Kháng chiến kiến quốc nghĩa là gì

Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” ngày 25-11-1945: Tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Đông Dương

Nguyễn Minh Huệ - Phạm Minh Triều

2020-11-26T16:07:37+07:00 2020-11-26T16:07:37+07:00 //truongchinhtri.edu.vn/home/thong-tin-tuyen-truyen/chi-thi-khang-chien-kien-quoc-ngay-25-11-1945-tam-nhin-chien-luoc-cua-dang-cong-san-dong-duong-984.html /home/themes/egov/images/no_image.gif

Trường Chính trị tỉnh Bình Phước //truongchinhtri.edu.vn/home/uploads/logotc108t.png

Thứ tư - 25/11/2020 20:55 90.716 0

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Để giải quyết tình hình “thù trong, giặc ngoài”. Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" ngày 25/11/1945. Chỉ thị là tuyên bố quan trọng của Đảng trong việc giải quyết tình hình đất nước và đề ra những nhiệm vụ mới, với khẩu hiệu “Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết".

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới có nhiều thay đổi to lớn, uy tín và địa vị của Liên Xô, thành trì hòa bình của chủ nghĩa xã hội được nâng cao trên trường quốc tế, bên cạnh đó phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ, điều này có lợi cho các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập, ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới về nền độc lập của nhân dân Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã đem lại cho cách mạng Việt Nam thế và lực mới. Đảng ta từ một đảng hoạt động bất hợp pháp trở thành đảng cầm quyền, nhân dân ta được giải phóng khỏi cuộc đời nô lệ, trở thành người làm chủ đất nước. Nước ta đứng trước những khó khăn, thách thức tưởng chừng khó vượt qua của thù trong, giặc ngoài và những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, mà chế độ thực dân phong kiến để lại, nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và các chính quyền phản động trong khu vực. Nước ta còn chưa nhận được sự giúp đỡ trực tiếp của các nước xã hội chủ nghĩa và lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Nạn đói năm 1945 làm 2 triệu người chết, 90% số dân mù chữ. Ở miền Bắc: 20 vạn quân Tưởng ồ ạt tràn qua biên giới, kéo theo là “Việt Quốc, Việt Cách”, chúng lập chính quyền phản động ở một số nơi, cướp của giết người và chống phá chính quyền cách mạng. Ở miền Nam: quân Anh với danh nghĩa đồng minh kéo vào nước ta tiếp tay cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. “Tổ quốc lâm nguy! Vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc!”.
Trước tình hình cấp bách, ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị về “Kháng chiến kiến quốc”. Chỉ thị là tuyên bố quan trọng của Đảng trong việc giải quyết tình hình đất nước và đề ra những nhiệm vụ mới. Chỉ thị phân tích những thay đổi căn bản về tình hình quốc tế và trong nước sau chiến tranh. Trên cơ sở phân tích tình hình thực tiễn trung ương Đảng đã đề ra những biện pháp cụ thể nhằm chống lại kẻ thù xâm lược, đồng thời giải quyết quyền lợi cho nhân dân. Chỉ thị xác định một số vấn đề cơ bản về đường lối và nhiệm vụ của toàn Đảng. Khẩu hiệu là Dân tộc trên hết – Tổ quốc trên hết”. “Kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Nhiệm vụ riêng trong nước là phải củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân”[1]. Nội dung của bản chỉ thị gồm 13 điều, đề cập tới toàn bộ hoàn cảnh trong nước cũng như quốc tế. Chỉ thị đề ra những nhiệm vụ cấp bách nhất mà cách mạng cần phải làm trong giai đoạn mới. Chỉ thị là bước chỉ đạo quan trọng khi tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến hết sức phức tạp, không có lợi cho cách mạng, tựu chung lại chỉ thị tập trung vào một số nhiệm vụ chính như sau:
+ Về chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng đất nước, củng cố chính quyền nhân dân bằng cách kiên quyết trừng trị bọn phản quốc, tiến hành tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, lập Chính phủ chính thức và ban hành Hiến pháp, có thể cải tổ chính phủ trước khi bầu cử, sửa đổi cách làm việc của chính quyền nhân dân địa phương.
+ Về quân sự, động viên toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài, dùng lối đánh du kích với phương pháp bất hợp tác triệt để của nhân dân ở vùng địch chiếm đóng, mở rộng chiến tranh du kích ở Campuchia và phát triển tuyên truyền vũ trang trên đất Lào.
+Về ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”. Phương châm là “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết” và “muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”. Đối với Tưởng thì chủ trương Hoa – Việt thân thiện, đối với Pháp độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế.
