Thành tựu văn học Trung Quốc

THÀNH TỰU VĂN HỌC CỦA TRUNG
QUỐC
MỞ ĐẦU
Trong nền văn học thế giới, văn học Trung Quốc nổi lên như một nền văn học lớn,
có lịch sử lâu dài và ngày càng phát triển với nhiều thành tựu rực rỡ. Văn học Trung
Quốc phát triển với nhiều loại hình đa dạng và nội dung sâu sắc cùng với tên tuổi nhiều
tác giả nổi tiếng thế giới. Việc tìm hiểu văn học Trung Quốc là hết sức cần thiết để hiểu
thêm về nền văn học này cũng như xác định vị thế của nó. Cho đến ngày nay, những
thành tựu mà văn học Trung Quốc đạt được đã có nhiều giá trị to lớn đóng góp vào nền
văn học thế giới.
Trung Quốc có một nền văn học phong phú lâu đời, liên tục 5 nghìn năm. Ngay từ
trước công nguyên [thời cổ đại] nền văn học này đã có những thành tựu rực rỡ như thần
thoại, Kinh Thi, văn xuôi triết học, Sở từ, Sử ký

Sang thời trung đại, Phú thời Hán, Thơ thời Đường, Từ thời Tống và tiểu thuyết
thời Minh,Thanh là các thành tựu văn học rực rỡ.
Nhà văn Lỗ Tấn đóng vai trò mở đầu nền văn học hiện đại. Sau đó văn học hiện
đại của cách mạng vô sản diễn ra khá phức tạp, chỉ có được thành tựu đáng kể nhất từ
giai đoạn Đổi Mới trong hai thập kỷ cuối thế kỉ 20.
NỘI DUNG
I. NHỮNG THÀNH TỰU TIÊU BIỂU CỦA VĂN HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐIỂN:
1.Văn học thời cổ đại :
Trung Quốc có một nền văn học phong phú đặc sắc vào bậc nhất trên thế giới.
Văn học dân gian Trung Hoa thời cổ đại chắc chắn rất phong phú nhưng chỉ số ít
còn giữ được đến ngày nay, trong số đó có một số ghi trong sách cổ hoặc các đồ vật cổ.
1.1. Thần thoại, truyền thuyết:

Thần thoại và truyền thuyết được ghi trong sách cổ cũng là văn học truyền miệng
trong thời kì xã hội thị tộc. Nội dung được ghi chép thường đơn giản. Sau này, đọc các
bản phóng tác của nhà văn hiện đại thì câu chuyện phong phú kỳ thú hơn. Ví dụ các
truyện Nữ Oa vá trời, Hậu Nghệ bắn mặt trời, Hằng Nga lộng nguyệt, Tinh Vệ lấp biển,
Ngưu lang Chức nữ, vua Vũ trị thủy .v.v… Thần thoại Trung quốc tìm cách giải thích
các hiện tượng tự nhiên, như mặt trời, mặt trăng mây gió đến cây cỏ, chim muông. Ðặc
biệt những truyện nói về nguồn gốc trái đất và muôn loài đã được hư cấu thật tài tình.
Gạt bỏ những chi tiết hoang đường, chúng ta hiểu được gần đúng tình cảnh người thời
nguyên thuỷ, ăn hang ở lỗ, dần dần tìm ra lửa, biết đánh cá, săn muông thú, trồng trọt và
chăn nuôi. Thần thoại tin rằng các vị thần có công lao hướng dẫn con người làm được
những thành công vĩ đại ấy.
Nội dung truyền thuyết thì gần gũi với con người hơn. Những nhân vật như vua

Hoàng Ðế, vua Nghiêu, vua Thuấn và vua Vũ được coi là nhân vật lịch sử có thật, được
thêu dệt tô điểm thành huyền thoại. Ðó là những vị anh hùng không hề chịu bó tay trước
thiên nhiên hung dữ, khắc nghiệt luôn luôn gây tai hoạ cho người. Họ có sức mạnh ghê
gớm để khắc phục khó khăn gian khổ hoặc tranh đấu đến chết đối với các lực lượng tự
nhiên tàn bạo.
Thần thoại và truyền thuyết Trung quốc phản ánh những niềm khát vọng của
người lao động thời đó. Họ muốn giảm nhẹ công việc nặng nhọc, tăng năng suất, sống
thoải mái trong tình thương yêu đồng loại.
Thần thoại truyền thuyết có ảnh hưởng rất lớn đến văn học đời sau. Khuất
Nguyên nhà thơ thời Chiến quốc đã dùng hình ảnh thần thoại cho thơ. Các nhà thơ thời
Đường như Lý Bạch hay dùng thần thoại, truyền thuyết để trang bị cho thơ của mình
một không khí lãng mạn, phóng khoáng, Lý Thương Ẩn, Ðỗ Mục cũng thường nhắc

đến Hằng Nga, Chức Nữ tượng trưng cho người đẹp xa vời. Còn trong tiểu thuyết cổ
điển như Tây Du ký, Phong thần diễn nghĩa, Liêu Trai chí dị, tác giả cũng sử dụng bút
pháp thần thoại truyền thuyết.
Thần thoại được coi là “cuốn lịch sử” đầu tiên của lịch sử Trung Hoa. Ðến nhà
Chu mới chính thức có lịch sử ghi chép và nền văn học viết.
Thần thoại Trung quốc gồm nhiều truyện vụn vặt, lẻ tẻ [Ấn Ðộ và Hi lạp, sau giai
đoạn thần thoại, phát sinh thể loại sử thi anh hùng ca kết nối các thần thoại và phát triển
tiếp, do đó thần thoại Ấn Ðộ và Hi Lạp được truyền lại đời sau trong một hình thức đầy
đủ và hoàng tráng hơn]. Tuy vậy, thần thoại Trung Quốc cũng gây ảnh hưởng lâu dài đến
nền văn học Trung Hoa suốt hàng ngàn năm sau. Thần thoại đã biến thành điển cố, điển
tích và gây nguồn cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ đời sau.
1.2. Kinh Thi:

Tiêu biểu nhất trong kho tàng thơ ca cổ đại là tập Kinh Thi gồm khoảng 300 bài
thơ có vị trí đặc biệt trong nền văn học và giáo dục Trung Quốc.
Kinh Thi là tập thơ đầu tiên của Trung Quốc, sáng tác trong khoảng thời gian hơn
năm trăm năm, cách đây khoảng hai ngàn năm trăm năm. Đến thế kỷ 6 trước CN sưu tầm
khoảng ba trăm bài, được soạn thành tập. Về sau Khổng Tử biên soạn thành sách gọi là
Kinh Thi dùng làm sách giáo khoa [trong bộ Ngũ kinh]. Ông coi trọng việc học thơ nhằm
xây dựng tình cảm đạo đức và tạo cho lời nói thêm hoa mỹ. Ông nói: "Không học Kinh
Thi thì không biết nó" [Luận Ngữ]. Thơ có thể làm cho mọi người phấn chấn, đoàn kết
với nhau, bộc lộ lòng bất mãn, phẫn uất của mình và tham khảo phong tục đất nước. Theo
truyền thuyết, lúc đầu Kinh Thi có tới 3000 bài, sau rơi rụng dần chỉ còn hơn 300 bài.
Kinh Thi gồm ba phần: Phong, Nhã, Tụng.
Phong: còn gọi là quốc phong, có 160 bài. Đó là ca dao, dân ca của 15 nước nhỏ.

Đó là tác phẩm của miền Bắc gồm lưu vực sông Hoàng Hà, Trường Giang, trung tâm văn
hóa của Trung Quốc thời bấy giờ.
Nhã: Gồm tiểu nhã và đại nhã [còn gọi nhị nhã], có 105 bài.
Tiểu nhã: Những bài dùng trong trường hợp các buổi yến tiệc quý tộc [74 thiên].
Đó là thơ ca của giới quý tộc đại phu làm trong những dịp triều hội, yến tiệc nói về quan
hệ tốt đẹp giữa vua và các nghi thức tiếp tân giữa chủ và khách Đại nhã: những bài
dùng trong trường hợp quan trọng như khi Thiên tử họp các vua chư hầu hoặc tế ở miếu
đường [31 thiên].
Tụng: Là những bài tán tụng, ca ngợi dùng lúc tế lễ thần linh, thái miếu, hơn 100
bài, giống như văn tế sau này. Tụng gồm có Chu tụng, Lỗ tụng và Thương tụng [gọi là
tam tụng] sáng tác ở ba nước Chu, Lỗ và Thương.
Nghiên cứu Kinh Thi, người đọc hiểu được phong tục tập quán, tình hình xã hội

và khuynh hướng tư tưởng của từng vùng và từng giai tầng xã hội. Đại bộ phận quốc
phong và một phần Tiểu nhã, một phần Đại nhã có tính nhân dân và tính phê phán cao là
sáng tác của người bình dân lao động. Còn Tụng và phần còn lại của Nhị nhã là sáng tác
của giới quý tộc nhằm ca tụng giai cấp thống trị. Có ý nghĩa nhất đối với chúng ta ngày
nay là "quốc phong" và một số bài trong Tiểu nhã. Đó thực sự là văn học dân gian chân
chính của Trung Quốc cổ đại.
Các bài ca dao, dân ca trong quốc phong là sáng tác của nhân dân lao động, ca hát
về công ăn việc làm của họ, tâm tình, cảm xúc của người nghèo khổ bị áp bức bóc lột. Họ
phải làm lụng cực nhọc để nuôi bọn lãnh chúa sống giàu sang, nhàn hạ. Ví dụ bài " Thất
Nguyệt " như sau: Tháng giêng sửa soạn cày bừa, tháng hai ra đồng cày ruộng, tháng ba
trồng dâu nuôi tằm, tháng tư, tháng năm đi hái trái viễn chín làm thuốc, tháng sáu hái lê
và mận,tháng bảy nấu quỳ đậu hái dưa, tháng tám hái bầu, chặt lau sậy, gặt hái, dệt vải,

tháng chín hái mè, đàn bà may quần áo lạnh cho nhà chủ, đàn ông đập lúa, tháng mười
nạp tô, tháng mười một đi săn chồn, tháng mười hai săn thú lớn, đục băng cất đi cho chủ
ăn mùa hè cho mát.
Bài thơ còn tả những cách thức bóc lột của bọn lãnh chúa. Thỉnh thoảng chen
những tiếng thở dài, giọng thơ thường kết thúc mỉa mai, cay đắng, oán trách.
Đề tài chiến tranh trong Kinh Thi cũng khá phong phú. Phản ánh nỗi khổ cực do
chiến tranh thời Xuân Thu gây ra cho người lao động. Họ phải bỏ làng xóm, việc cày cấy
và gia đình để đi tham gia các cuộc viễn chinh. Những nỗi buồn khổ của chinh phu, chinh
phụ thể hiện trong các bài Đông Sơn, Thái vi.
Cũng giống như ca dao dân ca nước Việt, Kinh Thi gồm rất nhiều bài ca tình yêu.
Lời lẽ hồn nhiên thẳng thắn chất phác, mạnh dạn và tình cảm chân thành. Mở đầu Kinh
Thi là bài " Quan thư" bài thơ tình yêu, bộc lộ những nỗi vui buồn thương nhớ, ước mong

và yêu đương Tình yêu của người bình dân hồi ấy thật trong sáng, ngây thơ. Mùa xuân
trai gái vui chơi trên bờ sông hái cỏ thơm tặng nhau, tỏ tình. Con gái tỏ tình bằng cách
mời anh nhảy múa. Những cuộc hò hẹn, cô gái đến trước, nấp một nơi để chứng kiến nỗi
bứt rứt đau khổ của người yêu. Thơ tình yêu cũng đã lên tiếng oán trách hoặc phản đối
luân lý, lễ giáo, luật lệ khắc nghiệt thời cổ đại. Từ khi yêu đương đến cuộc hôn nhân và
đời sống gia đình, người phụ nữ thường bị hạn chế, chịu thiệt thòi suốt đời. Họ viết
những vần thơ cảm động, ai oán.
Kinh thi được coi là sách kinh điển của học đường và nhà nho nên chủ đề tình yêu
của người lao động bình dân ít được chú ý. Những bài ca tình yêu do giới quí tộc cung
đình soạn ra trong Đại Nhã được ca tụng nhiều hơn.
*Nghệ thuật kinh thi
Có 5 biện pháp dùng trong Kinh Thi

