De văn nghị luận về hai ý kiến bàn về văn học

Soạn bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học

Soạn bài luật thơ [mẫu 2]

I. Cách viết bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học

1. Giới thiệu đề

Đề 1. Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai cho rằng: “Nhìn chung văn học Việt Nam phong phú, đa dạng, nhưng nếu cần xác định một chủ lưu, một dòng chính, quán thông kim cổ, thì đó là văn học yêu nước” [Dẫn theo Trần Văn Giàu tuyển tập,, NXB Giáo Dục, Hà Nội]. Hãy bình luận ý kiến trên.

Đề 2. Bàn về thơ Tố Hữu, nhà phê bình Hoài Thanh cho rằng: “Thái độ toàn tâm toàn ý vì cách mạng là nguyên nhân chính đưa đến sự thành công của thơ anh” [Tuyển tập Hoài Thanh, NXB Văn Học]. Hãy bình luận ý kiến trên.

2. Cách làm bài

2.1. Tìm hiểu đề

Tìm hiểu đề ở đây là tìm hiểu nội dung của ý kiến đối với văn học [câu văn trích] và yêu cầu của đề.

Nội dung của ý kiến đối với văn học.

Đề 1:

– Làm rõ nghĩa các từ, cụm từ: phong phú, đa dạng, chủ lưu, quán thông kim cổ.

– Xác định nội dung cơ bản của ý kiến [chú ý cụm từ: “nhưng nếu cần xác định…”. Có thể xác định ý kiến như sau: Tuy phong phú, đa dạng, nhưng dòng chính xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam là văn học yêu nước. [Ý trước là ý phụ, ý sau là ý chính mà người viết muốn nhấn mạnh].

Đề 2.

– Chú ý làm rõ các cụm từ: toàn tâm toàn ý, nguyên nhân chính.

– Xác định nội dung cơ bản của ý kiến: Nguyên nhân chính đưa đến sự thành công của thơ Tố Hữu là thái độ toàn tâm toàn ý vì cách mạng của nhà thơ. Như vậy, bên cạnh nguyên nhân chính còn có những nguyên nhân khác nữa như năng khiếu thơ ca, tình thương, sự từng trải của nhà thơ…, nhưng ý kiến của Hoài Thanh là nhấn mạnh nguyên nhân chính đó.

– Yêu cầu của đề:

Cả hai đề đều có cùng một yêu cầu là bình luận ý kiến trên. Như vậy, bài làm không chỉ dừng lại ở giải thích, chứng minh các ý kiến đó, mà còn cần bàn luận và mở rộng thêm về ý kiến đó. [Ý kiến đó đúng, sai như thế nào? Có ý nghĩa ra sao? Giá trị và tác dụng đối với hiện nay?].

2.2. Lập dàn bài

Trên cơ sở của việc tìm hiểu đề, các em tiến hành lập dàn bài, tức là xác định lại các luận điểm và những luận cứ; từ đó xây dựng một lập luận theo suy nghĩ, chủ kiến của mình bằng các thao tác lập luận phù hợp với từng bài làm. Dàn bài cần co đủ cả ba phần: mở bài, thân bài và kết bài. Các em có thể tham khảo những gợi ý về lập dàn bài của đề 1 trong SGK.

2.3. Viết bài

Dựa vào dàn bài để viết thành bài văn hoàn chỉnh. Cần chú ý đây là bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học, vì vậy cách viết cần có màu sắc văn học, và sự hài hòa, nhuẫn nhị giữa hai mặt, đó là yêu cầu cần đạt được để tăng thêm sức thuyết phục cho bài nghị luận thuộc dạng này.

II. Luyện tập

1. Gợi ý bình luận ý kiến của Thạch Lam về văn chương

Có thể sơ đồ hóa cách hiểu ý kiến của Thạch Lam để tiến hành bình luận như sau:

Văn chương là một thức khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có:

– Tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác.

– Làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.

Ý kiến đó đúng đắn và sâu sắc như thế nào, có giá trị và tác dụng đối với văn học hiện nay ra sao?

Soạn bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học

2. Dàn ý

2.1. Mở bài

Nêu ý kiến của Thạch Lam về văn chương.

2.2. Thân bài

văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực, có nghĩa văn chương là công cụ nghề nghiệp hoàn hảo của nhà văn, là vũ khí có thể giúp nhà văn hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nó không bị sử dụng vào mục đích xấu mà luôn hướng đến cái đẹp.

Tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn, có nghĩa là:

– Văn chương vạch trần, phê phán những cái xấu xa của xã hội và đòi hỏi phải thay thế, diệt trừ những cái xấu xa đó.

– Văn chương cũng bồi đắp tinh thần, xây dựng đời sống tâm hồn, thanh lọc tình cảm của con người.

Bình luận:

  • Nhận xét đúng đắn, khái quát, xác thực.
  • Ý thức được sức mạnh và sự nghiệp cao cả của văn chương.
  • Thấy được cách tác động đặc thù của văn chương vào cuộc sống.
  • Xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ của văn chương.
  • Thể hiện niềm tin ở văn học trong việc cải tạo tâm hồn con người.

2.3. Kết luận

Khẳng định quan niệm của Thạch Lam về văn chương là hoàn toàn đúng đắn.

Ý nghĩa của quan niệm trên.

Ví dụ 1:

Có ý kiến cho rằng: “Hành động cắt dây trói cứu A Phủ của Mị cũng là hành động cắt đứt sợi dây ràng buộc mình với nhà thống lí Pá Tra”.

Ý kiến của anh chị về vấn đề trên.

Gợi ý làm bài:

a. Mở bài

  • Dẫn dắt vấn đề , giới thiệu tác giả tác phẩm Vợ chồng A phủ[ Tô Hoài ]
  • Nêu xuất xứ và trích dẫn ý kiến: “Hành động cắt dây trói cứu A Phủ của Mị cũng là hành động cắt đứt sợi dây ràng buộc mình với nhà thống lí Pá Tra”.

b. Thân bài

  • Giải thích ý kiến:
    • “Hành động cắt dây trói cứu A Phủ” của Mị: giải thoát cho A Phủ, cứu A Phủ khỏi những khổ đau mà cha con Pá Tra gây ra.
    • Đó cũng là hành động cắt đứt sợi dây ràng buộc mình với nhà thống lí: Mị tự cứu bản thân mình, giải thoát khỏi nỗi sợ hãi về bóng ma thần quyền của nhà thống lí.
  • Phân tích, lí giải nguyên nhân dẫn tới hành động của Mị:
    • Ban đầu: Mị thản nhiên, lạnh lùng.
    • Sau khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ, Mị như choàng tỉnh: Mị nhớ lại cảnh ngộ của bản thân, cảnh ngộ của người đàn bà bị trói đến chết trước kia, thương A Phủ, muốn cứu A Phủ nhưng lại sợ bị “trói thay vào đấy, phải chết trên cái cọc ấy”.
    • Tình thương người lấn át nỗi sợ hãi => Mị cắt dây trói cứu A Phủ. Đây không chỉ là hành động giải thoát cho A Phủ mà còn là sự chiến thắng chính nỗi sợ hãi của bản thân mình.
  • Ý nghĩa của hành động:
    • Đó là kết quả của quá trình diễn biến tâm lí phức tạp nhưng hợp lí của Mị.
    • Thể hiện vẻ đẹp tâm hồn: lòng yêu thương, sức sống tiềm tàng => giúp Mị vượt qua nỗi sợ hãi từ bao lâu.
    • Thể hiện tư tưởng nhân đạo của nhà văn: phát hiện, trân trọng vẻ đẹp và sức sống của con người.

c.  Kết bài

  • Khẳng định lại tính chất đúng đắn của vấn đề :Hành động cứu A phủ cũng là hành động Mị tự cứu mình
  • Rút ra những bài học cho bản thân từ vấn đề : có thể nêu bài học cuộc sống,…

Ví dụ 2:

Có ý kiến cho rằng: "Sự nhẫn nhục của nhân vật Từ [Đời thừa – Nam Cao] không đáng trách, chỉ đáng thương; còn sự nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài [Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu] thì vừa đáng thương vừa đáng trách".

Từ cảm nhận của mình về hai nhân vật này, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.

