ độ ẩm trong thùng ổn định, trong khi vẫn giữ ánh sáng trên đầu của nó, thường xuyên.

Thảm nhân giống bằng điện là một tấm thảm cao su được sưởi ấm được bao phủ bởi một lồng kim loại được sử dụng trong làm vườn. Thảm được làm để những người trồng cây có chứa cây con có thể được đặt trên đỉnh của lồng kim loại mà không có nguy cơ bắt lửa. Trong thời tiết cực lạnh, những người làm vườn đặt một tấm nhựa lỏng lên trên những người trồng/chiếu tạo ra một nhà kính thu nhỏ. Nhiệt độ liên tục và có thể dự đoán cho phép mọi người làm vườn trong những tháng mùa đông khi thời tiết thường quá lạnh để cây con sống sót tự nhiên. Khi kết hợp với hệ thống chiếu sáng, nhiều loại cây có thể được trồng trong nhà bằng cách sử dụng những tấm thảm này.

  • Ngoại mạc
  • Khuẩn lạc vô tính
  • Nhân giống cây ăn quả
  • Hạt giống chính thống
  • Hạt giống khó nảy mầm
  • Phương pháp chọn lọc trong nhân giống cây trồng dựa trên chế độ sinh sản
  • Nhân giống về cây nho
  • Liễu weeping [cây] là một cây cảnh [Salix babylonica và các giống lai liên quan]

  1. ^ Hybrids of different species being sterile, hybrids of same species are not
  2. ^ GMO plant made to produce infertile seeds

...

  • Charles W. Heuser. Cuốn sách hoàn chỉnh về tuyên truyền thực vật, Taunton Press, 1997. Mã số   1561582344

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nhân_giống_cây_trồng&oldid=64164000”

Trả lời:
- Nhân giống thuần chủng là phương pháp cho ghép đôi giao phối giữa những cá thể đực và cá thể cái của cùng một phẩm giống, để tạo ra đời con có đặc điểm di truyền giống với bố mẹ.
- Mục đích: nhân giống thuần chủng là để bảo vệ, giữ vững, nâng cao và hoàn chỉnh những đặc tính di truyền tốt, các phẩm chất, đặc điểm tốt của các cá thể trong cùng vật giống.

146 Chương 5 Công nghệ chuyển gen ở Thực vật I. Khái niệm chung Trước đây, để tạo một giống mới các nhà tạo giống thường sử dụng phương pháp truyền thống để tổ hợp lại các gen giữa hai cá thể thực vật tạo ra con lai mang những tính trạng mong muốn. Phương pháp này được thực hiện bằng cách chuyển hạt phấn từ cây này sang nhụy hoa của cây khác. Tuy nhiên, phép lai chéo này bị hạn chế bởi nó chỉ có thể thực hiện được giữa các cá thể cùng loài [lai gần], lai giữa những các thể khác loài [lai xa] thường bị bất thụ do đó không thể tạo ra con lai được. Tuy nhiên, lai gần cũng phải mất nhiều thời gian mới thu được những kết quả mong muốn và thông thường những tính trạng quan tâm lại không tồn tại trong những loài có họ hàng gần nhau. Ngày nay, công nghệ chuyển gen cho phép nhà tạo giống cùng lúc đưa vào một loài cây trồng những gen mong muốn có nguồn gốc từ những cơ thể sống khác nhau, không chỉ giữa các loài có họ gần nhau mà còn ở những loài rất xa nhau. Phương pháp hữu hiệu này cho phép các nhà tạo giống thực vật thu được giống mới nhanh hơn và vượt qua những giới hạn của kỹ thuật tạo giống truyền thống. Cây chuyển gen [transgenic plant] là cây mang một hoặc nhiều gen được đưa vào bằng phương thức nhân tạo thay vì thông qua lai tạo như trước đây. Những gen được tạo đưa vào [gen chuyển] có thể được phân lập từ những loài thực vật có