Phú: là phô bày , là nói thẳng sự việc ra, nghĩ thế nào thì nói thế ấy.
Tỷ: là so sánh, ví von, chẳng hạn "nhánh cỏ non" ví với bàn đẹp, "ngọc" ví với
người hiền tài .v.v "Tỷ"cùng gần giống với biện pháp tượng trưng. Như bài thơ Thạc
thử [đánh chuột] kẻ chuyện bọn chuột tham lam tàn nhẫn cần phải diệt chúng nhưng ta
hiểu rằng chuột là bọn lãnh chúa, quan lại tham nhũng.
Hứng: nói sự việc này để dẫn đến sự việc khác mình muốn nói. Ví dụ tả cảnh
"chim gù nhau" để nói chuyện trai gái tìm lứa đôi, nói "quả mơ rụng' đẻ chỉ việc năm
tháng trôi qua, tuổi xuân sắp hết, nói " thuyền trôi nổi giữa dòng sông" để dẫn đến chuyện
mối tình dang dở. Đến ngày nay ba cách ấy đã thông dụng trong ngôn ngữ văn chương.
Kinh Thi là tập thơ đầu tiên của Trung Quốc đã sử dụng thành thạo nên ta phải kể đó là
đặc sắc nghệ thuật của giai đoạn này. Người làm thơ quả là có cái nhìn mới mẻ, óc tưởng
tượng dồi dào, sự liên tưởng đột ngột rất nên thơ. Có khi cả ba biện pháp tu từ đó được

dùng xen kẽ trong một bài. Như bài Quan Thư gồm năm đoạn. Đoạn 1 có thể hứng và tỷ,
đoạn 2 theo thể hứng, đoạn 3 theo lối phú, đoạn 4 và 5 lại theo thể hứng. Kết cấu xướng
họa, thường dùng trong các bài ca lao động tươi vui đối đáp của các cô gái hái dâu.
Kết cấu trùng điệp trong Kinh Thi thường theo cách " trùng chương, điệp cú" [lặp
đoạn, lặp câu, lặp hình ảnh, lặp từ ngữ, âm điệu ]. Trùng điệp làm tăng cường độ diễn
đạt. Nhạc điệu rất giàu có trong Kinh Thi. Có bài là dân ca, có bài là thơ được phổ nhạc.
Ngày nay, phần âm nhạc đã mất đi, chỉ còn lời với tiết tấu vần điệu của ngôn ngữ nghe
vẫn êm tai, dễ nghe. Lời trong bài được chọn lọc, tinh xảo. Khi sưu tầm, lời thơ có thể
được nhuận sắc [gọt sửa] cho hay hơn, dễ nhớ hơn. Do đó, về sau trong ngôn ngữ giao
tiếp người ta hay chêm một câu Kinh Thi như là một dạng tục ngữ, thành ngữ; Trong
sáng tác văn học, người ta sử dụng Kinh Thi như là điển tích điển cổ.
Kinh Thi xưa nay được xem là một tác phẩm văn học cổ điển vĩ đại có ảnh hưởng

rất lớn đối với nền văn học Trung Quốc. Kinh Thi còn có giá trị hiện thực cao, được coi
là tác phẩm mở đầu cho văn học hiện thực Trung Quốc.
1.3. Khuất Nguyên và Sở từ:
Khuất Nguyên là nhà thơ được nhân dân Trung Quốc kính trọng nhất và yêu thích
nhất trong hàng nghìn năm nay. Ông sống vào thời kỳ Chiến Quốc [từ năm 475 đến năm
221 trước công nguyên ]. Cái gọi là “Chiến Quốc” là vì đây là một thời đại các nước chư
hầu san sát, hỗn chiến không ngừng. Trong đó nước Tần và nước Sở là hai nước có thực
lực lớn mạnh nhất lúc đó. Mười mấy nước nhỏ khác đều dựa vào hai nước này.
Khuất Nguyên là quý tộc nước Sở, và đảm nhiệm chức quan cấp cao. Ông có học
thức uyên bác, giỏi về ngoại giao, ban đầu, ông được nhà vua nước Sở ưa thích và tin
tưởng. Trong thời đại đó, nhà vua và quyền quý các nước đều tranh nhau thu hút nhân tài
phục vụ cho mình, cho nên họ tiếp đãi nhân tài một cách lễ phép. Lúc đó, nhiều người có

học thức nổi tiếng đều du thuyết ở các nước, nỗ lực hết sức nhằm thực hiện lý tưởng
chính trị của mình. Nhưng Khuất Nguyên không như vậy, ông rất quyến luyến tổ quốc,
mong phụ tá nhà vua nước Sở bằng tài hoa của mình, khiến nước Sở chính trị dân chủ,
thực lực nhà nước mạnh mẽ. Với lý tưởng như trên, Khuất Nguyên cho đến chết cũng
không muốn rời khỏi tổ quốc. Điều đáng tiếc là, vì Khuất Nguyên có mâu thuẫn gay gắt
với tập đoàn quý tộc hủ bại nước Sở về mặt nội chính và ngoại giao, hơn nữa lại bị người
khác vu cáo hãm hại, Khuất Nguyên bị nhà vua nước Sở xa lánh, sau đó, địa vị nước lớn
và thực lực nhà nước mạnh mẽ của nước Sở dần dần suy sụp. Năm 278 trước công
nguyên, quân đội nước Tần đánh phá Dĩnh Đô, thủ đô nước Sở. Nước tan nhà tan, Khuất
Nguyên không chịu nổi nỗi căm phẫn, nhảy xuống sông tự tử.
Nói đến Khuất Nguyên, người ta nhớ đến ngay thể Từ [hay còn gọi là Sở Từ], và
nhắc đến thể Từ, người ta không thể không nghĩ ngay đến tác phẩm Ly Tao nổi tiếng của

ông. Có thể nói, trong lịch sử văn học Trung Quốc, tên tuổi và địa vị của Khuất Nguyên
là không thể thay thế, làm rạng rỡ cả một nền văn học. Thể Từ cũng được coi là cơ sở của
Hán Phú sau này, là bước đột phá trong lịch sử văn học Trung Quốc khi phá vỡ quy luật
thông thường của tác phẩm trong tuyển tập Kinh Thi. Thể Từ, hay còn gọi là Sở Từ, cùng
với những giá trị mỹ học, giá trị lịch sử gắn liền với văn hóa, chính trị của nước Sở thời
Chiến Quốc và nhất là tấm gương bất khuất kiên cường của Khuất Nguyên đã để lại dấu
ấn vô cùng riêng biệt.
"Sở từ" là một thể thơ mới sau Kinh Thi, nó xuất hiện vào thời Tây Hán. Người
thời Hán thường gọi "Sở từ" là " phú", kì thực bất luận là thể thức hoặc từ tính chất mà
nói, cả hai đều không giống nhau.
Sở từ là sản vật của văn hóa Sở, sự sản sinh Sở từ, đầu tiên nó có mối quan hệ trực
tiếp với Sở thanh, Sở ca, thứ đến, nó có quan hệ với "vu ca" của dân gian nước Sở. Cửu

ca mà Khuất Nguyên sáng tác là trên cơ sở nhạc ca tế thần dân gian có sự gia công mà
thành. Thêm vào đó, trong Sở từ đã miêu tả nhiều phong tục sản vật của đất Sở, sử dụng
nhiều phương ngôn đất Sở.
Ngoài ra, sự hỗ trợ tương thâm nhập của văn hóa Nam Bắc, văn hóa và chế độ tiên
tiến của trung nguyên cũng đã dần được văn hóa Sở tiếp nhận. Phong khí tường thuật hoa
lệ của các Tung hoành gia thời Chiến quốc cũng có ảnh hưởng không nhỏ đối với Sở từ.
Từ thể thức mà nói, trên thực tế Sở từ có 2 loại:
-Một loại giống Thi kinh nhưng có sự cải tạo, như Quất tụng, Thiên vấn, cơ bản là
thể " tứ ngôn".
-Một lọa khác là "tao thể" láy Li tao, Cửu ca làm đại biểu, đây là dạng thức điển
hình của Sở từ.
Thể Sơ từ điển hình nhìn từ thi phong có sự phô bày khoa trương, sự tưởng tượng

phog phú. tác phẩm của Khuất Nguyên tràn đầy sự tưởng tượng kì ảo, bộc lộ lớp lớp tình
cảm chân thành [như Li tao], miêu tả phô trương sự vật [như Chiêu hồn]. Còn tác phẩm
của Tống Ngọc đã tiến thêm một bước về phương diện tự sự miêu tả. Từ ngôn ngữ mà
nói, Sở từ đa phần dùng Sở ngữ, Sở thanh; từ ngữ phương ngôn đất Sở xuất hiện với số
lượng lớn.
*Tác phẩm tiêu biểu của Khuất Nguyên cũng như thành tựu lớn lao nhất của Sở Từ: Li
Tao.
“Li tao” là bài thơ dài nhất của Khuất Nguyên, gồm 373 câu và là tác phẩm tiêu biểu
nhất, trong đó ông trình bày lý tưởng ông theo đuổi, thổ lộ nỗi phẫn uất trước hiện thực
đen tối của xã hội, nêu cao tinh thần đấu tranh bất khuất, bộc lộ lòng yêu nước, thương
dân nồng nàn của mình và ý chí thà chết chứ không chịu sống hèn, sống đục.
Nhà sử học Tư Mã Thiên đời Hán giải thích “Li tao là li ưu, tao là lo, lo buồn

trong chia li”… Một nhà viết sử đời Hán khác, Ban Cố, lại giải thích “Li là gặp phải, tao
là lo âu. Nhà thơ gặp phải điều lo âu mà viết ra những vần thơ này”. Hai cách giải thích
khác nhau nhưng thống nhất rằng nhà thơ đã bày tỏ nguyên nhân khiến cho mình lo âu
bằng những lời đau buồn, ai oán sâu sắc trong những ngày phải sống kiếp lưu đày ở
phương xa.[Đào Duy Anh theo Quách Mạt Nhược giải thích: “tao” là tên thể thơ]
“Li tao” là một bài thơ trữ tình thương cảm, lâm li. Ðó là bài thơ của nhà chính
trị nhưng chất thơ rất đậm, Kết hợp trữ tình và tự sự, kết hợp tính lãng mạn và tính hiện
thực. Thủ pháp nghệ thuật chính là nói bằng hình tượng, ông thường dùng lối ẩn dụ,
tượng trưng. Ông tả các thứ hoa thơm cỏ lạ ở nơi núi cao, vực thẳm để tượng trưng cho
những phẩm chất tốt đẹp. Khi ông nói việc đeo hoa vào người làm đồ trang sức là nói
tự mình trau dồi trong sạch, thanh cao. Ông còn dùng thần thoại truyền thuyết để tả cảnh
núi non, sông nước, mây gió trăng sao làm cho ý thơ càng thêm bao la bát ngát. “Li