Gợi ý làm bài:

a. Mở bài

  • Nam Cao là nhà nhân đạo lớn, là nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại; Đời thừa là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông trước 1945.
  • Nguyễn Minh Châu là nhà văn tài năng đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975; Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm xuất sắc của ông thuộc giai đoạn này.

b. Thân bài

  • Giải thích ý kiến:
    • Sự giống nhau của hai nhân vật: đều nhẫn nhục. 
    • Sự khác nhau:
      • Sự nhẫn nhục của Từ chỉ là một bất hạnh đáng được cảm thông, không có gì đáng trách.
      • Còn sự nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài vừa là một bất hạnh đáng thương vừa có những sai lầm đáng trách.
  • Phân tích, chứng minh:
    • Về nhân vật Từ
      • Từ là người vợ hoàn toàn yếu thế, phụ thuộc; hiền từ, nhu thuận, chăm chút chi li; thấu hiểu và tin tưởng phẩm chất tốt đẹp bền vững của chồng. Được khắc họa như một nhân vật phụ; trong không gian gia đình; thống nhất ngoại hình với tính cách.
      • Sự nhẫn nhục của Từ chủ yếu là nhẫn nhịn những hành vi thiếu tự chủ trong lúc phẫn đời mà tìm đến rượu của người chồng luôn day dứt lương tâm.
    • Về nhân vật người đàn bà hàng chài
      • Là người đàn bà mạnh mẽ mà chịu lệ thuộc, chấp nhận việc hành hạ tàn tệ; sắc sảo, hiểu lẽ đời nhưng chưa có ý thức về giá trị sống, quyền sống của mình; hiểu rõ bi kịch của mình và gia đình mà chỉ cam chịu, không phản ứng.
      • Được khắc họa như nhân vật trung tâm; trong không gian rộng từ gia đình đến tòa án; ngoại hình và tính cách có nhiều tương phản.
      • Sự nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài là một cách chấp nhận những đầy đọa vô lí của người chồng quen thói bạo hành; đã thành một cách sống buông xuôi, thỏa hiệp; không những không thức tỉnh được chồng, trái lại, chỉ càng tiếp tay cho thói bạo hành gia đình.
        • Bình luận: Khẳng định sự đúng đắn của ý kiến:
          • Chỉ ra được những khác biệt thật sự trong một hiện tượng tưởng chừng hoàn toàn giống nhau, giúp người đọc nhận ra nét độc đáo của mỗi hình tượng.
          • Đồng thời, giúp người đọc cảm nhận được điểm gặp gỡ và nét khác biệt trong cách nhìn nhận và mô tả đời sống cũng như trong tư tưởng của mỗi tác giả.

c. Kết bài

  • Khẳng định lại ý kiến, rút ra bài học.

1. ĐỀ BÀI

Đề 1. Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai cho rằng: "Nhìn chung văn học Việt Nam phong phú, đa dạng; nhưng nếu cần xác định một chủ lưu, một dòng chính, quán thông kim cổ, thì đó là văn học yêu nước" [Dẫn theo Trần Văn Giàu tuyển tập, NXB Giáo dục, 2007].

Hãy bày tỏ ý kiến của anh [chị] về nhận xét trên.

Đề 2. Bàn về thơ Tố Hữu, nhà phê bình Hoài Thanh viết "Thái độ toàn tâm toàn ý vì cách mạng là nguyên nhân chính đưa đến sự thành công của thơ anh" [Tuyển tập Hoài Thanh, NXB Văn học, Hà Nội, 1982].

2. GỢI Ý

ĐẾ 1

a] Tìm hiểu đề

Để hiểu đúng đề, anh [chị] hãy làm rõ nghĩa các từ, cụm từ:

- Phong phú, đa dạng: có nhiều tác phẩm với nhiều hình thức thể loại khác nhau [tức là không nghèo nàn, đơn điệu].

- Chủ lưu: dòng chính, bộ phận chính [khác với phụ lưu, chi lưu].

- Quán thông kim cổ: thông suốt từ xưa đến nay, ý chung cả lời nhận xét của nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai: Văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm với nhiều hình thức thế loại khác nhau. Giữa nhiều dòng, nhiều hình thức đó, từ xưa đến nay, bộ phận văn học yêu nước có địa vị trọng yếu nhất

Yêu cầu của đề bài: Đề này yêu cầu học sinh làm rõ ý kiến của GS. Đặng Thai Mai cho rằng từ xưa đến nay, trong cái phong phú đa dạng của văn học Việt Nam, dòng văn học yêu nước là một chủ lưu.

b] Lập dàn ý

Mở bài: Giới thiệu ý kiến của GS. Đặng Thai Mai.

Thân bài:

- Văn học Việt Nam rất phong phú, đa dạng.

- Văn học yêu nước là chủ lưu xuyên suốt lịch sử Văn học Việt Nam

- Lí giải nguyên nhân khiến văn học yêu nước trở thành chủ lưu xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam.