+ Về kinh tế tài chính, mở lại các nhà máy do Nhật bỏ, khai thác các mỏ, cho tư nhân được góp vốn vào việc kinh doanh các nhà máy và mỏ ấy, khuyến khích các giới công thương mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà. Thực hiện khuyến nông sữa chữa đê điều, lập ngân hàng, phát hành giấy bạc, định lại ngạch thuế, lập ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh. Đẩy mạng tăng gia sản xuất, chống nạn đói theo khẩu hiệu: “Tấc đất tấc vàng", “Sẽ cơm nhường áo”, “Công việc cứu đói cũng cần như việc đánh giặc”.
+ Về văn hoá, tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở các trường đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy nhồi nhét, cổ dộng văn hóa cứu quốc, xây dựng nền văn hoá mới theo ba nguyên tắc: khoa học hoá, dân tộc hoá, đại chúng hoá.
Chỉ thị nhấn mạnh: Muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên đây, Đảng và Mặt trận Việt Minh phải được củng cố và phát triển:
+ Về Đảng, phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật hay bán công khai, tuyển thêm đảng viên mới, chú trọng gây thêm cơ sở Đảng trong các xí nghiệp, mở rộng các tổ chức nghiên cứu chủ nghĩa Mác bao gồm những ai có khuynh hướng cộng sản hay có cảm tình với cộng sản, nhưng tổ chức phải do những người cộng sản điều khiển. Trong việc phát triển đảng viên, tăng cường tổ chức Đảng, bản Chỉ thị chỉ rõ, phải tránh cả hai khuynh hướng: Chỗ thì tổ chức Đảng hẹp quá, chậm quá, và chưa bỏ được cái bệnh hẹp hòi câu chấp của thời kỳ hoạt động hoàn toàn bí mật, chỗ thì tổ chức Đảng rộng quá, nhanh quá khiến cho những phần tử phức tạp có thể len vào Đảng. Đồng thời, Chỉ thị cũng nêu rõ: Các tổ chức Đảng phải giữ vững và duy trì sinh hoạt đều đặn, xây dựng, củng cố các chi bộ Đảng trong các cơ quan hành chính hay các hội hợp pháp; thành lập chi bộ trong quân đội, phối hợp sự hoạt động bí mật với hoạt động công khai, trong đó, hoạt động bí mật phải được đặc biệt coi trọng và không để cho các cơ quan bí mật trở thành xung đột hoặc đối lập với cơ quan công khai.
+Về Mặt trận Việt Minh, hết sức phát triển các tổ chức cứu quốc, thống nhất các tổ chức ấy lên toàn kỳ, toàn quố; sửa chữa lại điều lệ cho các đoàn thể cứu quốc cho thích hợp với hoàn cảnh mới; mở rộng Mặt trận Việt Minh, lập các đoàn thể cứu quốc mới, giải quyết những mâu thuẫn giữa Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Việt Minh; củng cố quyền lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt Nam - Lào - Campuchia chống Pháp xâm lược. Chỉ thị còn đề ra các biện pháp thực hiện những nhiệm vụ cụ thể về chính quyền, kháng chiến ở Nam Bộ, về chống và đề phòng nạn đói, về tổng quyển cử...
Chỉ thị là bước đi hợp lý, là biện pháp cần thiết sau khi giành chính quyền nhằm cũng cố chế độ, giải quyết những khó khăn của quần chúng càng làm tăng cường sự gắn bó chặt chẽ của nhân dân với cách mạng. Chỉ thị thể hiện sự sáng tạo trong việc giải quyết chỉ đạo chiến lược và sách lược của Đảng trong tình hình mới, chiến lược ở đây được hiểu là chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, còn sách lược ở đây là những biện pháp cụ thể có tính mềm dẻo, khôn khéo, giải pháp mang tính tạm thời nhưng vẫn hướng tới mục tiêu chiến lược đó là giải phóng dân tộc.
Bản Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, nhãn quan chính trị của một chính Đảng mới ra hoạt động công khai chưa bao lâu trên một loạt vấn đề liên quan trực tiếp tới sự nghiệp bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc, bảo vệ Nhà nước dân chủ nhân dân - thành quả cao nhất của Cách mạng tháng Tám 1945, tạo tiền đề cơ bản đưa cách mạng Việt Nam tiến lên. Đó là việc xác định rõ tính chất và nhiệm vụ chiến lược của giai đoạn cách mạng từ sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám, xác định và phân loại chính xác kẻ thù, phương hướng cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, một loạt giải pháp nhằm xây dựng và tăng cường thực lực cho cuộc kháng chiến, những quan điểm cơ bản về chỉ đạo chiến tranh và những nội dung chính của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh... Trong tình hình “nước sôi lửa bỏng” lúc bấy giờ, những chiến lược và sách lược được thể hiện trong bản Chỉ thị lịch sử “Kháng chiến kiến quốc” của Đảng Cộng sản Đông Dương thực sự là ánh sáng soi đường cho toàn dân, toàn quân trong cuộc chiến đấu nhằm bảo vệ sự sống còn của dân tộc./.
Tài liệu tham khảo:
[1] Việt Nam những sự kiện lịch sử [1945-1975], NxbHà Nội, Giáo Dục, Tr. 20.
[2] Chỉ thị của Ban chấp hành Trung ương về Kháng chiến kiến quốc, ngày 25-11-1945, Văn kiện Đảng Toàn tập, CTQG, T.8, H, 2000. Những trích dẫn trong bài đều ở bản Chỉ thị này.