tao” viết theo thể từ thuộc dân ca nước Sở, dùng ngôn ngữ nước Sở, đó là tính chất dân
tộc đậm đà của thơ ông
Với di sản văn học để lại cho hậu thế, Khuất Nguyên được khẳng định là nhà thơ
vĩ đại đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa. Những bài thơ tràn đầy tình cảm nồng nhiệt của
ông " Tao thế" mà ông sáng tạo đã làm cho sức biểu hiện thơ ca cực kì phong phú. Thủ
pháp lãng mạn mà ông sử dụng trong Li Tao đã ảnh hưởng sâu xa đến sự hình thành và
phát triển của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học cổ điển Trung Hoa. Li Tao đã trở thành
biểu tượng của thơ ca Trung Hoa.
1.4. Sử kí và Tư Mã Thiên:
Tư Mã Thiên [145 – 90 TCN] là nhà viết sử cũng là một nhà văn . Bộ Sử Ký của
ông là một bộ thông sử lớn và một tác phẩm văn xuôi nổi tiếng. Cuộc đời và sáng tác của
ông là tấm gương lớn cho hậu thế .

Việc viết sử ở Trung Quốc có từ rất sớm, thời nhà Chu đã có sử quan. Tác
phẩmThượng thư, Xuân thu,Tả truyện, Quốc ngữ, Chiến quốc sách chưa trình bày lịch sử
Trung Quốc một cách hoàn chỉnh, hoặc chỉ chép một số sự việc cá biệt hoặc một số khu
vực và giai đoạn.
Bộ Sử ký của Tư Mã Thiên đã tổng kết ba ngàn năm lịch sử Trung Quốc từ Hoàng Ðế
truyền thuyết cho đến thời hiện tại Hán Vũ đế. Bộ sách miêu tả đời sống xã hội rộng rãi
kinh tế chính trị văn hóa, các tầng lớp giai cấp từ công hầu khanh tướng học giả thầy bói,
thích khách, hiệp sĩ giang hồ, con hát. . .
Sách gồm 130 thiên [như chương, hồi] chia làm 5 loại :
+ Bản kỷ : 12 thiên tả các đời vua từ Ngũ đế, Hạ,Thương, Chu, Tần, Sở đến Hán
+ Biểu [niên biểu] : 10 thiên chép mối quan hệ giữa các bá vương và chư hầu qua các sự
kiện lớn.

+ Thư: 8 thiên chép 8 mặt kinh tế, văn hóa chủ yếu.
+ Thế gia: 30 thiên chép về những nhân vật quí tộc lớn có ảnh hưởng mạnh mẽ quyết
định sự phát triển và diệt vong của các chư hầu.
+ Liệt truyện : 70 thiên chép chuyện các nhân vật đặc biệt, nổi tiếng. Về sau thất lạc mất
10 thiên.
Sử ký – một bộ truyện ký nhân vật lịch sử
Một bộ truyện giàu tính nhân dân, tính hiện thực, nghệ thuật xây dựng nhân vật
điển hình sinh động sâu sắc, hấp dẫn cho tới nghìn năm sau .
Miêu tả nhân vật thuộc giai cấp thống trị: điển hình là Tần Thủy Hoàng hoàng đế
độc tài chuyên chế vô cùng tàn bạo. Tịch thu hết vũ khí trong thiên hạ đem về đúc
chuông khánh, tượng nặng cả ngàn cân trang trí cho cung điện. Bao nhiêu sách Thi Thư
gom về các quận đốt. Hơn 600 học giả bị chôn sống ở Hàm Dương. Vơ vét tài sản của

dân, bắt hàng vạn người xây cung A Phòng, đào núi Lí Sơn làm nơi tắm mát và lấy đá
xây lăng tẩm , bắt đưa hàng chục vạn người dân sang sống ở Việt Nam để đồng hóa dân
tộc. Xây Vạn Lý trường thành hao tổn biết bao mạng người và của cải tiền bạc … Y còn
là tên vua hưởng lạc khó ai bì kịp, trong cung chứa hơn mười ngàn cung nữ. Sợ chết, y
sai tìm chế thuốc trường sinh bất tử hại người hại của . . .Mọi việc điều hành y tự mình
quyết định, dùng giết người để thị uy. Là một tay giỏi võ nghệ, can trường khác người.
Trong một chuyến đi ra khỏi cung, y chết khi đến tỉnh Hà Bắc, sống được năm chục
tuổi .
Khi viết về Lã Hậu tàn bạo xảo quyệt – vợ của vua Hán Cao tổ [ông nội đương kim
hoàng đế thời Tư Mã Thiên] mà ông cũng chẳng dè dặt khi hạ bút. Nhà học giả Vương
Sung [27-98] đời Ðông Hán kể lại :”Hán Vũ đế nghe nói Tư Mã Thiên chép sử , sai lấy
hai thiên phần ghi về Hiếu Cảnh và Hiếu Võ [cha và anh của vua] xem xong nổi giận xé

vứt đi, do thế mà tài liệu đó thất truyền” .
Viết về bọn quan tướng, Tư Mã Thiên lại càng lên án thẳng thắn, như viết về
tướng Bạch Khởi nhà Tần giết cả 90 vạn lính ba nước Triệu Hàn Ngụy đến bước đường
cùng phải cúi đầu nhận tội. Những tên văn quan cai trị khác cũng tàn bạo tham lam, coi
pháp luật như trò chơi, chỉ biết theo ý vua hay ý riêng mình .
Nhìn chung giai cấp thống trị được tả như những kẻ xáo trá tàn ác xu nịnh đàn áp
bóc lột dân là chuyện thường tình .
Miêu tả thật hay về các nhân vật chính diện, như anh hùng Trần Thiệp, Ngô Quảng
chống lại nhà Tần hung ác. Ông so sánh Trần – Ngô với việc vua Thành Thang phạt
Kiệt, Vũ Vương phạt Trụ thời xưa. Sau Tư Mã Thiên, một nhà sử học Hán là Ban Cố tác
giả Hán Thư tìm cách hạ thấp hai vị lãnh tụ đó từ phần “thế gia” chuyển sang “liệt
truyệt” và gọi hai ông là giặc cỏ, phản tặc ?]. Quan thái sử nhà Tấn là Ðổng Hồ kiên

quyết ghi Triệu Thuẫn giết vua [chủ trì chịu trách nhiệm !] mặc dù cháu ông là Triệu
Xuyên ra tay, nhân vật Trình Anh và Công Tôn Trừ Cữu trung thành hy sinh thân mình và
con mình để giữ dòng máu họ Triệu .
Nhân vật du hiệp, thích khách và những quan nhỏ chốn triều chính mà có nghĩa khí,
cương trực đều được ca ngợi trong Sử ký. Họ là những người trọng nghĩa khinh tài ,
trọng công bằng ghét áp bức , thậm chí chế giễu cả thói xấu vua chúa . Người đồ tể giết
lợn múa dao mà cũng dám giúp công tử Vô Kỵ nước Ngụy chống Tần [Vô Kỵ được
phong Tín Lăng quân] . . . và rất nhiều vị đại hiệp khác được tả trong Liệt truyện [Du
hiệp/Thích khách / Hoạt kê liệt truyện ]. . .
Nhân vật Hạng Võ trong phần Hạng Võ bản kỉ là phần đặc biệt hấp dẫn. Bên cạnh đó
nhiều nhân vật chân chính được miêu tả kĩ như : Bá Di, Thúc Tề, Quản Trọng, Án Anh,
Khổng Tử, Khuất Nguyên, Liêm Pha, Lạn Tương Như, Lỗ Trọng Liên, Ðiền Ðan, Tín

Lăng Quân, Hầu Doanh, Lí Quảng, Nhiếp Chính, Quách Giải, Trương Lương, Phàn
Khoái , Phạm Tăng . . .
Nghệ thuật dựng chuyện của Tư Mã Thiên thật đặc sắc: chọn nhân vật điển hình , chọn
chi tiết ít hay nhiều tùy theo sự cần thiết khắc họa tính cách nhân vật. Ðặc biệt khi tả
Lưu Bang Hán cao tổ [ông nội của vua đương triều Hán vũ đế] Tư Mã Thiên cũng tả rõ
thời trẻ ngài thích rượu, hiếu sắc, có hành động lưu manh, hạ nhục nhà nho. Vua Cao tổ
đang ngồi ôm Thích phu nhân, Chu Xương vào thấy vội lui ra. Vua đuổi theo ngồi lên cổ
Xương, lột mũ của ông quan rồi đái vào…Xong lại hỏi “Ta là vị vua như thế nào ?”,
Xương trả lời: “Bệ hạ là Kiệt Trụ”. Vua cười ha hả. Dám viết như thế chẳng có ai ngoài
Tư Mã Thiên.
Nghệ thuật dẫn dắt câu chuyện là biết tạo hồi hộp, thắt mở nút đúng lúc.
Ảnh hưởng lớn lao của Sử ký đến các đời sau

Các nhà văn từ Ðường Tống đến Minh Thanh đều lấy Sử Ký làm gương mẫu, học cái
lời văn gọn gàng như tiếng nói hàng ngày, không cần cổ kính uyên bác như thời Chiến
quốc. Ðó là lối văn ngôn ưa dùng khẩu ngữ, ca dao, ngạn ngữ dễ hiểu .
Cách khen chê của ông cũng gây ảnh hưởng đến người sau. Không bàn luận trực tiếp ,
ông chỉ kể việc, tự nó nói thay. Nhà viết sử phải dụng công lắm mới làm ra vẻ “khách
quan lạnh lùng” để khỏi ai bắt lỗi kết tội. Người đọc ngẫm nghĩ sẽ thấy thái độ khen chê
của ông sâu sắc thâm trầm ẩn kín ngay trong sự việc – và họ tự rút ra kết luận.
Những thiên truyện ký trong Sử Ký làm gương mẫu cho các nhà tiểu thuyết khi
xây dựng nhân vật, sắp đặt tình tiết, đối thoại. Ðông Chu liệt quốc, Tây Hán thông tục
diễn nghĩa đều lấy ngay truyện trong Sử Ký mà viết lại. “Trăm đời về sau các nhà viết sử
không thể thay đổi được phương pháp của ông, các học giả không thể rời sách của ông”-
một học giả Trung Quốc nhận định như vậy. Câu nói đó tổng kết ảnh hưởng sâu xa của

Tư Mã Thiên với nền văn học và sử học đời sau .
2. Văn học Trung Quốc thời trung đại:
Văn học Trung Hoa phát triển cao là ở thời kì này với các thể loại nổi bật: phú
[Hán], thơ [ Đường], Từ [Tống], Kịch [Nguyên], tiểu thuyết [Minh-Thanh].
2.1. Phú thời Hán:
Phú là một chi nhánh của thi, là thể loại văn học quý tộc, mô tả phô bày những vẻ
đẹp thiên nhiên, chim thú kỳ lạ hoa cây quý hiếm, công trình nhân tạo và danh nhân nổi
tiếng với hình thức ngữ ngôn cầu kỳ diễm lệ. Thực ra, phú bắt nguồn từ Sở từ của Khuất
Nguyên và Tống Ngọc thời Chiến quốc và đạt đến đỉnh cao mẫu mực nghệ thuật thời
Hán với những nhà viết phú nổi tiếng thời Hán như Tư Mã Tương Như, Dương Hùng,
Ban Cố…
Phú giai đoạn đầu chưa có sự phân biệt rạch ròi với Sở từ nên gọi chung là từ phú.