Kết bài: Nhận định của anh [chị] về ý kiến của GS. Đặng Thai Mai và giá trị hiện nay của ý kiến đó.

ĐẾ 2

a] Tìm hiểu đề

- Tiểu sử Hoài Thanh và ý kiến trích dẫn: Hoài Thanh tên thật là Nguyễn Đức Nguyên, sinh năm 1909 ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộ, tỉnh Nghệ An, mất ngày 14 - 3 - 1982 tại Hà Nội. Ông từng là Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật, Tổng thư kí Hội Vãn học nghệ thuật Việt Nam, Viện phó Viện Văn học, và chủ nhiệm tuần báo Văn nghệ cho đến năm 1975.

Tác phẩm chính: Thi nhân Việt Nam [1941, viết chung với Hoài Chân], Quyền sống con người trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du [1949], Nói chuyện thơ kháng chiến [1951], Phê bỉnh và tiểu luận, tập 1 [1960], tập 2 [1965], tập 3 [1971], Nói chuyện tha [1978], ...

Ý kiến trên của Hoài Thanh được trích từ bài Thơ Tố Hữu viết tháng 5-1976, in lại trong Tuyển tập Hoài Thanh, tập 1, NXB Văn học, Hà Nội, 1982.

- Biết được những điều trên ta sẽ hiểu: Đây là ý kiến của một người làm công tác văn học nghệ thuật lâu năm, chuyên nghiên cứu và bình luận thơ, và viết bài văn này trong không khí cả nước phân khởi với niềm vui đại thắng, và rộn rã với những công việc trong hoà bình [1976]. Biết được thời điểm xuất hiện bài văn, ta có thể biết bài văn này chịu ảnh hưởng của những bài văn nào trước đó [nếu có] và ảnh hưởng của nó đến những bài viết sau...

Phải lưu ý chữ chính trong câu: "Thái độ toàn tâm toàn ý vì cách mạng là nguyên nhân chính đưa đến sự thành công của thơ anh".

Như thế theo Hoài Thanh, còn có những nguyên nhân khác góp phần làm nên sự thành công của thơ Tố Hữu như năng khiếu, truyền thống gia đình và quê hương, sự tu dưỡng nghệ thuật. Nhưng cái chính là "thái độ toàn tâm toàn ý vì cách mạng".

Thật vậy, tham gia cách mạng từ thời còn đi học, là cán bộ cao cấp lâu năm của Đảng, cuộc sống tinh thần, tình cảm của Tố Hữu luôn hướng về nhân dân, về đất nước, về dân tộc. Đó chính là chất liệu của những bài thơ trữ tình chính trị của ông đời và thơ gắn làm một. [Nếu nói năng khiếu, truyền thống gia đình - quê hương... là nguyên nhân chính chắc không thích hợp.]

Hoài Thanh nói cụ thể vào trường hợp thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu không nói đến lí do thành công của mọi nhà thơ.

Ta biết rằng nhu cầu tinh thần, tình cảm của con người phong phú, đa dạng nên có nhiều loại thơ trữ tình khác [thơ về tình yêu, về phong cảnh...] với những nguyên nhân thành công khác.

Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị [Từ ẩy, Việt Bắc, Gió lộng]. Phần lớn thơ trước Cách mạng tháng Tám 1945 của Xuân Diệu [Thơ thơ, Gửi hương cho gió], của Nguyễn Bính [Tâm hồn tôi, Lã bước sang ngang] là thơ tình yêu. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã bàn đến các bài thơ này.

Ý kiến của Hoài Thanh phù hợp với thực tế sáng tác của Tố Hữu. Và gợi ý cho chúng ta khi tìm hiểu thơ Chế Lan Viên, Chính Hữu...

Ý kiến ấy cũng đúng về lí luận. Nhà vãn nổi tiếng người Đức Bê-se đã viết: "Nhà văn phải cố gắng sao cho những cái làm cho anh phấn khởi hay xúc dộng cùng là những cái làm cho dân tộc anh vui sướng hay đau khổ. Chỉ có như thế, khi thể hiện về chính lòng mình, anh mới đạt dược độ cao nhất về trữ tinh mà một nhà thơ có thể vươn tới: anh sẽ là tấm gương của tâm hồn dân tộc, anh sẽ là người phát biểu những ước vọng và quyết tâm của dân tộc anh'' [Sổ tay của người viết văn, NXB Văn học, Hà Nội, 1961].

b] Lập dàn ý

Mở bài: Giới thiệu ý kiến của nhà phê bình Hoài Thanh. Nêu nhận định khái quát về ý kiến đó.