quan hệ họ hàng hoặc từ những loài khác biệt hoàn toàn. Thực vật tạo ra được gọi là thực vật “chuyển gen” mặc dù trên thực tế tất cả thực vật đều được “chuyển gen” từ tổ tiên hoang dại của chúng bởi quá trình thuần hóa, chọn lọc và lai giống có kiểm soát trong một thời gian dài. Nhìn chung, việc ứng dụng cây chuyển gen đã có những lợi ích rõ rệt như sau: 147 - Tăng sản lượng. - Giảm chi phí sản xuất. - Tăng lợi nhuận nông nghiệp. - Cải thiện môi trường. Những cây chuyển gen “thế hệ thứ nhất” đã giúp giảm chi phí sản xuất. Ngày nay, các nhà khoa học đang hướng đến việc tạo ra những cây chuyển gen “thế hệ thứ hai” nhằm tăng các giá trị dinh dưỡng hoặc có những đặc điểm thích hợp cho công nghiệp chế biến. Lợi ích của những cây trồng này hướng trực tiếp hơn vào người tiêu dùng. Chẳng hạn như: - Lúa gạo giàu vitamin A và sắt. - Khoai tây tăng hàm lượng tinh bột. - Vaccine thực phẩm [edible vaccine] ở ngô và khoai tây. - Những giống ngô có thể trồng được trong điều kiện nghèo dinh dưỡng. - Dầu ăn có lợi cho sức khoẻ hơn từ đậu nành và cải dầu. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm cũng có những nguy cơ tiềm ẩn trong việc phát triển những kỹ thuật mới. Bao gồm: - Mối nguy hiểm trong việc vô tình đưa những chất gây dị ứng hoặc làm giảm dinh dưỡng vào thực phẩm. - Khả năng phát tán những gen biến nạp trong cây trồng sang họ hàng hoang dại. - Sâu bệnh có nguy cơ tăng cường tính kháng với các chất độc tiết ra từ cây chuyển gen. - Nguy cơ những chất độc này tác động tới các sinh vật không phải là loại sinh vật cần diệt, vì thế có thể làm mất cân bằng sinh thái. Nhìn chung, mặc dù còn những điểm còn chưa rõ ràng về cây chuyển gen nhưng với khả năng tạo ra những giống cây trồng mới có giá trị kinh tế, công nghệ này có vai trò không thể phủ nhận được. Tuy vậy, vẫn còn một số vấn đề đáng lo ngại. Để giải quyết những vấn đề này thì những kết luận thu được phải dựa trên những thông tin tin cậy và có cơ sở khoa học. 148 Cuối cùng, vì tầm quan trọng của lương thực thực phẩm cho con người, nên các chính sách liên quan tới cây chuyển gen sẽ phải dựa trên những cuộc tranh luận cởi mở và trung thực có sự tham gia của mọi thành phần trong xã hội. Khái niệm về thực vật chuyển gen 1. Muốn tạo một sinh vật biến đổi gen [genetically modified organism-GMO] cần phải có phương pháp thích hợp để đưa DNA ngoại lai [foreign DNA] vào trong tế bào của chúng. Ở vi khuẩn, tế bào được xử lý bằng dung dịch muối calcium chloride. Ở tế bào nấm men, sự tiếp nhận DNA tăng lên khi tế bào tiếp xúc với lithium chloride hoặc lithium acetate. Tuy nhiên, đối với phần lớn sinh vật bậc cao cần phải có các phương pháp khác tinh vi hơn. Chuyển gen ở thực vật đã phát triển cùng với sự phát triển của các kỹ thuật nuôi cấy mô và tế bào thực vật. Nó đã trở thành phương tiện quan trọng để nghiên cứu cơ bản trong sinh học thực vật. Ngoài việc mở ra triển vọng chuyển các gen có ý nghĩa kinh tế vào cây trồng, các kỹ thuật này còn cho phép nghiên cứu cấu trúc và điều khiển hoạt động của gen. Quá trình đưa một DNA ngoại lai vào genome [hệ gen] của một sinh vật được gọi là quá trình biến nạp [transformation]. Những cây được biến nạp được gọi là cây biến đổi gen [genetically modified plant-GMP]. Ứng dụng công nghệ gen trong công tác giống cây trồng hiện đại có rất nhiều ưu điểm, chẳng hạn như: - Bằng việc biến nạp một hoặc một số gen có thể thu được cây mang một đặc tính mới xác định. - Rào cản về loài không còn có tác dụng, vì không chỉ các gen từ thực vật mà còn từ vi khuẩn, nấm, động vật hoặc con người được chuyển thành công vào thực vật. Về nguyên tắc chỉ thay đổi vùng điều khiển gen, promoter1 và terminator2. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đòi hỏi những thay đổi tiếp theo như sự phù hợp codon. 1 Gen khởi động cho quá trình phiên mã. 2 Gen kết thúc quá trình phiên mã. 149 - Những đặc điểm không mong muốn của thực vật. Chẳng hạn, sự tổng hợp các chất độc hoặc chất gây dị ứng có thể được loại trừ bằng công nghệ gen. - Thực vật biến đổi gen có thể là lò phản ứng sinh học [bioreactor] sản xuất hiệu quả các protein và các chất cần thiết dùng trong dược phẩm và thực phẩm.. - Mở ra khả năng nghiên cứu chức năng của gen trong quá trình phát triển của thực vật và các quá trình sinh học khác. Vì vậy, thực vật biến đổi gen có ý nghĩa trong nghiên cứu cơ bản. - Trong lai tạo giống hiện đại, công nghệ gen giúp làm giảm sự mâu thuẫn giữa kinh tế và môi trường sinh thái. Bằng việc sử dụng cây trồng kháng thuốc diệt cỏ có thể giảm được lượng thuốc bảo vệ thực vật. Mục đích của nông nghiệp hiện đại không chỉ là tăng năng suất mà còn hướng đến những lĩnh vực quan trọng sau: + Duy trì và mở rộng đa dạng sinh học [biodiversity]. + Tăng khả năng kháng [sức khỏe cây trồng và chống chịu các điều kiện bất lợi]. + Nâng cao chất lượng sản phẩm. + Cải thiện khả năng tích lũy dinh dưỡng. + Tăng cường tổng hợp các hợp chất có hoạt tính sinh học. + Tạo ra sản phẩm không gây hại môi trường. 2. Tóm tắt lịch sử phát triển của công nghệ chuyển gen thực vật Lịch sử phát triển công nghệ gen của thực vật chắc chắn có rất nhiều sự kiện quan trọng. Ở đây chỉ nêu lên những mốc có ý nghĩa đặc biệt nhằm làm rõ sự phát triển rất nhanh của lĩnh vực này: - Trước hết, vi khuẩn đất Agrobacterium tumefaciens được sử dụng làm phương tiện vận chuyển DNA. Bình thường vi khuẩn này tạo nên khối u ở thực vật. Một phần nhỏ của Ti-plasmid có trong vi khuẩn này, được gọi là T-DNA, được vận chuyển từ Agrobacterium vào cây hai lá mầm. Năm 1980, lần đầu tiên DNA ngoại lai [transposon Tn7] được chuyển vào thực vật nhờ A. tumefaciens, tuy nhiên T-DNA vẫn chưa được thay đổi. Năm 1983, nhiều nhóm 150 Từ kết quả thành công đầu tiên này số lượng các loài được biến nạp ngày càng tăng. Lúc này có thêm nhiều phương pháp khác để biến đổi gen: - Năm 1984, biến nạp bằng tế bào trần [protoplast] ở ngô được thực hiện. Ở đây thành tế bào được phân giải bằng enzyme, xuất hiện tế bào trần. Nhờ polyethylene glycol [PEG] hoặc xung điện [electroporation] mà DNA được đưa vào tế bào trần. - Năm 1985, lần đầu tiên cây biến đổi gen được mô tả có tính kháng thuốc diệt cỏ. Một năm sau, người ta đã thành công trong việc tạo ra thực vật kháng virus. Năm 1996, các thí nghiệm về cây biến đổi gen