Các giai đoạn về sau đã có những thay đổi nhất định nên hình thành nhiều cách gọi khác
nhau như tao phú, Hán phú, biền phú, cầm phú, luật phú, văn phú. Trong đó, Hán phú giữ
vị trí quan trọng và có nhiều ảnh hưởng đến văn học đời sau nhất. Hán phú là loại văn
học cung đình, nội dung chủ yếu là ca công tụng đức vua chúa, ca ngợi đất nước mạnh
giàu, sản vật phong phú, miêu tả cung điện hoành tráng, hoa viên xinh đẹp, cuộc sống
sinh hoạt chè chén xa hoa nơi triều nội.
2.2. Thơ Đường:
Văn học thời Ðường rất phát triển.
Thơ Ðường là thể loại đạt được những thành tựu rực rỡ và có quan hệ mật thiết
với nhiều thể loại khác.
Thơ Ðường tiếp thu, kế thừa cả quá trình phát triển lâu dài của thơ ca từ Kinh Thi,
Nhạc Phủ, Thơ Kiến An, Sở từ…, dân ca hào phóng miền Bắc, dân ca uyển chuyển

phương Nam và lí luận thơ ca của các thời đại trước.
Thơ Ðường chia ra bốn giai đoạn Sơ – Thịnh – Trung – Vãn .
Sơ Ðường là giai đoạn chuẩn bị mọi mặt cho thơ, còn mang nặng tính chất uỷ mỵ
với bốn nhà thơ nổi tiếng: Vương Bột, Dương Quýnh, Lư Chiếu Tân và Lạc Tân Vương.
Cuộc đời họ gặp nhiều bất hạnh nhưng trong thơ vẫn có những tình cảm tích cực lành
mạnh. Sau đó, Trần Tử Ngang đề xướng chủ trương khôi phục tinh thần phong nhã và
đặt nền móng cho thơ hiện thực. Nhược điểm của thời kỳ này là khi viết về chiến tranh,
âm hưởng chủ đạo của họ là khẳng định, ca ngợi.
Thịnh Ðường là giai đoạn rực rỡ nhất của thơ, đạt đến sự thống nhất hoàn mỹ
giữa nội dung và hình thức với nhiều nhà thơ lớn.
Mặc dù thơ Ðường khá đa dạng phong phú, ta cũng tạm chia họ ra hai trường
phái dựa trên đề tài: phái điền viên và phái biên tái.

Vương Duy và Mạch Hạo Nhiên là đại biểu lớn của phái điền viên với nghệ thuật
cao, đôi khi phản ánh được những nét chân thực của sinh hoạt nông thôn và vẻ đẹp của
thế giới tự nhiên song nhìn chung còn xa rời cuộc sống thực [Bác Hồ có viết bài Cảm
tưởng đọc Thiên gia thi : thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp, Mây gió trăng hoa tuyết núi
sông…].
Phái biên tái : Hầu như nhà thơ nào cũng viết về chiến tranh, về cảnh biên cương
khốc liệt, đặc biệt là miêu tả tâm trạng và đời sống của chinh phu, chinh phụ. Có người
thiên về ca ngợi như Cao Thích, Sầm Tham, đa số thiên về phê phán như Vương Xương
Linh, Lí Kỳ… và tiêu biểu nhất là Lí Bạch với cảm quan nhạy bén đã sớm phát hiện ra
dấu hiệu suy vong của nhà Ðường nấp sau vẻ phồn thịnh đương thời.
Ðến thời Trung Ðường, có thể coi Ðỗ Phủ là chiếc cầu nối giữa Thịnh Ðường và
Trung Ðường. Thơ ông phản ánh hiện thực xã hội một cách sâu rộng. Hiện tượng nổi

bật sau này là phong trào thơ phúng dụ trữ tình của Bạch Cư Dị thể hiện sự đồng tình
sâu sắc với nhân dân và phản ánh sinh động mâu thuẫn giai cấp gay gắt trong xã hội
[nổi tiếng với bài “Tì bà hành”]. Trong khi đó, một số nhà thơ vẫn sáng tác theo lối điền
viên. Liễu Tôn Nguyên làm thơ ngụ ngôn rất sở trường, phản ánh nỗi khổ của dân chúng
và phê phán bọn thống trị. Do bất mãn, u hoài, bực bội đôi khi ông rơi vào hư vô. Lí Hạ
là nhà thơ có biệt tài xây dựng tứ thơ đọc đáo, hình ảnh kỳ lạ, từ ngữ mới mẻ [quỉ tài].
Ðến thời Vãn Ðường vẫn còn nhiều nhà thơ tài năng xuất hiện với cảm hứng Ðạo
giáo, có ít nhiều tiến bộ như Tào Nghiệp, Ôn Ðình Quân, Lý Thương Ẩn và Ðỗ Mục,
chia thành nhiều nhóm “lãng mạn” khác nhau.
Ngôn ngữ thơ Ðường trong sáng, tinh luyện, tiết kiệm ngôn từ [bài ngắn nhất hai mươi
chữ: ngũ ngôn tuyệt cú]. Do thế, thơ Ðường rất súc tích, cô đọng. Ít khi thơ chịu nói hết
ý, và không nói trực tiếp, mà chỉ dựng lên hàng loạt mối quan hệ để cho độc giả tự suy

luận, tức là “vẽ mây, nẩy trăng ” [chỉ tả đám mây, nhưng ta biết có vầng trăng bị che lấp ở
phía sau], ý ở ngoài lời, ý đến mà bút không đến, bút dừng mà ý không dừng – lời hết mà
ý chưa hết…
Thơ Ðường luật có vẻ gò bó nhưng vẫn dung nạp nhiều thủ pháp khác nhau , sự
năng động của mọi nhà thơ, đỉnh cao nhất là thủ pháp ám thị và gợi ý.
Thơ Ðường thâm nhập vào đời sống người Trung Hoa bao đời nay, từ sinh hoạt bình
thường đến những lễ nghi long trọng. Thơ mừng cưới, chúc thọ, chia buồn, thơ kén
chồng… thơ thù tạc. Có người cho rằng người Trung Hoa say mê thơ như một tôn giáo.
Bởi thơ Ðường rất tinh tế, thanh nhã, không dài và không hùng mạnh, điều hoà và sinh
động, với lối miêu tả “tả cảnh ngụ tình” là biện pháp phổ biến .
Những kiệt tác của thơ Đường tiêu biểu: "Trường hận ca" và " Tỳ Bà Hành".
- Tỳ bà hành là bài thơ cảm thương tiêu biểu nhất, một trong những bài hay nhất

trong văn học cổ điển Trung Quốc. Câu chuyện trong bài thơ thật đơn giản mà cảm động
thấm thía. Giữa cảnh mùa thu buồn man mát, cuộc chia ly giữa nhà thơ và bạn bè ngậm
ngùi. Có tiếng đàn tỳ bà văng vẳng bên sông khiến khách [bạn của nhà thơ] không nỡ
đi, chủ [Bạch Cư Dị] không thể quay về, liền tìm hỏi người gảy đàn. Ðó là một người
phụ nữ ngồi chơi đàn một mình trong một con thuyền. Họ xin nàng gảy đàn cho nghe.
Bữa tiệc nối tiếp. Gảy đàn xong, nàng kể lại cuộc đời chìm nổi của mình. Xúc động trước
tiếng đàn và cuộc đời cay đắng của cô gái xưa là kĩ nữ, nhà thơ cũng trút bầu tâm sự
.Cảm động vì mối quan tâm của thi nhân, nàng đàn lần nữa. Tiếng đàn càng réo rắt
xao động hơn. Chàng tư mã Bạch Cư Dị hứa sẽ làm bài thơ để tặng nàng đàn. Ðó là bài
“Tì bà hành” .
Bài thơ chủ yếu tả tiếng đàn, cảnh nàng đàn và thuật vắn tắt cuộc đời kĩ nữ. Tả
cảnh chen tả tình, tự sự và trữ tình, bài thơ có giá trị hiện thực và tinh thần phê phán sâu

sắc, tình nhân đạo thắm thiết với nghệ thuật cao. Ðây thực là mẫu mực của thơ tự sự cổ
điển. Trong cuộc đờn ca, thính giả và kĩ nữ đồng cảm hoàn toàn. Diễn biến tâm tư theo
sát cung đàn, tri âm và tri kỷ, dấy lên tậm trạng bất bình đau xót, như giải bày tâm sự. Ba
lần chơi đàn được miêu tả tuyệt vời linh động.
Cảm hứng nổi nên trong Tỳ Bà Hành là nỗi oán giận tài năng bị vùi dập đố kị. Nguyên
tác bài thơ theo thể hành cổ phong, gọi là thất ngôn trường thiên, gồm 88 câu x bảy chữ
[616 tiếng] Bạch Cư Dị còn ghi thêm bài Tự [Tựa] đề tặng người kĩ nữ ông gặp trên bến
sông Tầm Dương. Bản dịch Tỳ bà hành ở Việt Nam của ông Phan Huy Thực rất đặc sắc,
là mẫu mực của việc dịch thơ. Bản dịch tiếng Việt có đủ 616 tiếng theo thể song thất lục
bát dân tộc [7.7.6.8.], còn gọi là lục bát gián thất.
- Trường hận ca là câu chuyện tình giữ nàng Dương Quý Phi và vua Đường Minh
Hoàng [ Đường Minh Hoàng là nhà vua tài hoa, là tác giả của vũ điệu nghê thường, cải

biên từ điệu múa của Ấn Độ]. Ở miền nam Việt Nam trước 1975, câu chuyện này được
viết thành vở cải lương rất nổi tiếng.
Chuyện kể, vua Đường Minh Hoàng từ khi chiếm đoạt được người đẹp Dương Quý Phi,
nhà vua đã say mê và bỏ bê việc triều chính. Vua dành cho gia đình Dương Quý Phi lắm
bổng lộc và đặc ân. An Lộc Sơn là một tướng trong cung , cũng yêu nàng rồi nổi loạn.
Vua phải bỏ kinh thành. Khi chạy đến Mã Ngôi thì quân sĩ không chịu đi nữa nếu như
nhà vua không giết người gây họa là Dương Quý Phi. Vì sự tồn vong của một vương triều
Vua đành chịu phép, mặc cho thủ hạ hành xử người thiếp yêu. Vua lánh nạn tại đất Thục.
Nỗi nhớ người xưa day dứt trong lòng vua. Loạn An Lộc Sơn rồi cũng được yên. Vua về
lại kinh thành. Sống trong cảnh cũ thiếu người xưa khiến lòng vua càng thêm thương
nhớ. Tình yêu của vua đã làm động lòng một đạo sĩ ở đất Lâm Cùng. Đạo sĩ này dùng
phép thuật gọi hồn để vua tôi có thể gặp nhau trong thế giới mộng, thế giới bên kia hay