Thân bài:

- Giới thiệu khái quát những thành công của thơ Tố Hữu.

- Thái độ toàn tâm toàn ý đối với sự nghiệp cách mạng là nguyên nhân chính dẫn đến sự thành công của thơ Tố Hữu.

- Ở Tố Hữu, nhiệt tình cách mạng hòa làm một với tâm hồn nhạy cảm và nghệ thuật thơ điêu luyện.

Kết bài: Bài học về sáng tác rút ra từ ý kiến của nhà phê bình Hoài Thanh.

LUYỆN TẬP

Gợi ý: Ý kiến của Thạch Lam có hai vấn đề:

- Nói rõ văn chương không phải để giúp cho con người thoát li, quên lãng cuộc sông hiện thực.

- Khẳng định đó là một vũ khí thanh cao đề tố cáo thế giới giả dối và tàn ác, làm cho con người trong sạch và phong phú hơn.

Trong tình hình văn học trước Cách mạng tháng Tám 1945, đây là một quan niệm nghệ thuật rất tiến bộ. Đến nay, quan niệm đó vẫn còn nguyên giá trị.

DÀN BÀI

1. Mở bài

Giới thiệu Thạch Lam trong giai đoạn văn học 1930 - 1945 và ý kiến của ông về vai trò, tác dụng của văn chương đô'i với con người và xã hội.

2. Thân bài

Giải thích và bình luận:

a] "Văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên" nghĩa là thế nào?

Theo Thạch Lam, văn chương không thể xa rời cuộc sống, không quay lưng lại hiện thực. Nó không phải là một liều thuốc an thần. Trong giai đoạn 1930 - 1945, văn học Việt Nam tồn tại nhiều khuynh hướng văn học khác nhau. Có không ít tác phẩm "đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên lãng" như Hồn bướm mơ tiên [Khái Hưng], Thơ say [Vũ Hoàng Chương].

Quan niệm này của Thạch Lam gần gũi với quan niệm của Vũ Trọng Phụng: "Văn chương phải sự thực ở dời", Nam Cao: "Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than".

- Ý kiến này thể hiện một thái độ lựa chọn tiến bộ, tích cực, cho thấy nhà văn, hơn ai hết đã hiểu rõ vai trò trách nhiệm của mình và thấu hiểu được sức mạnh của văn chương.

b] "Văn chương là một thứ vũ khí thanh cao và đắc lực" nghĩa là như thế nào?

- Vốn là một công cụ nghề nghiệp đắc lực của nhà văn, văn chương là tiếng nói của tình cảm, là hình thức nhuần nhuỵ củà tư tưởng, nên tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của người đọc như một thứ vũ khí thanh cao và đắc lực.

- Từ xưa, cha ông ta đã thâu hiếu điều này. Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn... đều là những áng hùng văn bất hủ, có sức lôi cuốn, vực dậy lòng người, đâu kém những đạo quân với binh hùng tướng mạnh. Cụ Đồ Chiểu khẳng định: "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà", cho thấy sức mạnh lớn lao của "thứ vũ khí thanh cao và đắc lực ấy".

Trong thực tế, sức mạnh của thứ vũ khí thanh cao và đắc lực nếu bị lợi dụng vào mục đích xấu cũng sẽ gây tác hại không nhỏ cho con người và xã hội.

c] "Tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác", "Làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn" nghĩa là như thế nào ?

Văn chương trong một xã hội còn đầy rẫy bất công và tàn ác như lúc bấy giờ, có nhiệm vụ là vạch trần, phê phán những cái xâ'u xa, tệ lậu của xã hội, nghĩa là phải "tố cáo", phải đòi hỏi diệt trừ thay thế nó, đồng thời phải bồi đắp tinh thần, xây dựng đời sông tâm hồn, thanh lọc và dinh dưỡng tình cảm của con người.

- Nhận thức đúng đắn về hiện trạng của đời sống xã hội lúc bấy giờ, Thạch Lam xác định rõ ràng mục tiêu và nhiệm vụ của văn chương. Ông hiểu rõ mối tương quan giữa chông và xây là hai nhiệm vụ chủ yếu của văn chương.

- Ý kiến trên thể hiện niềm tin của nhà văn vào khả năng của văn chương, khả năng tự cải tạo tâm hồn của con người và quan trọng hơn là niềm tin vào một tương laí sáng sủa hơn của cuộc sông.