đã được phép đưa ra đồng ruộng. - Năm 1987, phương pháp biến nạp phi sinh học được sử dụng. Ở đây tế bào thực vật được bắn phá bằng các hạt vàng hoặc wolfram bọc DNA ngoại lai. Nhờ phương pháp này mà sự biến nạp đã thành công đã ở các cây một lá mầm quan trọng như lúa [1988], ngô [1990] và lúa mỳ [1992]. Cũng trong năm 1987, cà chua và thuốc lá kháng côn trùng đã làm cho công nghệ gen đạt được một bước phát triển quan trọng hơn. Một thành công quan trọng khác là đã điều khiển được quá trình chín ở cà chua, sau này có tên là FlavrSaver. Năm 1994, lần đầu tiên cà chua biến đổi gen được bán trên thị trường. - Năm 1989, không những đã thành công trong việc chuyển các gen mã hóa các kháng thể vào thực vật, mà người ta còn tạo nên các sản phẩm gen này như mong muốn. Kết quả này đã mở ra một khả năng hoàn toàn mới mẽ cho việc sản xuất vaccine và cả khả năng chống bệnh ở thực vật. - Năm 1990, thành công trong việc tạo ra cây biến đổi gen bất dục đực, không có khả năng tạo hạt phấn. Loại cây trồng này có ý nghĩa lớn trong việc sản xuất hạt giống. 151 - Từ năm 1991, thành phần carbohydrate của thực vật được biến đổi và năm 1992 là các acid béo. Cùng năm đó, lần đầu tiên thành phần alkaloid ở một loại cà được cải thiện, là một bước quan trọng đối với thực vật trong việc tổng hợp nhóm hợp chất này. Những thực vật này có ý nghĩa lớn đối với việc thu nhận dược liệu. Sau khi thực vật biến đổi gen này xuất hiện, chất nhân tạo phân giải sinh học được tổng hợp. Điều này cho phép chúng ta hy vọng rằng, trong tương lai sẽ có những thực vật có đặc tính mới, được sử dụng như là các bioreactor thực vật để sản xuất “nguyên liệu tái sinh”. - Năm 1994, cà chua Flavr SavrR là cây trồng đầu tiên biến đổi gen và quả của nó được đưa ra thị trường. Năm 1998, trên thế giới đã có 48 giống cây trồng biến đổi gen và sản phẩm được thị trường hóa. Năm 1999, cây lúa biến đổi gen được đưa ra với 7 gen được biến nạp. Đến đầu năm 1999, trên thế giới đã có khoảng 9.000 thí nghiệm đồng ruộng cho phép, trong đó khoảng 1.360 là ở EU. Cuối cùng, là một số nhận xét về việc thị trường hóa cây biến đổi gen trong nông nghiệp. Cho đến năm 1999, diện tích gieo trồng trên thế giới đạt hơn 40 triệu ha. Trong đó 20% là ngô, 50% là đậu tương và 1/3 diện tích bông là ở Mỹ. Ngoài ra có hơn 70% diện tích cải dầu ở Canada được trồng với giống biến đổi gen. Khoảng 90% thực vật biến đổi gen chống chịu thuốc diệt cỏ hoặc sâu bệnh hại. Cần chú ý rằng, ở Mỹ sản phẩm đậu tương có trong hơn 20.000 loại thực phẩm khác nhau. Điều này cho thấy rằng, công nghệ gen đã ảnh hưởng đến sản xuất thực phẩm của chúng ta. II. Một số nguyên tắc cơ bản của việc chuyển gen 1. Một số nguyên tắc sinh học Khi đặt ra mục đích và thực hiện thí nghiệm chuyển gen cần chú ý một số vấn đề sinh học ảnh hưởng đến quá trình chuyển gen như sau: - Không phải toàn bộ tế bào đều thể hiện tính toàn năng [totipotency]. - Các cây khác nhau có phản ứng không giống nhau với sự xâm nhập của một gen ngoại lai. 152 - Cây biến nạp chỉ có thể tái sinh từ các tế bào có khả năng tái sinh và khả năng thu nhận gen biến nạp vào genome. - Mô thực vật là hỗn