thế giới mà vua có thể tìm đến trong mỗi giấc ngủ. Nàng Dương Quý Phi, nay là một tiên
nữ đang sống trên hải đảo thần tiên nàng mang tên là Thái Chân, đó là một pháp danh cũ
của một ni sư năm xưa khi vua mới gặp nàng tại nhà con trai mình, Lý Dực. Tại cung của
tiên của bà Tây Vương Mẫu, khi gặp sứ giả của vua, Dương Quý Phi đã thổ lộ mọi nỗi
nhớ và nhắc lại mọi kỷ niệm xưa mà nàng giữ kín, nay có dịp tỏ bày một lần cho hả dạ.
Tất cả chỉ vì thương nhớ " Tình quân" lần này là lần cuối. Người tiên cõi tục. Qua 120
câu thơ của Bạch Cư Dị có nhiều chi tiết cảm động.
2.3. Từ thời Tống:
Thơ ca thời Tống vẫn tiếp tục truyền thống Ðường thi. Thời Tống còn có một thể
loại văn chương mới là Từ vốn nảy sinh từ cổ đại nay đạt tới hình thức hoàn chỉnh.
Có thể xuất phát từ Sở từ và Li tao của Khuất Nguyên thời Chiến quốc, Từ chủ
yếu bắt nguồn trong dân gian, phát triển từ thời Vãn Ðường – Ngũ đại thập quốc, nhưng

đến thời Tống thì phát triển mạnh nhất và hoàn hảo về hình thức.
Từ nguyên là những bài hát phổ vào những bài thơ tuyệt cú của văn nhân hoặc bài
hát dân gian. Nhạc công ca sĩ cải biên lời gốc tạo ra ngắn dài xen kẽ cho hợp nhạc. Do đó
Từ trở nên thể loại “thi ca” độc lập, có âm luật nhất định. Nội dung tư tưởng của Từ là
“tạp”, bao gồm cả Nho Phật và Ðạo [đạo Lão]. Tên của bài “từ” là tên của một điệu hát
[khúc:曲]
So với thơ, Từ uyển chuyển tự do phóng khoáng cởi mở hơn, thu nạp tất cả mọi
cung bậc tình cảm, hiện tượng đời sống. 75 % bài Từ thời Tống là thơ tình yêu. Từ Tống
thiên về tình cảm và chuyện đời sinh động, như là sự phản kháng với Đạo học, Lý học
nặng về lí trí trong thời kỳ này.
2.4. Tiểu thuyết Minh - Thanh:
Minh Thanh là thời kỳ hoàng kim của tiểu thuyết Trung Quốc. Với các bộ

sách Tam quốc, Thuỷ hử, Đông Chu liệt quốc, Tây du ký, Phong thần diễn nghĩa, Liêu
trai chí dị, Chuyện làng nho, Hồng lâu mộng …, tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa đã
đạt đến trình độ hoàn chỉnh. Bởi vậy, tiểu thuyết thời Minh Thanh được gọi là tiểu
thuyết cổ điển Trung Hoa.
*Tam Quốc Diễn Nghĩa
Ðây là bộ tiểu thuyết “giảng sử”, xuất hiện vào đầu nhà Minh của nhà văn La
Quán Trung [1330-1400] quê thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Ông là nghệ sĩ đa
tài, thông thạo văn chương và hý khúc, nổi bật nhất là viết tiểu thuyết. Cuộc đời ông bôn
tẩu giang hồ, thường bất đắc chí trong sự nghiệp phò vua giúp nước…Khi nhà Minh đập
tan nhà nước Nguyên Mông, thống nhất đất nước, ông chuyên viết lại dã sử. Bên cạnh
Tam quốc diễn nghĩa, có thuyết cho rằng ông còn viết một bản “Thủy hử truyện” hoặc
“Tục Thủy hử”.

Với tài năng sáng tạo “Tam quốc diễn nghĩa” tái hiện một thế kỉ loạn lạc điên
đảo do tham vọng tranh giành quyền lực và lãnh thổ của các đế vương Trung Hoa gây ra.
Tiểu thuyết này tuy có hư cấu song căn bản phù hợp với lịch sử. Ðó là bộ mặt thời Tam
quốc [220 – 280] cũng là bộ mặt quen thuộc của xã hội phong kiến Trung Hoa ở mọi
thời : phân rồi hợp, hợp rồi phân, đó là tình trạng lặp đi lặp lại hầu như đã thành qui
luật. Tham vọng bành trướng thế lực và lãnh thổ của vương hầu, khanh tướng khiến đất
nước điêu linh, nhân dân khốn khổ. Nhà thơ Vương Xán cùng thời Tào Tháo đã viết câu
thơ “ra ngõ toàn xương trắng. phủ kín cả bình nguyên”. Chính Tào Tháo cũng làm thơ
thương nỗi khổ dân chúng điêu linh [đọc thêm trang sau]. Cả ba tập đoàn Ngụy, Thục,
Ngô đều muốn thống nhất quốc gia dưới quyền cai trị riêng của mình., La Quán Trung đã
viết thành bộ truyện dài đầu tiên của văn học Trung Quốc.
Mặc dù viết truyện lịch sử, tác giả cũng không miêu tả một cách khách quan mà

vẫn bộc lộ thái độ tình cảm của mình. Ông đã vạch trần tội ác của giai cấp thống trị đối
với nhân dân và ngay cả với nội bộ của chúng. Ðổng Trác tàn ác giết dân lành, Lã Bố
hai lần giết bố nuôi. Hai anh em Gia Cát Lượng và Gia Cát Cẩn coi nhau như kẻ thù. Ðặc
biệt, Tào Tháo không từ một thủ đoạn nào cốt đạt được mục đích. Dưới ngòi bút sinh
động của tác giả, các nhân vật hiện lên để chứng minh một qui luật đáng sợ của chế độ
phong kiến Trung Hoa: cá lớn nuốt cá bé, người ăn thịt người. Nhà văn đã vượt qua tư
tưởng chính thống của mình, để miêu tả đúng qui luật cuộc sống, ông xứng đáng là nhà
văn hiện thực vĩ đại.
Tam quốc diễn nghĩa là câu chuyện dài trăm năm, có hàng ngàn sự việc, hàng trăm
trận đánh và hơn 400 nhân vật. Tác phẩm có dung lượng thật đồ sộ. Tài năng của nhà văn
trước hết thể hiện ở nghệ thuật kết cấu. Ðó là một kết cấu hùng vĩ, mạch lạc rõ ràng.
Người xem không bị rối loạn bởi nhiều sự kiện và hàng loạt nhân vật. Tính mạch lạc

này là do khuynh hướng tình cảm của nhà văn tạo nên. Ông đã sắp xếp nhân vật thành
các trận tuyến khác nhau, cho đan chéo vào nhau theo logic của đời sống và tình cảm của
mình đặt vào nhà Thục Hán.
Lời văn Tam quốc dễ đọc, dễ hiểu nên được phổ biến rộng rãi, trở thành bộ tiểu
thuyết đầu tiên cho thể loại. Người bình dân Trung Quốc, nhờ những bộ sách như thế
mà hiểu được lịch sử nước nhà, học được cách đối nhân xử thế và nhận thức được âm
mưu thủ đoạn của bọn thống trị. Tam Quốc diễn nghĩa như một bộ “sách giáo khoa
nhiều mặt”, nó được phổ biến ở nhiều nước, nhất là vùng Ðông Nam Á. Nhiều nhân vật
và sự kiện đã thành điển cố trong văn học Việt Nam. Ðó là hiện tượng thông thường
trong giao lưu văn hoá, đặc biệt trong quan hệ hai nền văn hóa Trung -Việt .
*Thủy Hử truyện
Thủy hử là tác phẩm xuất hiện gần cùng thời với Tam quốc diễn nghĩa. Quá

trình hình thành tác phẩm trải qua ba giai đoạn:
Những câu chuyện rời rạc được lưu truyền trong dân chúng tỉnh Sơn Ðông;
Các nghệ nhân dân gian ghi chép thành truyện cổ hoặc soạn thành hí khúc.;
Cuối cùng Thi Nại Am dựa vào các tư liệu và văn liệu đã có mà sáng tạo bộ tiểu thuyết
hoàn chỉnh. Tác giả Thi Nại Am, quê sông Tiền Đường, thành Hàng Châu, tỉnh Triết
Giang, không rõ năm sinh năm mất, sống cuối Nguyên đầu Minh, một thời làm quan, sau
thất vọng bất mãn, bỏ quan về nhà
Thủy hử kể lại câu chuyện khởi nghĩa nông dân tỉnh Sơn Ðông, đời Bắc Tống do
Tống Giang cầm đầu…Thi Nại Am một mặt dựa vào sự thật lịch sử, dã sử, mặt khác gia
công sáng tạo rất nhiều.
Thủy Hử phản ánh một cách chân thực sinh động quá trình phát sinh phát triển và
thất bại của cuộc khởi nghĩa nông dân Tống Giang đời nhà Tống.

Tác phẩm đã phản ánh một chân lý lịch sử, đó là “quan buộc dân phản thì dân không thể
không chống lại”
Tác giả miêu tả sự áp bức chính trị của bọn thống trị và phơi bày đời sống hủ bại
của chúng [còn sự bóc lột áp bức về kinh tế chỉ được khái quát bằng mấy câu nhận xét và
một bài thơ ngắn]. Ðó là những nguyên nhân trực tiếp khiến các nhân vật đại biểu ưu tú
của mọi hạng người trong xã hội lần lượt quy tụ về Lương Sơn Bạc.
Thủy hử đạt thành công khá cao về xây dựng nhân vật và tổ chức dẫn dắt tác
phẩm.
Các nhân vật xuất hiện đột ngột, xen vào sự việc của người khác. Tính cách của họ
dần dần lộ rõ trong phương pháp miêu tả từ xa tới gần. Một số nhân vật chủ yếu trong
Thủy Hử có thể gọi là “nhân vật tính cách”, vì tính cách này coi như cố hữu, do hoàn
cảnh môi trường quy định. Tác giả cố ý xếp đặt những tính cách đối lập nhau đi song đôi

như Tống Giang và Lý Quỳ. Một bên trăn trở suy tư, một bên chỉ hành động theo cảm
tính. Giống Tống Giang ở chữ hiếu nhưng Võ Tòng có khác hơn cả hai người. Anh từng
ra vào chốn nha môn, hiểu biết ít nhiều thủ tục kiện tụng. Trước khi trừng trị Tây Môn
Khánh và Phan Kim Liên, anh đã chuẩn bị bao công phu cho đủ chứng cứ. Anh là dạng
trung gian tính cách Tống Giang và Lý Quỳ. Còn Lâm Xung thì khá giống với Tống
Giang, có sự phát triển tính cách khá hợp với lôgíc cuộc sống.
Có thể nói Tam quốc và Thủy Hử đều có sự kết hợp giữa khuynh hướng hiện thực
và khuynh hướng lãng mạn, giữa tính cao cả và tính trần tục. Tuy vậy, mức độ khác nhau
ở mỗi tác phẩm. Ở Tam quốc, tính cao cả chiếm ưu thế, còn ở Thủy Hử tính trần tục lại
trội hơn với nhiều chi tiết sinh hoạt. Hệ thống nhân vật nữ ở hai tác phẩm cũng khác
nhau. Thủy Hử có nhiều nữ hơn và tính cách trần tục sinh động phức tạp hơn.
Kết cấu của Thủy Hử là một kết cấu đặc biệt gọi là đoản thiên liên hoàn tiểu