3. Kết luận

- Đây đúng là một quan niệm đúng đắn về vai trò và tác dụng của văn chương đối với đời sông xã hội, thể hiện được một thái độ nghề nghiệp đầy nghiêm túc của nhà văn.

- Nhận định của nhà văn Thạch Lam cho đến ngày nay, ngót năm mươi năm đã trôi qua nhưng vẫn còn mới nguyên tính thời sự và tính chính xác.

BÀI THAM KHẢO

Vãn chương! Hai từ ấy thật giản đơn mà đọc lên cũng có thể dễ dàng hiểu ngay. Nhưng những nội dung, những lượng thông tin mà hai từ giản đơn ấy tải đến cho chúng ta thì lại chẳng đơn giản chút nào. Đó thực sự là một khối lượng đồ sộ của các kiến thức.

Nhưng, nếu văn chương không "đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên lãng" thì văn chương phải là như thế nào? Đó cũng chính là vấn đề trọng tâm mà Thạch Lam đã nêu lên trong qụan niệm của mình "Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn".

Quan niệm này rất đúng, văn chương cần thế và phải thế. Đó chính là một sức mạnh của văn chương mà nếu nhà văn nào biết sử dụng triệt để thì nó rất có ích. Thứ "khí giới thanh cao và đắc lực" ở đây không phải chỉ các thứ khí giới súng ông, gậy gộc mà chúng ta thường gọi là vũ khí, nó chính là sức mạnh của ngòi bút nhà văn, là sức công phá mãnh liệt của văn chương. Từ bao lâu nay, văn chương luôn tiềm ẩn trong nó một sức mạnh rất to lớn mà nếu ai biết "điểm trúng huyệt", thì nó có thể làm lung lay những thành trì vững chãi nhất. Ở đây, những "khí giới thanh cao và đắc lực" có nghĩa văn chương là một thứ vũ khí cao thượng và rất trong sạch, không phải là thứ vũ khí tầm thường, có thể đem đi sử dụng vào bất cứ mục đích nào cũng được, dù mục đích ấy có xấu xa đến đâu cũng mang lại kết quả. Không, không phải thế. Ê-luy-a đã từng nói "Nhà văn là người công dân có ích nhất trong cộng đồng của mình", do đó không thể đem văn chương làm vũ khí phục vụ những mục đích nghệ thuật.

Các nhà văn phải dùng văn chương "thứ khí giới thanh cao và đắc lực" để "tố cáo và thay dổi một thế giới giả dối và tàn ác". Đó chính là mục đích chân chính của văn chương. Văn chương đem đến cho con người lòng yêu cuộc sống, muốn gần gũi với cuộc sống. Nhưng văn chương cũng phải có nhiệm vụ tố cáo và cải tạo cuộc sống, xã hội cũ để loại bỏ cái xấu xa, tàn ác mà trở về với cái tốt đẹp. Một nhiệm vụ thật khó khăn nhưng lại là một điều kiện khá quan trọng để văn chương và con người tiến tới được những cái tốt đẹp khác hơn.

Văn chương không đem đến cho người đọc sự thoát li, sự quên lãng, tức là văn chương khuyên con người hãy trở về thực tại, thì văn chương cũng phải biết dùng sức mạnh của vũ khí thanh cao của mình đế giúp con người được sông trong một xã hội tốt đẹp, hai nhiệm vụ ấy tưởng như không quan hệ với nhau mà thực ra lại có tương quan rất chặt chẽ. Đã thực hiện nhiệm vụ này thì nhiệm vụ kia văn chương cũng không thể từ bỏ. Và đã có rất nhiều các tác phẩm của các nhà văn. đã thực hiện rất xuất sắc nhiệm vụ "tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác" ấy. Trong Những người khốn khổ, Vich-to Huy-go cũng không ngần ngại gì mà không sử dụng sức mạnh "như bom đạn" của ngòi bút để tố cáo thật quyết liệt cái xã hội Pháp "giả dối và tàn ác", cái xã hội đã đày đọa những con người tốt đẹp như Giăng Van- giăng, Cô-dét vào sự đau khổ, sự khôn cùng. Và Lép Tôn-xtôi qua "An-na Ka-rê-ni-na" cũng đã lên án mạnh mẽ xã hội Nga hoàng đã cướp đoạt hạnh phúc và đẩy những người phụ nữ đáng thương, khao khát hạnh phúc như Anna vào cái chết không thể cứu vãn được.