hợp các quần thể tế bào có khả năng khác nhau. Cần xem xét một số vấn đề như: chỉ có một số ít tế bào có khả năng biến nạp và tái sinh cây. Ở các tế bào khác có hai trường hợp có thể xảy ra: một số tế bào nếu được tạo điều kiện phù hợp thì trở nên có khả năng, một số khác hoàn toàn không có khả năng biến nạp và tái sinh cây. - Thành phần của các quần thể tế bào được xác định bởi loài, kiểu gen, từng cơ quan, từng giai đoạn phát triển của mô và cơ quan. - Thành tế bào ngăn cản sự xâm nhập của DNA ngoại lai. Vì thế, cho đến nay chỉ có thể chuyển gen vào tế bào có thành cellulose thông qua Agrobacterium, virus và bắn gen hoặc phải phá bỏ thành tế bào để chuyển gen bằng phương pháp xung điện, siêu âm và vi tiêm. - Khả năng xâm nhập ổn định của gen vào genome không tỷ lệ với sự biểu hiện tạm thời của gen. - Các DNA [trừ virus] khi xâm nhập vào genome của tế bào vật chủ chưa đảm bảo là đã liên kết ổn định với genome. - Các DNA [trừ virus] không chuyển từ tế bào này sang tế bào kia, nó chỉ ở nơi mà nó được đưa vào. - Trong khi đó, DNA của virus khi xâm nhập vào genom cây chủ lại không liên kết với genome mà chuyển từ tế bào này sang tế bào khác ngoại trừ mô phân sinh [meristem]. 2. Phản ứng của tế bào với quá trình chuyển gen Mục đích chính của chuyển gen là đưa một đoạn DNA ngoại lai vào genome của tế bào vật chủ có khả năng tái sinh cây và biểu hiện ổn định tính trạng mới. Nếu quá trình biến nạp xảy ra mà tế bào không tái sinh được thành cây, hoặc sự tái sinh diễn ra mà không kèm theo sự biến nạp thì thí nghiệm biến nạp chưa thành công. Ở rất nhiều loài thực vật, điều khó khăn là phải xác định cho được kiểu tế bào nào trong cây có khả năng tiếp nhận sự biến nạp. Hạt phấn hay tế bào noãn sau khi được biến nạp có thể được dùng để tạo ra cây biến nạp hoàn toàn, thông qua quá trình thụ tinh bình 153 Từ nhiều thập kỷ qua người ta đã biết rằng, tính toàn thể của tế bào thực vật đã tạo điều kiện cho sự tái sinh cây hoàn chỉnh in vitro qua quá trình phát sinh cơ quan [hình thành chồi] hay phát sinh phôi. Các chồi bất định hay phôi được hình thành từ các tế bào đơn được hoạt hóa là những bộ phận dễ dàng tiếp nhận sự biến nạp và có khả năng cho những cây biến nạp hoàn chỉnh [không có tính khảm]. 3. Các bước cơ bản của chuyển gen Từ khi người ta khám phá ra rằng các thí nghiệm chuyển gen có thể thực hiện nhờ một loại vi khuẩn đất Agrobacterium tumefaciens, thì các nhà khoa học tin rằng Agrobacterium có thể chuyển gen vào tất cả các cây trồng. Nhưng sau đó kết quả thực tế cho thấy chuyển gen bằng Agrobacterium không thể thực hiện được trên cây ngũ cốc [một lá mầm] vì thế hàng loạt kỹ thuật chuyển gen khác đã được phát triển đó là các kỹ thuật chuyển gen trực tiếp như bắn gen bằng vi đạn [bombardement/gene gun], vi tiêm [microinjection], xung điện [electroporation], silicon carbide, điện di [electrophoresis], siêu âm [ultrasonic], chuyển gen qua ống phấn [pollen tube]... Đến nay, nhờ cải tiến các vector chuyển gen nên kỹ thuật chuyển bằng A. tumefaciens đã thành công cả ở cây ngũ cốc đặc biệt là lúa. Kỹ thuật này trở nên một kỹ thuật đầy triển vọng đối với cây chuyển gen ở thực vật. Quá trình chuyển gen được thực hiện qua các bước sau : - Xác định gen liên quan đến tính trạng cần quan tâm. - Phân lập gen [PCR hoặc sàng lọc từ thư viện cDNA hoặc từ thư viện genomic DNA]. - Gắn gen vào vector biểu hiện [expression vector] để biến nạp. - Biến nạp vào E. coli. - Tách chiết DNA plasmid. 