thuyết . Nghĩa là tiểu thuyết này có thể chia xẻ thành nhiều truyện ngắn với vài nhân vật.
Ðiều đó chứng tỏ lúc đầu có nhiều câu chuyện nhỏ độc lập nhưng cùng xoay quanh một
chủ đề. Tác giả đã thu gom chắp nối với một công phu sáng tạo cao. Các hồi kế tục nhau
như những đợt sóng liên tiếp, có những cồn sóng lớn kéo theo các cồn sóng nhỏ [hồi 2,
hồi 10, hồi 40]. Cho đến hồi 71, quá trình tập hợp lực lượng hoàn thành. Kiểu kết cấu này
phù hợp với nội dung truyện.
Cũng như Tam quốc chí, Thủy hử là một tác phẩm được lưu truyền rộng rãi nhất ở Trung
Quốc. Trong lịch sử nghiên cứu tác phẩm này có một số khuynh hướng lệch lạc. Với
chúng ta, bên cạnh một số giá trị nghệ thuật có thể tiếp thu, giá trị nhận thức là chủ yếu.
* Tây Du Kí
Ngô Thừa Ân [1500 –1581 ?] quê tỉnh Giang Tô, con một nhà buôn nhỏ, học giỏi
nhưng 43 tuổi mới thi đỗ, có làm chức thừa lại ở huyện nhưng cảm thấy nhục nhã vì phải

vào luồn ra cúi nên từ chức bỏ về.
Tây du ký ra đời khoảng năm Gia Tĩnh triều Minh.
Ông viết xong Tây du ký khi đã ngoài 70 tuổi, sống nghèo túng ở quê nhà. Ngoài ra còn
viết một bộ truyện chí quái và nhiều văn thơ, gom lại trong 4 quyển.
Tây du ký bắt nguồn từ một chuyện có thật: nhà sư trẻ đời Ðường là Trần Huyền Trang
đã một mình sang Ấn Ðộ du học và xin kinh Phật. Ðường đi 5 vạn dặm, vượt qua 128
nước nhỏ lớn, đi về hết 17 năm trời. Câu chuyện được thêu dệt màu sắc huyền thoại và
truyền tụng rộng rãi trong dân gian, lâu ngày trở thành truyền thuyết. Những nghệ nhân
kể chuyện đời Tống đã gia công thành những chuyện kể hoàn chỉnh, nay còn giữ được
trong bộ sách “Ðại Ðường Tam Tạng thủ kinh thi thoại”. Ðó là nền tảng đầu tiên của Tây
du ký. Ðến đời nhà Nguyên lại xuất hiện bộ sách “Tây du ký bình thoại ” dựa theo bản
trên. Trong các vở tạp kịch thời Nguyên có số vở dựa theo đề tài trên. Ngô Thừa Ân đã

dày công thu thập truyền thuyết, dã sử và dựa vào tác phẩm kể trên, lại phát huy thiên tài
sáng tạo hoàn thành bộ truyện 100 hồi.
Tây du ký là bộ truyện lãng mạn với màu sắc “thần thoại mới”. Sức tưởng tượng mạnh
mẽ của tác giả đưa người đọc vào một thế giới huyền ảo, diệu kỳ, luôn luôn bất ngờ
không thể đoán trước, người đọc kinh ngạc nhưng vẫn thấy gần gũi, thân thiết. Nhà văn
cũng sử dụng yếu tố hài hước, dí dỏm, lạc quan – đây là một đặc điểm nổi bật trong nghệ
thuật dựng truyện phù hợp với ý đồ tư tưởng nghệ thuật, làm giảm ấn tượng rùng rợn
kinh hoàng. Nhân vật Tôn Ngộ Không với tính cách tự tin, thông minh, lạc quan, linh
hoạt, kiên trì đã giúp người đọc, người nghe sảng khoái yên tâm và hy vọng.
Là một bộ tiểu thuyết chương hồi dài, Tây du có kiểu kết cấu móc xích, mỗi hồi có
ý nghĩa riêng độc lập như một truyện ngắn nhưng phát triển nối tiếp. Cả cuốn tiểu thuyết
gồm nhiều “mắt xích” được xâu lại với nhau. Ngoại trừ một số phần, đoạn trùng lặp, nhìn

chung bộ truyện có một kết cấu chặt chẽ không thể chia cắt.
Ngôn ngữ Tây du khá lưu loát, mang mầu sắc khẩu ngữ dân gian linh hoạt, mới
mẻ. Tác giả cũng thành công trong việc cá thể hóa nhân vật bằng ngôn ngữ, nhất là Tôn
Ngộ Không và Trư Bát Giới có ngôn ngữ đầy cá tính.
Tiếp theo Ngô Thừa Ân, hàng loạt tiểu thuyết thần quái ra đời như Phong thần diễn
nghĩa, Tục Tây du, Hậu Tây du nhưng không có tác phẩm nào sánh kịp Tây du.
Từ khi ra đời đến nay đã 4 thế kỷ, Tây du cũng như Tam quốc, Thủy hử được nhân dân
Trung Quốc và nhiều nước châu Á yêu thích và truyền tụng. Ðó là vinh quang lớn lao và
niềm an ủi xứng đáng với một tác giả suốt đời bất đắc chí, đồng thời cũng là niềm tin
tưởng của nhân dân vào một tương lai tốt đẹp hơn.
* Liêu Trai Chí Dị
Ở thời nhà Thanh, bên cạnh các pho tiểu thuyết đồ sộ còn có khá nhiều truyện

ngắn, trong đó bộ “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh nổi tiếng hơn cả.
Bồ Tùng Linh [1640-1715] quê ở huyện Tri Xuyên, tỉnh Sơn Ðông, xuất thân
trong một gia đình địa chủ sa sút, suốt đời long đong lận đận. Mười chín tuổi đi thi tú tài,
đỗ đầu huyện. Nhưng về sau đi thi nhiều lần nữa vẫn không đỗ, mãi đến 72 tuổi mới đỗ
“tuế cống sinh”, ba năm sau thì mất. Nhà nghèo, trừ một năm làm môn khách cho tri
huyện, còn thì vất vưởng dạy học kiếm sống khắp vùng nông thôn quê nhà. Cảnh nghèo
túng và mộng công danh dằn vặt ông suốt cuộc đời. Cái nghèo đẩy ông đến với những
người lao động. Chuyện kể rằng, ông thường mua trà, thuốc, rải chiếu ven đường, đợi
lúc nông dân đi làm về thì mời họ trò chuyện, nhân đó sưu tầm chuyện lạ dân gian. Con
đường khoa hoạn luôn luôn làm ông bất đắc chí, lòng đầy uất ức. Do đó, ông đã viết nên
những thiên truyện ngắn bất hủ về đề tài này.
Bộ truyện ngắn “Liêu trai chí dị” được viết từ năm ông 20 tuổi đến năm 50 tuổi

mới hoàn thành. Trong Lời tựa viết lấy [Tự tự], ông tâm sự “Mặc dù không có tài nhưng
rất thích sưu tầm chuyện thần ma, tâm tình giống như người xưa thích nghe chuyện ma
quỷ. Nghe đến đâu là đặt bút ghi chép đến đấy, lâu ngày thành sách”. Ông là một nhà
giáo nông thôn biết tìm niềm vui trong việc sưu tầm truyện và sáng tác. Ngoài bộ “Liêu
trai” được viết bằng cổ văn hết sức điêu luyện, tác giả còn để lại 6 tập thơ, 4 tập văn, 14
thiên hí khúc và 3 vở tạp kịch.
Liêu trai chí dị gồm hơn 400 truyện ngắn gồm nhiều đề tài, nội dung phong phú,
có thể tạm chia ba loại chính như sau:
Loại thứ nhất
Vạch trần chế độ chính trị đen tối, đả kích tham quan ô lại cường hào ác bá, bênh
vực người lương thiện bị oan ức, bị chà đạp, bị bức hại. Như các truyện Xức chức [con
Dế], Hồng Ngọc, Ðậu Thị, Tục Hoàng Lương …

Mặc dù nhà văn không nói trực tiếp đến sự phản kháng, đấu tranh của nhân dân,
Liêu Trai đã xây dựng được những hình tượng phục thù có sức hấp dẫn. [Tịch Phương
Bình, Hướng Cảo, Ðậu Thị…]. Có cả những người phụ nữ xinh đẹp, yếu đuối bất lực bị
hãm hại, chà đạp mà chết, khi chết lại hoá mạnh mẽ, tự mình báo thù rửa hận…
Loại thứ hai
Tạm gọi là chuyện “làng nho” [chuyện nho sinh, nho sĩ, và chế độ khoa cử]. Công
danh khiến bao người mê muội, mất hết trí sáng suốt. Một phần vì họ bị nhồi nhét khát
vọng công danh phú quí, mặt khác vì chế độ thi cử thối nát bất công. Quan chấm thi rặt
một lũ dốt nát và vô trách nhiệm. Thi cử bằng thơ văn cổ sáo rỗng chỉ cần thí sinh học
như con vẹt chẳng cần sáng tạo. Do đó, bọn giám khảo “đánh hỏng người tài, chọn kẻ
tầm thường”. Chế độ khoa cử thời ấy gây biết bao thảm hoạ, chính tác giả đã từng nếm
đủ mùi cay đắng [truyện Tam Sinh, Giả Phụng Chi…].