Với vũ khí "thanh cao và dác lực" của mình, văn chương không những chỉ tố cáo xã hội, mà trong sự tố cáo đó, văn chương còn muốn hướng tới mục đích cao cả của mình là "thay đổi" cái xã hội ấy; nghĩa là văn chương không phải tốcáo cốt để dìm sâu "cái thế giới giả dối và tàn ác" xuống vũng bùn đen bẩn mà văn chương phải tìm cách nâng cái thê' giới ấy lên, gạn lại những bản chất tốt đẹp của thế' giới ấy để từ đó phát triển lên. Sự thay đổi ấy, văn chương không thể tự mình đảm nhiệm được, văn chương cũng đã đóng góp một phần quan trọng vào quá trình thay đổi những nét giả dốì và tàn ác của cái bạo tàn của các thế lực đen tối. Ta có thể thấy rõ các tác phẩm của các nhà văn, trong đó có cả Thạch Lam, ngoài mục đích tố cáo xã hội ra, còn hướng người đọc đến một niềm tin rằng "cái thế giới giả dối và tàn ác" trong tương lai sẽ được thay đổi, do lực lượng này hoặc lực lượng khác, và sự trở thành tốt đẹp hơn. Nhưng những điều này, ta sẽ không tìm thấy được trong các tác phẩm của nhà văn lãng mạn như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, bởi quan niệm văn chương của những nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn ấy khác với quan niệm của Thạch Lam, một nhà vãn đã khá gần với các nhà văn hiện thực đương thời.

Văn chương không chỉ cốt dùng vũ khí của mình để thay đổi và tố cáo xã hội, mà văn chương còn phải "làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn". Quan niệm này hoàn toàn tiến bộ. Đây chính là mục đích cao cả nhất mà văn chương chân chính muốn vươn tới và cũng chính là một trong các chức năng của văn học: Chức năng giáo dục. Bản thân con người luôn luôn vươn tới sự toàn vẹn của chân, thiện, mĩ. Quá trình vươn lên này của con người có rất nhiều yếu tố khác giúp sức, trong đó một yếu tố khá quan trọng là văn chương. Văn chương làm "lòng người thêm trong sạch và phong phú" có nghĩa là văn chương đã giúp cho những tình cảm trong tâm hồn con người trở nên trong sáng hơn, đẹp đẽ hơn, cao thượng hơn và dồi dào hơn. Đối tượng phục vụ của văn chương chính là con người. Do đó những tác phẩm có giá trị là những tác phẩm phục vụ đắc lực cho con người, giúp con người trở nên "người" hơn.

Lê-nin đã từng nói: "Không có tình cảm thì sẽ không bao giờ và không thể có sự tỉm tòi của con người về chân lí". Chính văn chương đã làm giàu thêm tình cảm của con người. Văn chương cũng đã giáo dục con người tìm đến những cái tốt đẹp, những phẩm chất trong sáng. Từ đó giúp con người nhận thức được ở bản thân mình và cố gắng để hoàn thiện mình.

Từ xưa đến nay, văn chương luôn tìm mọi cách để giáo dục con người. Ngô Thì Nhậm đã từng nói đại ý: văn phải ngăn ngừa điều xấu; khuyến khích điều hay, đó mới chính là giá trị xác thực của văn chương. Nhà vãn Nam Cao cũng đã từng nói ý này: Một tác phẩm hay phải là một tác phẩm mang tính công bình, lòng bác ái, giúp cho người gần người hơn. Đó là những quan niệm rất đúng đắn. Nó góp phần khẳng định tính chất xác đáng trong quan niệm của Thạch Lam.

Nhưng nội dung và các tác phẩm văn chương có giá trị nêu trên đều giúp cho con người có ý thức nhìn nhận lại mình, phát hiện những mặt tốt, từ đó cô' gắng sửa chữa những mặt xấu, phát huy những mặt tốt để làm cho mình trở thành con người toàn diện. Trong truyện "Sợi tóc", Thạch Lam đã miêu tả một cuộc đấu tranh nội tâm rất gay gắt của nhân vật, khi đứng trước ranh giới của vùng sáng lương thiện và bóng tối của tội lỗi, của sự ăn cắp. Cuối cùng, nhân vật đã chiến thắng bản châ't xấu xa, thấp hèn của mình để bước hẳn ra vùng ánh sáng lương thiện. Rõ ràng, khi đọc những truyện như thế, người đọc sẽ suy ngẫm lại mình, những người còn mang trong lòng những suy nghĩ không lành mạnh của sự lường gạt, dôi lừa sẽ cảm thây tỉnh ngộ trong lương tâm, và từ đó sẽ hướng tới những suy nghĩ trong sáng hơn.