154 - Biến nạp vào mô hoặc tế bào thực vật bằng một trong các phương pháp khác nhau đã kể trên. - Chọn lọc các thể biến nạp trên môi trường chọn lọc. - Tái sinh cây biến nạp. - Phân tích để xác nhận cá thể chuyển gen [PCR hoặc Southern blot] và đánh giá mức độ biểu hiện của chúng [Northern blot, Western blot, ELISA hoặc các thử nghiệm in vivo khác...]. Nguyên liệu để thực hiện sự biến nạp là các tế bào thực vật riêng lẽ, các mô hoặc cây hoàn chỉnh. Cản trở lớn nhất của sự tiếp nhận DNA ở phần lớn sinh vật là thành tế bào. Muốn làm mất thành tế bào thực vật người ta thường sử dụng enzyme và dưới những điều kiện thích hợp người ta có thể tạo ra tế bào trần, tế bào trần tiếp nhận DNA nói chung dễ dàng. Chẳng hạn sử dụng phương pháp xung điện, ở đây tế bào được đặt ở trong một xung điện ngắn, xung điện này có thể làm xuất hiện những lỗ tạm thời ở trên màng tế bào, những phân tử DNA có thể đi vào bên trong tế bào. Sau khi biến nạp người ta tách những enzyme phân giải và để cho tế bào phát triển, thành tế bào mới được tạo nên. Các tế bào biến nạp này được nuôi cấy trên các môi trường nhân tạo thích hợp cùng với các chất kích thích sinh trưởng để tạo nên cây hoàn chỉnh. Sau đó bằng các phương pháp phân tích genome như PCR, Southern blot, Northern blot được thực hiện để tìm ra chính xác những cây biến đổi gen. Bên cạnh các phương pháp biến nạp Agrobacterium hoặc xung điện, hiện nay có hai phương pháp khác cũng thường được sử dụng để đưa DNA vào trong tế bào. Phương pháp thứ nhất là vi tiêm: với một cái pipet rất nhỏ người ta có thể đưa các phân tử DNA trực tiếp vào nhân tế bào mà người ta muốn biến nạp. Phương pháp này đầu tiên chỉ được sử dụng ở tế bào động vật, nhưng sau này người ta đã sử dụng cho tế bào thực vật. Phương pháp thứ hai là bắn vào tế bào các vi đạn [microprojectile], thường bằng vàng hoặc wolfram, được bao bọc bởi DNA. Phương pháp này được gọi là phi sinh học và được sử dụng thành công ở nhiều loại tế bào khác nhau. Ở động-thực vật chuyển gen, sản phẩm cuối cùng thường không phải là tế bào biến nạp, mà là một cơ thể biến nạp hoàn toàn. 155 Phần lớn thực vật được tái sinh dễ dàng bằng nuôi cấy mô tế bào. Tuy nhiên, tái sinh cây một lá mầm như ngũ cốc và các loại cỏ khác cũng gặp một vài khó khăn. Từ một tế bào biến nạp duy nhất người ta có thể tạo ra một cây chuyển gen, trong đó mỗi tế bào mang DNA ngoại lai và tiếp tục chuyển cho thế hệ sau sau khi nở hoa và tạo hạt. III. Các hướng nghiên cứu và một số thành tựu trong lĩnh vực tạo thực vật chuyển gen 1. Các hướng nghiên cứu Trong những năm qua, các phương pháp biến nạp gen ở thực vật đã có rất nhiều tiến bộ. Hiện nay, các phòng thí nghiệm công nghệ gen đang bắt tay vào việc cải thiện các đặc điểm di truyền cho một số loài cây trồng có giá trị nhờ các công cụ của sinh