Tác giả bài viết: Nguyễn Minh Huệ - Phạm Minh Triều

Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc

[ĐCSVN] - Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc.

Trung ương Đảng phân tích sâu sắc toàn diện những thay đổi cơ bản về tình hình quốc tế và trong nước sau chiến tranh. Trung ương Đảng nhận định lực lượng hoà bình mạnh hơn lực lượng chiến tranh; bốn mâu thuẫn lớn trên thế giới vẫn tồn tại và gay go hơn hết là mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân ở Đông Nam châu Á.

Về tình hình Đông Dương, Chỉ thị vạch rõ những khó khăn trong việc giữ chính quyền. Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới thành lập đã phải đối phó ngay với ngoại xâm, nội phản và nạn đói đang đe doạ.

Dựa trên những nhận định về tình hình khách quan và chủ quan về tình hình ta, địch, Chỉ thị chỉ rõ: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập".

Nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa xong, giai cấp vô sản vẫn phải hăng hái, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết". Chỉ thị xác định, kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là "thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng", đề ra nhiệm vụ cần kíp của nhân dân Đông Dương đối với cách mạng thế giới. Đối với cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ riêng, cần kíp là củng cố chính quyền; chống thực dân Pháp xâm lược; bài trừ nội phản; cải thiện đời sống nhân dân”.

Chỉ thị đã đề ra những nhiệm vụ cho từng mặt công tác như sau:

Về nội chính,xúc tiến việc thành lập Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức.

Về quân sự,động viên toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài, dùng lối đánh du kích với phương pháp bất hợp tác triệt để.

Về ngoại giao,nắm vững nguyên tắc thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực; kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc "bình đẳng, tương trợ"; đối với Tưởng Giới Thạch vẫn chủ trương "Hoa - Việt thân thiện", đối với Pháp, thực hành độc lập về chính trị, nhân nhượng kinh tế.

Về tuyên truyền,kêu gọi đoàn kết chống thực dân Pháp xâm lược phản đối chia rẽ, nhưng chống sự thống nhất vô nguyên tắc với bọn phản quốc chống âm mưu phá hoại và chia rẽ của bọn phản động, Việt gian, chống thực dân Pháp xâm lược [không nói đánh cả Ấn, Anh]. Không công kích nhân dân Pháp, chỉ công kích bọn thực dân Pháp xâm lược.

Về kinh tế tài chính,khôi phục sản xuất công nghiệp, cho tư nhân góp vốn kinh doanh các nhà máy, khai mỏ, khuyến khích giới công thương, mở hợp tác xã, mở hội cổ phần; hỗ trợ và khuyến khích sản xuất nông nghiệp, sửa chữa đê điều, lập quốc gia ngân hàng, lập ngân quỹ toàn quốc và ngân quỹ xứ, tỉnh, phát hành giấy bạc, định lại các ngạch thuế.