Loại thứ ba
Xoay quanh đề tài tình yêu và hôn nhân. Cũng giống như Vương Thực Phủ viết
vở kịch thơ nổi tiếng Tây sương ký, Bồ Tùng Linh là loại tác giả hiếm hoi nhiệt tình ca
ngợi tình yêu trai gái, coi đó là hạnh phúc chính đáng của thanh niên và cổ vũ họ đấu
tranh vượt qua mọi chướng ngại để giành lấy tình yêu tự do và hôn nhân tự chủ [các
truyện Thanh Phượng, Thuỵ Vân, A Bảo…].
Ngoài ba loại đề tài trên, Liêu Trai còn có một số chủ đề khác như đề cao cảnh
giác với kẻ thù [Chuyện sói], triết lý về lao động và hưởng thụ [Ðạo sĩ Lao Sơn], ca
ngợi tình bạn [Kiều Na], ca ngợi thế giới đào nguyên mộng ảo trong đời [Vương Giả]…
Sức hấp dẫn, thuyết phục của Liêu Trai chính là do tính chân thật bắt nguồn từ
chân lý cuộc sống mà có.
Liêu Trai ra đời đã ba thế kỷ. Nó đem lại cho người đọc thứ văn truyện mới mẻ,

hấp dẫn. Người đọc có được niềm vui nhờ cảm giác hoá thân kỳ diệu trong chốc lát để
thoát khỏi cảnh đời ngang ngược, để “thực hiện” những mơ ước. Nhược điểm của
Liêu Trai là còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng định mệnh, báo ứng luân hồi, quan điểm
tướng số…
* Nho Lâm Ngoại Sử
Tác giả Ngô Kính Tử:
Tác giả sinh năm 1701 tỉnh An Huy, gia đình truyền thống học hành làm quan
nhiều đời. Cố nội làm quan đời Thuận Trị, ba anh em đỗ tiến sĩ. Cha làm quan đời Khang
Hy. Bất mãn thời cuộc, Tử đỗ tú tài, ngao du với bạn hữu, đi nhiều nơi. Chán chường
công danh, không thi cử nữa. Càn Long du hành Giang Nam, ai cũng đổ ra đón, ông đi
nằm ngủ. Bệnh mất đột ngột .
Chuyện làng nho là cuốn tiểu thuyết lớn đầu tiên do một tác giả tự sáng tạo hoàn

toàn, đồng thời miêu tả trực tiếp xã hội đương thời mặc dù giả định là bối cảnh đời Minh.
Bức tranh những nho sĩ, quan lại hủ bại , gàn dở. Không có một cốt truyện xuyên
suốt, mà gồm những truyện kể từng nhân vật nối tiếp sang nhân vật khác. Tuy vậy cảm
hứng và tư tưởng thì xuyên suốt và duy nhất . Ða số nhân vật phản diện, chỉ có một số
nhân vật chính diện. Truyện phê phán toàn bộ chế độ Mãn Thanh bắt đầu suy thoái. Cảm
hứng bi kịch và hài kịch xen kẽ, kín đáo .
*Một số nhân vật tiêu biểu:
Vương Miện con nông dân nghèo, học dở chừng vì nghèo bỏ đi chăn trâu. Anh thông
minh, tài hoa, vẽ tranh đẹp. Coi thường thi cử, không thích giao du với quan lại . Nghe tin
quan trên cho gọi anh ra làm quan, anh vào núi Cối Kê ở ẩn, bị bệnh chết ở đó . Nhân vật
này là tuyên ngôn của nhà văn Ngô Kính Tử .
Chu Tiến và Phạm Tiến : long đong thi mãi đến già mới đỗ, khi còn đi học sống cực khổ

bị khinh rẻ .
Ðỗ Thiếu Khanh : nhân vật tự thuật của tác giả, là nhân vật chính diện .
Nữ nhân vật chính diện là Thẩm Quỳnh Chi, bị lừa làm thiếp [vợ bé] nàng bỏ trốn
lên thủ đô Nam Kinh, tự lao dộng kiếm sống. Bị lùng bắt, dám đánh lính tháo chạy, ra tòa
tranh cãi thắng lợi, được trả tự do .
*Hồng Lâu Mộng
Tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng còn có hai tên khác là “Thạch đầu ký” [Tào Tuyết
Cần đặt] và “Kim Lăng thập nhị kim thoa” [12 chiếc trâm vàng đất Kim Lăng]. Ðây là bộ
tiểu thuyết hiện thực vĩ đại xuất hiện vào thời Càn Long, nhà Thanh [cuối thế kỷ 18]. Ðây
là tác phẩm văn học tiêu biểu cho cả giai đoạn văn học Minh Thanh nhờ dung lượng đồ
sộ, sự thuần thục trong phương pháp sáng tạo và âm vang của sự chuyển mình lịch sử đã
mang đến cho người đọc.

Trong lịch sử văn học Trung Quốc, Hồng Lâu Mộng có vị trí đặc biệt. Người Trung hoa
say mê đọc, bình luận và sáng tác về nó đến mức truyền nhau câu tục ngữ “mở miệng nói
chuyện mà không nói Hồng Lâu Mộng thì dẫu có đọc hết cả sách trên đời cũng vô
ích“. [Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, độc tận thi thư diệc uổng nhiên]
Bộ truyện gồm 120 hồi do hai tác giả sáng tác. Tào Tuyết Cần viết 80 hồi đầu và
dự thảo đề cương cả 40 hồi sau. Tác phẩm viết chưa xong thì ông chết vì đau bệnh.
Tiến sĩ Cao Ngạc viết tiếp 40 hồi sau dựa theo đề cương của Tào Tuyết Cần và đặt tên là
Hồng lâu mộng…
Tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng là một tác phẩm hiện thực chủ nghĩa tiêu biểu. Ðó là một
bức tranh vĩ đại về qui mô cũng như về ý nghĩa của cuộc sống xã hội Trung Quốc thế kỉ
XVIII. Những yếu tố hoang đường tạo nên cái khung của bức tranh xã hội ấy là một vật
cống của nhà văn cho những đòi hỏi của thời đại mình. Những chuyện hoang đường lấy

từ truyền thuyết và cổ tích nhưng không có gì là thần bí .
Có thể xem Hồng Lâu Mộng là tập đại thành những tiến bộ nghệ thuật của tiểu
thuyết hiện thực Trung Hoa từ thế kỷ 14 đến 18. Từ Tam quốc diễn nghĩa đến Hồng
Lâu Mộng tiểu thuyết đã có sự phát triển, đổi mới đáng kể, tiến gần sát với tiểu thuyết
hiện đại nhìn chung Hồng Lâu Mộng vẫn là một tác phẩm thống nhất và hoàn chỉnh.
Từ khi ra đời, Hồng Lâu Mộng đã được hoan nghênh rộng rãi. Tác phẩm mau
chóng trở thành món ăn tinh thần thường xuyên không chán của quần chúng. Lâm Ngữ
Ðường một học giả Trung Hoa đã nhận xét “Nếu một cuốn sách có thể huỷ diệt cả một
quốc gia, như một số nhà phê bình Trung Hoa đã nói, thì Trung Hoa đã bị tiêu diệt từ
lâu vì truyện Hồng Lâu Mộng rồi. Vì toàn thể dân Trung Hoa say mê Ðại Ngọc và Bảo
Ngọc”.
II. NHỮNG THÀNH TỰU TIÊU BIỂU CỦA VĂN HỌC TRUNG QUỐC HIỆN

ĐẠI:
1. Bốn giai đoạn của văn học Trung Quốc hiện đại:
- Giai đoạn 1 [1911- 1949] “Văn học dân chủ, tiền cách mạng và hiện đại hoá”
Văn học cất tiếng nói giã từ chế độ phong kiến. Văn học truyền bá tư tưởng phê phán chế
độ phong kiến, cổ vũ cho tư tưởng cộng hoà, dân chủ…Văn học hiện đại có thể tính từ
Cách mạng Tân Hợi năm 1911 hoặc từ cuộc vận động Ngũ Tứ 1919. Nổi bật là nhà văn,
nhà báo, nhà giáo Lỗ Tấn. Ông là nhà tổ chức, cây bút tiên phong chủ lực xây dựng nền
văn học mới của cách mạng vô sản. Sau đó, nhà thơ Quách Mạt Nhược, nhà văn Mao
Thuẫn, Ba Kim, Lão Xá và Tào Ngu trở thành những cây bút hàng đầu của nền văn học
mới, sẽ trở thành những nhà văn cộng sản đầu tiên [năm 1921 Đảng Cộng sản TQ ra
đời] . . .và tiếp tục sáng tác về sau.
- Giai đoạn hai [1949-1965] “nền văn học xã hội chủ nghĩa giai đoạn đầu”

văn học sáng tác theo “tư tưởng văn nghệ mao trạch đông”. ngoài những tác giả lão thành
có mặt từ giai đoạn đầu, thêm những tên tuổi mới: chu lập ba, ngải thanh, nữ sĩ dương
mạt, la quảng bân, điền hán. vv…những tác phẩm tràn đầy hào khí cách mạng nhưng
nghệ thuật còn non yếu, kéo dài 16 năm cuộc cải cách ruộng đất nông thôn – đấu tổ địa
đã mắc sai lầm nghiêm trọng như thời cổ đại. tiếp đó công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội với những mô hình ấu trĩ “duy ý chí” như“công xã nhân dân”, phong trào “đại nhảy
vọt”. tình trạng quan liêu, cửa quyền, tham nhũng triền miên, kinh tế suy đốn . . xã hội
điêu tàn, chính trị khủng hoảng, văn nghệ khô cứng. tình trạng đó tất yếu phải dẫn đến
một sự đổ vỡ nào đó. vai trò lãnh đạo của chủ tịch mao trạch đông suy yếu. cặp lâm bưu-
giang thanh rồi đến “bè lũ 4 tên” chụp lấy cơ hộ nhảy ra .
- Giai đoạn 3 [1966-1976] 10 năm động loạn “Đại cách mạng văn hoá vô sản”
Thực chất “cách mạng văn hoá” chỉ diễn ra trong 3 năm [1966-1969] nhưng hậu quả kéo

dài đến 1979 và lâu dài hơn. Lịch sử gọi đó là “10 năm động loạn”, văn học nghệ thuật
chân chính bị tê liệt .
Thay vì cải tổ cải cách, vực dậy tình trạng suy đốn của đất nước, Lâm Bưu, Giang Thanh
và “bè lũ 4 tên” âm mưu cướp đoạt quyền lãnh đạo Đảng, Nhà nước bằng cách mở chiến
dịch mang tên “ Đại cách mạng văn hoá vô sản”. Nhân danh cách mạng chân chính, thực
chất họ là “phái tả” [nghĩa là duy trì cách mạng vô sản một cách cực đoan, tiến hành vội
vã, làm ẩu, áp đặt, bất chấp thực tiễn và bỏ qua qui luật, đốt cháy giai đoạn]. Họ tung
nhiều “chưởng” tàn bạo, dã man đạp thêm cho đất nước Trung Hoa ngày càng dúi sâu
xuống vũng bùn suy đồi…Họ chọn đột phá khẩu là “phê phán văn nghệ tư sản” và đả
kích vạch mặt “phái hữu” [nghĩa là tư tưởng rút lui, không kiên trì cách mạng vô sản, có
ý muốn theo con đường tư bản chủ nghĩa], đó chỉ là cái cớ để triệt hạ tất cả những con
người ưu tú nhất của đất nước. Lịch sử TQ sẽ không bao giờ quên “10 năm động loạn”

khủng khiếp hơn cả thời đế chế Tần Thuỷ Hoàng. Trong thời xây dựng hoà bình mà có
tới hàng triệu người, trong đó có hàng trăm văn nghệ sĩ cách mạng bị bức hại đến chết,
tất cả trường đại học, học viện đóng cửa … Văn học Trung Quốc giai đoạn này bị tê liệt
nếu chưa nói là bị tiêu diệt. [Lúc này, đất nước Việt Nam đang tập trung kiên trì kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, không chịu ảnh hưởng của “đại cách mạng văn hoá vô sản
Trung Quốc”]
- Giai đoạn 4 [1977-1982 và tiếp tục tới nay] gọi là “Văn học đương đại”
Từ sau 1976 đến 1982. Những người đảng viên cộng sản chân chính với sự ủng hộ của
quần chúng cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống lại “bè lũ bốn tên” đã giành lại quyền
lãnh đạo cách mạng. Đất nước TQ tìm ra đường lối mở cửa, phong trào “bốn hiện đại
hoá” theo đường lối tư tưởng của lãnh tụ Đặng Tiểu Bình. Văn học cuộn mình trỗi dậy.
Dòng văn học “vết thương”, dòng văn học “sám hối” với những tác phẩm sục sôi đòi