Hoặc trong những tác phẩm đầy chất thơ cũng của Thạch Lam như Gió dầu mùa, Dưới bóng hoàng lan, Đứa con dầu lòng... người đọc sẽ cảm nhận được ở nơi đó nhiều tình cảm mới lạ, "êm đềm tựa cánh bướm non". Tầm hồn của mọi người sẽ trở nên dạt dào, tràn trề cảm xúc. Họ càng thấy yêu hơn cặp trai gái trong truyện, mến hơn đôi vợ chồng trẻ và những đứa trẻ. Từ những tình cảm ấy, họ sẽ cảm thấy gần gũi, cảm thông với nhau hơn.

Tóm lại, trong hầu hết các tác phẩm có giá trị của nhà văn chân chính, trong đó có cả các nhà văn lãng mạn cũng như hiện thực, đều có một mục đích làm giàu thêm trong lòng người bằng những cảm xúc mới lạ, làm cho tâm hồn con'người thêm "trong sạch và phong phú hơn". Quan niệm về văn chương của Thạch Lam rất đúng. Theo tôi đó là một quan niệm đứng gần với văn chương hiện thực hơn, mặc dù Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Vì vậy, đúng với quan niệm của mình, các tác phẩm của ông viết đều nhằm vào mục đích ấy. Đi theo một con đường riêng của mình, Thạch Lam cũng đã có thể tự hào vì ông đã để lại được một số' lượng tác phẩm có giá trị, vừa đậm đà tình cảm thiết tha vừa mang tính hiện thực khá sâu sắc. Với quan niệm ấy, ông không hẳn là một nhà văn lãng mạn nhưng cũng không phải là một nhà văn hiện thực phê phán. Các nhà văn lãng mạn không có những tác phẩm mà trong đó văn chương được sử dụng như là "một khí giới thanh cao và đắc lực" để "tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác". Các tác phẩm của họ thường đề cập đến tình yêu, đến sự giải phóng cá nhân, hoặc có một vài nhà văn lãng mạn đi lệch sang đề tài khác như Lan Khai với tác phẩm Lầm than... nhưng cái đó cũng chỉ là sự vượt biên chút ít, sau đó rồi cũng quay về với đề tài cũ. Còn các nhà văn hiện thực phê phán thì chỉ dùng tác phẩm của mình để "tố cáo" cái xã hội "giả dối và tàn ác” là xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời, chứ chưa có một hướng nào đó để thay đổi cái xã hội ấy tốt đẹp hơn ra.

Do đó, các tác phẩm của các nhà văn hiện thực phê phán thường có một đúc kết bế tắc, không lối thoát. Đó chẳng qua do nhận thức chưa đến độ chín, có nghĩa là các nhà văn ấy chưa nhìn thấy rõ tương lai, do đó chưa hướng văn chương vào mục đích tốt đẹp, có hiệu quả nhất. Nhưng nói như thế cũng không có nghĩa là chỉ riêng một mình Thạch Lam đã quan niệm đúng về văn chương và đã nhìn thấy rõ được tương lai. Trong quan niệm về văn chương, ông có cho rằng văn chương phải "thay đổi" cái thế giới, chủ yếu do tính nhân đạo của ông. Ông không muốn nhìn thấy những sự giả dối, độc ác, bạo tàn. Do vậy, ông luôn có ý muốn cho tác phẩm của mình, cho nhân vật của mình thoát ra những cái xấu xa để vươn tới sự tốt. Đây cũng là một suy nghĩ tốt đẹp của Thạch Lam, nhưng đâu phải cái gì cũng có thể dễ dàng một sớm một chiều mà thay đổi, ví như cái xã hội thực dân tàn bạo kia, sau này phải nhờ cách mạng mới có thể lật đổ và thay đổi được nó.

Dù sao, ta cũng công nhận quan niệm về văn chương của Thạch Lam là một quan niệm rất đúng đắn. Quan niệm ấy là một sự khái quát lại một trong những tác dụng và giá trị đích thực của văn chương. Văn chương ngày nay cũng vậy, phải phát huy thật triệt để những chức năng của mình, đồng thời phải cùng với con người góp phần thay đổi xã hội, giúp cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

Video liên quan

Chủ Đề