Về cứu tế,kêu gọi lòng yêu nước thương nòi, lập quỹ cứu tế, lập kho thóc cứu tế, đẩy mạnh khai hoang tăng gia sản xuất, quyên góp tiếp tế cho dân nghèo...

Về văn hoá,chống nạn mù chữ, cải cách giáo dục theo tinh thần mới, mở đại học và trung học, xây dựng nền văn hoá mới theo ba nguyên tắc: khoa học hoá, dân tộc hoá, đại chúng hoá.

Chỉ thị nhấn mạnh: muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên "Đảng và Mặt trận Việt Minh phải được củng cố và phát triển. Đảng phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật và nửa công khai của Đảng, tuyển thêm đảng viên; giữ vững sinh hoạt của Đảng; thành lập Đảng đoàn trong các cơ quan hành chính và các đoàn thể quần chúng; xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội;

Về Mặt trận Việt Minh thống nhất các tổ chức quần chúng trên toàn quốc; phân biệt ranh giới giữa các Uỷ ban nhân dân và Việt Minh; củng cố quyền lãnh đạo về Đảng trong Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào chống Pháp xâm lược.

Chỉ thị còn đề ra các biện pháp thực hiện những nhiệm vụ cụ thể về chính quyền, kháng chiến ở Nam Bộ, về chống và đề phòng nạn đói, về tổng tuyển cử...

Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc là Cương lĩnh hành động trước mắt của Đảng và nhân dân ta.

--------------

Xem thêm tài liệu tham khảoTẠI ĐÂY

Nguồn: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 3, tr.44-47, NXB Chính trị Quốc gia, H, 2008.

Kháng chiến kiến quốc là gì

LT 3.5.1[5điểm]: Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 25/11/1945. Anh [chị] hãy:

b. Phân tích nội dung cơ bản của Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc.

c. Trình bày quá trình thực hiện chỉ thị.

Trả lời:

Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, nước VN Dân chủ Cộng hòa ra đời, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước bối cảnh vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.

Ngày 25/11/1945, BCH TW Đảng ra Chỉ thị về kháng chiến, kiến quốc. Chỉ thị vạch rõ con đường đi lên cho cách mạng VN trong giai đoạn mới.

* Nội dung cơ bản của chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc :

- Chỉ đạo chiến lược: Đảng ta xác định mục tiêu hàng đầu của VN lúc này vẫn là giải phóng dân tộc. Khẩu hiệu lúc này là Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết, nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ vững và phát triển nền độc lập.

- Chỉ thị xác định kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược. chủ trương thành lập mặt trận Dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược; mở rộng mặt trận Việt minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất mặt trận Việt Miên Lào,

- Nhiệm vụ : có 4 nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương thực hiện là: Củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phảnvà cải thiện đời sống cho nhân dân. Trong đó, xây dựng và bảo vệ chính quyền là nhiệm vụ quan trọng nhất.

- Chỉ thị chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu Hoa- Việt than thiện đvs quân đội Trung Hoa Dân quốc và Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế đvs Pháp.

=> Chỉ thị kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chỉ thị đã xác định đúng kẻ thù của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược và chỉ ra kịp thời những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng, nhất là nêu rõ 2 nhiệm vụ chiến lược mới của CMVN sau Cách mạng tháng Tám là XD đất nước đi đôi vs bảo vệ đất nước. Đồng thời, chỉ thị này cũng đề ra những nhiệm vụ, biện pháp cụ thể về đối nội và đối ngoại để khắc phục nạn đói, nạn dốt, chống thù trong giặc ngoài bảo vệ chính quyền CM.

Những nội dung của chủ trương kháng chiến kiến quốc được Đảng tập trung chỉ đạo thực hiện trên thực tế với tinh thần kiên quyết, khẩn trương, sáng tạo, linh hoạt, trước hết là trong giai đoạn từ tháng 9/1945 đến cuối năm 1946.

* Quá trình thực hiện chỉ thị:

- Chính trị:

+ Tiến hành vẹn toàn hệ thống chính trị.

+ Bầu cử quốc hội vào ngày 6/1/1946. Bầu được 333 đại biểu quốc hội. Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ tịch với 98% số phiếu bầu.

+ 2/3/1946 quốc hội khóa 1 họp phiên đầu tiên.

- Kinh tế:

+ phát động các phong trào tăng gia sản xuất với khẩu hiệu: tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa, tấc đất tấc vàng.