học tế bào và sinh học phân tử. Trong một vài trường hợp đặc biệt [đậu tương, lúa, ngô và bông] các phương pháp biến nạp gen bị giới hạn bởi genotype. Một số các cây trồng quan trọng khác, cần thiết cho nhu cầu sử dụng của người dân ở các nước đang phát triển hiện cũng ít được chú ý. Công nghệ di truyền thực vật là một bước ngoặt quyết định. Một số cây trồng quan trọng đã được biến nạp gen; mặc dù một vài vấn đề kỹ thuật vẫn đang còn tồn tại, nhưng chúng đang từng bước được giải quyết. Để có kết quả cần phải thay đổi dần dần sang một phạm vi khác, như là phát hiện và tạo dòng các gen mang các tính trạng đa gen [multigenic traits]. Một điều không thể quên là vấn đề nhận thức của xã hội và dự báo nguy cơ tác động xấu đến môi trường do các sản phẩm có nguồn gốc từ công nghệ DNA tái tổ hợp [DNA recombinant technology] mang lại. Hiện nay, công nghệ chuyển gen đang được quan tâm hơn thông qua các quỹ tài trợ của các cơ quan quốc tế như là chương trình Rockefeller Foundation [Mỹ], và vấn đề đang được thảo luận nhiều đó là cần phải xác định một phương thức tốt nhất để chuyển các lợi ích do công nghệ biến nạp gen mang lại đến các nước đang phát triển. Cây biến nạp gen đầu tiên thu được vào năm 1983. Điều này cho phép nhận xét rằng mới chỉ hơn hai thập niên, các công cụ của công nghệ DNA tái tổ hợp và sinh học tế bào đã giúp ích rất nhiều cho các nhà tạo giống thực vật. Việc lựa chọn phương thức sử dụng 156 Sau đây là một số hướng nghiên cứu chính trong công nghệ chuyển gen ở thực vật. 1.1. Cây trồng chuyển gen kháng các nấm gây bệnh Nấm bệnh là những tác nhân gây hại cây trồng rất nặng, nhất là ở các nước nhiệt đới có độ ẩm cao. Các enzyme làm thoái hóa các thành phần chính của vỏ tế bào nấm chitin và β-1,3 glucan là loại đang được chú ý. Khi chuyển gen chitinase vào cây thuốc lá đã tăng hoạt tính kháng nấm gây hại. Sự biểu hiện đồng thời của cả hai gen chitinase và glucanase trong thuốc lá làm cho cây có tính kháng nấm gây hại cao hơn cây có một gen độc lập. Tương tự, cà chua cho tính kháng nấm Fusarium cao hơn hẳn sau khi được chuyển cả hai gen nói trên. Protein ức chế ribosome [ribosomal inhibition protein-RIP] cũng biểu hiện tính kháng nấm tốt. Cây thuốc lá cho tính kháng nấm rất cao, khi cây được chuyển giao đồng thời gen RIP và chitinase. Cây trồng chuyển gen kháng các vi khuẩn gây bệnh 1.2.Đối với bệnh vi khuẩn, hướng nghiên cứu tạo giống mới bằng công nghệ gen chỉ mới bắt đầu. Về cơ bản có ba hướng : - Dùng gen mã hóa enzyme làm thoái hóa thành tế bào vi khuẩn. Chẳng hạn, gen lysozyme từ các nguồn tế bào động vật hoặc từ thực khuẩn thể T4 [bacteriophage T4] đưa vào cây thuốc lá và khoai tây. Các gen này biểu hiện hoạt tính lysozyme mạnh và các tế bào có khả năng phòng trừ vi khuẩn Erwina carotovora rất tốt. - Gen mã hóa α-thionin-cystein được chuyển giao sang cây thuốc lá cũng phòng ngừa được vi khuẩn Pseudomonas syringae. - Chuyển gen sản xuất protein làm giảm độc tố của vi khuẩn là hướng có nhiều hứa hẹn. Gen này chủ yếu là gen sản xuất các loại enzyme phân hủy độc tố của vi khuẩn, do vậy vô hiệu hóa tác hại của chúng.

Video liên quan

Chủ Đề