thanh toán nỗi uất ức “10 năm khủng khiếp”, triệt để phê phán giai đoạn sai lầm ấu trĩ, từ
đây mở ra thời kì phục hưng văn học nghệ thuật. Văn chương giữ vai trò tiên phong trong
lĩnh vực văn hoá nghệ thuật và đời sống tinh thần của công chúng Trung Quốc
Kể từ những năm 1982 về sau, văn học “trăm hoa đua nở” [bách hoa tranh khai]. Những
cây bút trẻ hăm hở tìm tòi phương pháp mới đồng thời kế thừa những phương pháp
truyền thống của Trung Quốc và nhân loại. Nhiều phong cách mới, tác giả mới xuất hiện,
mau chóng tạo ra sức hút mạnh mẽ trong đời sống văn học nghệ thuật hồi sinh. Có thể
nói, cuộc “lột xác” để phục hưng của văn học Trung Quốc thật đớn đau, phải trả bằng
những giá đắt chưa từng có trong lịch sử.
300 năm Đường Thi để lại được 54 000 bài thơ, trung bình mỗi năm sáng tác được 80
bài. 600 năm Minh-Thanh chỉ để lại trên 10 bộ tiểu thuýêt tiêu biểu kiệt xuất, trung bình
mỗi thế kỉ có 2 bộ truyện hay với tổng số khoảng 200 truyện. Thế mà chỉ cần 10 năm đổi

mới, văn học hiện đại đã xuất bản được hàng trăm bộ tiểu thuyết trong đó hơn 10 bộ tiểu
thuyết xuất sắc tiêu biểu … Văn học đương đại TQ đang ở trong thời kì được mùa chưa
từng có trong lịch sử văn học ba nghìn năm của nước này.
2. Đại diện cho văn học Trung Quốc hiện đại: LỖ TẤN.
* LỖ TẤN [1881- 1936]:
Người đặt nền móng cho văn nghệ cách mạng Trung Hoa.
Lỗ Tấn [1881-1936] là nhà văn vĩ đại của Trung Quốc và của thế giới. Lỗ Tấn
được xem là “Gorky của Trung Quốc”, là bậc thầy của dòng văn học hiện thực chủ nghĩa
thế kỷ XX ở Trung Quốc. Sự nghiệp sáng tác văn học của ông gắn bó với sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng nhân dân Trung Quốc. Chủ tịch Mao Trạch Đông đánh giá:
“Lỗ Tấn là vị chủ tướng của phong trào cách mạng văn hoá Trung Quốc, ông không chỉ
là nhà văn vĩ đại, mà còn là nhà tư tưởng, nhà cách mạng vĩ đại”. Giáo sư Lương Duy

Thứ nhận định: “Thế kỷ văn học này gắn bó chặt chẽ với tư tưởng và tác phẩm của văn
hào vĩ đại Lỗ Tấn”. Lỗ Tấn là nhà văn của thời đại Ngũ Tứ, thời đại trăn trở “tìm đường
của dân tộc Trung Quốc” dưới ánh sáng của lí luận mác xít. Tác phẩm của ông, đặc biệt
là tạp văn đã phản ánh sâu sắc và phong phú về con người và thời đại Trung Quốc trong
giai đoạn lịch sử đầy máu và nước mắt. Theo nhà văn Hữu Thỉnh, “tại một số bảo tàng
văn học trên thế giới, cứ sau một thời gian, người ta lại tiến hành thay đổi vị trí trưng bày,
quy mô sắp xếp hiện vật của các nhà văn tuỳ theo kết quả nghiên cứu, đánh giá thăm dò
dư luận. Ở bảo tàng văn học đương đại Trung Quốc thì sự thay đổi đánh giá diễn ra càng
nhanh hơn. Nhưng cho dù Mao Thuẫn, Lão Xá, Quách Mạt Nhược, Đinh Linh, Tào
Ngu… có xê dịch như thế nào thì vị trí của Lỗ Tấn vẫn không thay đổi. Trước sau ông
vẫn ung dung một mình một gian trang trọng nhất ở trung tâm của bảo tàng”. Việc nghiên
cứu những sáng tác của nhà văn này đã được tiến hành ở Việt Nam tương đối sớm, tuy

nhiên còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục tìm hiểu.
Cuộc đời, sự nghiệp và quá trình tư tưởng của Lỗ Tấn có thể chia ra ba giai đoạn như
sau:
THỜI KỲ TRƯỚC NGŨ TỨ
[1881- 1918]
Thời thơ ấu từ 6 đến 17 tuổi, Lỗ Tấn học ở trường tư thục quê nhà. Ông học rất
thông minh. Ðọc hầu hết các thư tịch cổ Trung Quốc. Ðặc biệt thích đọc dã sử, thích
nghe truyền thuyết, xem hát tuồng và tranh dân gian. Thị hiếu và sở trường văn nghệ của
ông được hình thành từ sớm. Mặt khác, vì gia đình sa sút, ông hay đi lại với con em nông
dân lao động ở quê nhà. Tắm mình trong tình cảm chân thành và hồn hậu ấy, Lỗ Tấn “bú
được sữa sói rừng” mà lớn lên, dần dần trở thành “đứa con bất hiếu” của giai cấp phong
kiến,”bề tôi hai lòng”của tầng lớp thân sĩ.

Xã hội Trung Quốc biến động kịch liệt, chính quyền Mãn Thanh quì gối đầu hàng
trước sự xâm lăng của các đế quốc, phong trào yêu nước của nhân dân phát triển rầm
rộ. Lỗ Tấn được cổ vũ mạnh mẽ. Ông giã từ gia đình và quê hương đi tìm đường hoạt
động.
Năm 18 tuổi, Lỗ Tấn đến Nam Kinh, thi vào Thuỷ sư học đường [đào tạo nhân
viên hàng hải]. Hai năm sau lại thi vào Khoáng lộ học đường [đào tạo kỹ sư mỏ]. Ðây
là những trường tây học, dạy kiến thức khoa học mới, khác hẳn với các trường hán học
chỉ dạy “tứ thư, ngũ kinh”. Tầm mắt anh mở rộng, thay đổi nếp tư duy. Hoài nghi truyền
thống cũ và hướng đến sự cải cách, Lỗ Tấn rất say mê cuốn “Thiên diễn luận” của
Husley nhà sinh vật học người Anh – giải thích sự biến hoá vũ trụ và vạn vật theo quan
điểm thuyết tiến hoá Darwin [nhà sinh học vĩ đại Anh]. Lỗ Tấn chịu ảnh hưởng sâu sắc
và từ đó, thế giới quan của ông chịu sự chi phối của thuyết tiến hoá trong một thời gian

tương đối dài. Ông tin tưởng rằng “sinh mệnh lớp sau bao giờ cũng có ý nghĩa hơn,
hoàn thiện hơn lớp trước, tương lai sẽ sáng sủa hơn hiện tại vì lực lượng mới sẽ thay thế
lực lượng cũ. Từ đó ông ca ngợi sự đổi mới, kêu gọi phản kháng, căm ghét truyền thống
trì trệ.
Năm 1902, sau khi tốt nghiệp Khoáng lộ học đường, Lỗ Tấn được chọn đi du học
ở Nhật Bản. Trước tiên ông học ngành y. Ông muốn dùng y học để cứu dân, trước hết
là chữa chạy cho những người nghèo đói, dốt nát, mê tín khỏi bị chết oan như bố ông.
Học sinh Trung Quốc học ở Nhật khá đông. Quang Phục Hội là tổ chức lãnh đạo cách
mạng Tân Hợi [1911] sau này, cũng hoạt động sôi nổi ở Tokio. Lỗ Tấn tham gia Quang
Phục Hội với quyết tâm cứu nước. Về sau, nhân một lần xem phim , ông bị kích động
mạnh mẽ và chuyển sang làm văn nghệ [ông thấy người Trung Quốc vui thú khi xem
phim có cảnh người Nhật chém một người Trung Hoa vì tội làm gián điệp cho quân Nga

thời chiến tranh Nga Nhật]. Lỗ Tấn nghĩ rằng chữa bệnh cho họ về thể xác còn chưa
quan trọng bằng chữa bệnh cho họ về tinh thần. Từ đó ông quyết tâm dùng ngòi bút để
thức tỉnh tinh thần dân tộc và ý chí tự lập tự cường của người Trung Hoa. Ông ra sức
phiên dịch giới thiệu các trước tác khoa học cũng như các tác phẩm văn nghệ thế giới.
Ðặc biệt ông viết tập “Sức mạnh của dòng thơ ma quỷ” giới thiệu những nhà thơ đấu
tranh cho tự do như Byron, Shelli [Anh] Puskine, Lermontov [Nga] v.v… với hy vọng
mượn ý chí phản kháng và quyết tâm hành động của họ để thức tỉnh tinh thần dân tộc.
Hai năm trước Cách mạng Tân Hợi, năm 1909 vì gia đình quẫn bách, Lỗ Tấn dời
Nhật trở về nước nuôi mẹ và em. Ông dạy học ở các trường trung học quê nhà và làm
hiệu trưởng trường sư phạm Thiệu Hưng. Năm 1911, Cách mạng Tân Hợi bùng nổ, ông
hưởng ửng sôi nổi. Với quốc hiệu “Trung Hoa dân quốc”, cuộc cách mạng tư sản này
không đem lại cho xã hội Trung Quốc sự thay đổi nào đáng kể. Lỗ Tấn không khỏi thất

vọng. Còn đối với Cách mạng vô sản, ông chưa có nhận thức rõ ràng, phần nào hoài
nghi, giai cấp công nhân chưa hình thành một lực lượng chính trị độc lập, ông rơi vào
đau khổ, trầm tư.
THỜI KỲ 1918 – 1927
Cách mạng Tháng Mười Nga rung động, thức tỉnh dân tộc Trung Hoa và tâm
hồn nhà yêu nước Lỗ Tấn. Ông đăng thiên truyện đầu tay “Nhật ký người điên” trên tạp
chí Tân Thanh Niên. Ðó là phát súng mở đầu của cuộc cách mạng văn hoá và tư tưởng
Ngũ tứ ở Trung Quốc công kích lễ giáo và chế độ phong kiến. Hàng loạt các truyện khác
tiếp nối ra đời. “Khổng Ất Kỷ, AQ chính truyện, Lễ cầu phúc …” .Những truyện này sau
được soạn thành hai tập “Gào thét” và “Bàng hoàng”. Ông còn viết nhiều bài tạp văn sắc
bén lên án xã hội đế quốc phong kiến và những tập quán xấu của xã hội cũ.
Lỗ Tấn còn tham gia chỉ đạo phong trào thanh niên yêu nước khoảng năm 1920

– 1925, ông là giáo sư các trường Ðại học ở Bắc Kinh, và lãnh đạo sinh viên lập nhóm
văn học, xuất bản báo và tạp chí cổ động cách mạng. Ông đã nhiệt tình ủng hộ cuộc
đấu tranh của sinh viên trường Ðại học nữ sư phạm Bắc Kinh chống lại tên Bộ trưởng
Giáo dục phản động … Ông trở thành lãnh tụ tư tưởng của sinh viên lúc bấy giờ.

Chủ Đề