+ Phát động phong trào hũ gạo cứu đói, hũ gạo tiết kiệm.

+ Phát động tuần lễ vàng, xây dựng Quỹ độc lập [quyên góp được 370kg vàng và 20 triệu đồng tiền quỹ độc lập].

+ 11/1946 tiền Việt Nam có in hình chủ tịch Hồ Chí Minh được lưu hành trên toàn quốc.

- Văn hóa: thành lập nhà bình dân học vụ

- Ngoại giao: Thực hiện sách lược ngoại giao mềm dẻo, nhân nhượng có nguyên tắc.

+ Đối với Tưởng thì Hoa- Việt thân thiện.

+ Đối với Pháp thì nhân nhượng về mặt kinh tế-độc lập về chính trị.

+ 9/1945-2/1946 thực hiện hòa Tưởng đánh Pháp

+ 3/1946-12/1946 hòa Pháp đuổi Tưởng về nước.

Ý nghĩa:

Giữ vững và phát triển chính quyền CM.

Giúp ta bảo vệ được nền độc lập nước nhà.

Xây dựng được nền móng đầu tiên và cơ bản cho 1 chế độ mới, chế độ VN Dân chủ Cộng hòa.

Chuẩn bị điều kiện cần thiết, trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc sau đó.

Video liên quan

Kháng chiến - Kiến quốc

Sau ngày 2/9/1945 lịch sử, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã gặp phải muôn vàn khó khăn chồng chất. Chính phủ mới thành lập được “thừa hưởng” một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Nạn đói năm 1945 làm 2 triệu người chết, tiếp đó là lũ lụt, hạn hán kéo dài làm 50% ruộng đất bị bỏ hoang. Sản xuất nông nghiệp đình đốn. Tài chính khô kiệt, kho bạc trống rỗng, ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp. Đất nước “tứ bề thọ địch”.

Trước tình hình đó, ngày 25-11-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị “Kháng chiến Kiến quốc”, định hướng chiến lược cho đất nước vượt qua khó khăn. Chiến lược này xác định đất nước phải đi “cả hai chân”, vừa chiến đấu nhưng cũng vừa phải xây dựng kinh tế. Hai nhiệm vụ quan trọng ngang nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi”.

Nói đi đôi với làm. Chính phủ lâm thời lập tức thực hiện nhiều giải pháp một cách ráo riết, phát huy tinh thần đoàn kết của cả dân tộc. Để kháng chiến, hàng triệu người đã tòng quân nhập ngũ, đi dân quân để tham gia kháng chiến.

Để kiến quốc, Chính phủ lâm thời tổ chức “tuần lễ vàng” huy động sức dân. Mặc dù cả nước trong tình trạng kiệt quệ nhưng 370 kg vàng và 60 triệu tiền Đông Dương đã được người dân chung sức đóng góp với niềm tin vào Chính phủ. Phong trào tăng gia sản xuất được chính phủ ráo riết thực hiện. Chỉ một năm sau, 1946, nạn đói đã được đẩy lùi. Đến đầu năm 1949, diện tích trồng trọt ở các vùng tự do đã tăng gấp ba, bốn lần so với trước kháng chiến. Đồng thời, nhiều chính sách mới về kinh tế và tài chính được Chính phủ lâm thời ban hành như thuế nông nghiệp, thành lập hệ thống mậu dịch quốc doanh, xây dựng Ngân hàng quốc gia Việt Nam...

Chiến lược “Kháng chiến kiến quốc” đúng đắn cùng tinh thần đoàn kết của cả dân tộc đã làm nên một trận Điện Biên Phủ, toàn thắng cuộc kháng chiến với thực dân Pháp.

Chính trị - Ngoại giao

“Kháng chiến kiến quốc” chống thực dân Pháp xâm lược

Hà Nội [TTXVN 24/1] 85 năm hình thành và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi vĩ đại. Trong giai đoạn từ năm 1945-1954, Đảng ta đã lãnh đạo quân và dân cả nước đánh thắng thực dân Pháp xâm lược, trong đó, nổi bật là Chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

    • Từ khóa:
    • Chính trị - Ngoại giao
    • kháng chiến kiến quốc
    • chống thực dân Pháp
    • Điện Biên Phủ

    Mã nhúng

    Xuất bản:Thứ bảy, 24/01/2015 10:59 [GMT+7]

    Video liên quan

    Chủ Đề