Cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của nhân dân Nam kì là gì

I. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha xâm lược Việt Nam. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 1958

1. Tình hình Việt Nam giữa thế kỉ XIX [trước khi thực dân Pháp xâm lược].

- Giữa thế kỉ XIX, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, song chế độ phong kiến đã lâm vào khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng.

- Kinh tế:

+ Nông nghiệp sa sút, mất mùa, đói kém thường xuyên.

+ Công thương nghiệp đình đốn do triều đình thực hiện chính sách “Bế quan tỏa cảng”.

- Quân sự lạc hậu; chính sách đối ngoại sai lầm, cấm đạo, xua đuổi giáo sĩ, làm rạn nút khối đoàn kết dân tộc.

- Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra như: Cao Bá Quát, Lê Duy Lương, Lê Văn Khôi, Nông Văn Vân…

2. Thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị xâm lược Việt Nam.

- Tư bản phương Tây và Pháp nhòm ngó Việt Nam từ rất sớm, tư bản Pháp đã lợi dụng đạo Thiên Chúa để tiến hành xâm lược.

- Cuối thế kỉ XVIII, khi phong trào nông dân Tây Sơn nổ ra, Nguyễn Ánh đã cầu cứu nước ngoài nhằm khôi phục lại quyền lực. Giám mục Bá Đa Lộc đã nắm cơ hội đó tạo điều kiện cho tư bản Pháp can thiệp vào Việt Nam bằng Hiệp ước Vécxai năm 1787. Với Hiệp ước này, tư bản Pháp hứa sẽ giúp Nguyễn Ánh đánh lại nhà Tây Sơn, đổi lại Pháp được sở hữu cảng Hội An, đảo Côn Lôn và độc quyền mua bán tại Việt Nam.

- Giữa thế kỉ XIX, Pháp tiến nhanh trên con đường tư bản, tìm cách tiến đánh Việt Nam để tranh giành ảnh hưởng với Anh ở khu vực Châu Á.

- Năm 1857, Na-pô-lê-ông III lập ra Hội đồng Nam Kì để bàn cách can thiệp vào nước ta, đồng thời cho sứ thần tới Huế đòi được “tự do buôn bán và truyền đạo” Việt Nam. Việt Nam đứng trước nguy cơ bị xâm lược.

3. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 1858.   

- Chiều 31/8/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng, âm mưu chiếm Đà Nẵng làm căn cứ tấn công ra Huế, buộc nhà Nguyễn đầu hàng.

- Sáng 1/9/1858, Pháp gửi tối hậu thư song không đợi trả lời đã nổ súng tấn công và đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.

- Quân dân ta anh dũng chống xâm lược, thực hiện kế sách “vườn không nhà trống” gây cho địch nhiều khó khăn. Pháp bị cầm chân 5 tháng trên bán đảo Sơn Trà. Kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp thất bại.

II. Cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gia Định và các tỉnh miền Đông Nam kì từ 1859 - 1862

1. Kháng chiến ở Gia Định.

- Không chiếm được Đà Nẵng, Pháp quyết định đưa quân vào Gia Định vì Gia Định và Nam kì là kho lúa gạo của Việt Nam, đánh xong Gia Định sẽ theo đường sông Cửu Long, đánh ngược lên Cam-pu-chia làm chủ lưu vực sông Mê Kông.

- Tháng 2/1859, Pháp đánh chiếm thành Gia Định nhưng gặp nhiều khó khăn do hoạt động của các dân binh. Kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp thất bại, chúng phải chuyển sang kế hoạch “chinh phục từng gói nhỏ”.

- Từ năm 1960, Pháp bị sa lầy trong cuộc chiến ở Trung Quốc và I-ta-li-a, phải rút quân từ  Đà Nẵng về Gia Định. Lực lượng địch rất mỏng, tình thế cực kì khó khăn. Triều Nguyễn không tranh thủ phản công mà cử Nguyễn Tri Phương vào xây dựng phòng tuyến Chí Hòa để “thủ hiểm”.

- Hàng nghìn nghĩa dũng do Dương Bình Tâm lãnh đạo tiếp tục tấn công giặc ở đồn Chợ Rẫy [7/1960], trong khi triều đình Huế xuất hiện tư tưởng chủ hòa.

- Pháp sa lầy ở hai nơi [Đà Nẵng và gia Định] nhưng triều Nguyễn lại có tư tưởng chủ hòa làm lòng người li tán.

2. Kháng chiến lan rộng ra các tỉnh miền Đông Nam Kì. Hiệp ước Nhâm Tuất [5/6/1862].

- Ngày 23/2/1861, Pháp tấn công đại đồn Chí Hòa, quân ta kháng cự quyết liệt nhưng do hỏa lực địch quá mạnh, Nguyễn Tri Phương buộc phải rút lui. Pháp thừa thắng đánh chiếm Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long.

- Phong trào kháng chiến của nhân dân dâng cao, tiêu biểu là chiến thắng Nhật Tảo khiến Pháp vô cùng bối rối nhưng triều Nguyễn lại kí với Pháp bản hiệp ước Nhâm Tuất [5/6/1862].

- Nội dung Hiệp ước Nhâm Tuất:

+ Thừa nhận quyền cai quản của Pháp ở ba tỉnh [Gia Định, Định Tường, Biên Hòa] và đảo Côn Lôn.

+ Bồi thường cho Pháp 280 vạn lạng bạc.

+ Mở 3 cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho Pháp vào tự do buôn bán . 

+ Khi nào triều đình Huế chấm dứt các hoạt động chống Pháp ở ba tỉnh miền Đông sẽ trả lại thành Vĩnh Long.

III. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam kì sau Hiệp ước 1862

1. Nhân dân ba tỉnh miền Đông Nam kì tiếp tục kháng chiến sau Hiệp ước 1862.

- Triều đình ra lệnh giải tán các đội nghĩa binh chống Pháp ở các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa.

- Nhân dân tiếp tục kháng chiến chống Pháp, khởi nghĩa Trương Định gây nhiều khó khăn cho Pháp. Nghĩa quân xây dựng căn cứ ở Gò Công, liên kết lực lượng đánh địch ở nhiều nơi, giải phóng nhiều vùng ở Gia Định, Định Tường.

- Tháng 2/1863, Pháp tấn công Gò Công, nghĩa quân anh dũng chiến đấu suốt 3 ngày đêm sau đó rút lui để bảo toàn lực lượng.

- Tháng 8/1864, Trương Định hy sinh, khởi nghĩa kết thúc.

2. Thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam kì.

- Ngày 20/06/1867, Pháp ép Phan Thanh Giản nộp thành Vĩnh Long không điều kiện.

- Từ 20 đến 24/6/1867, Pháp chiếm Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên không tốn một viên đạn.

3. Nhân dân ba tỉnh miền Tây chống Pháp.

- Sau khi ba tỉnh miền Tây rời vào tay Pháp, phong trào kháng chiến vẫn dâng cao. Một số sĩ phu ra Bình Thuận xây dựng Đồng Châu xã do Nguyễn Thông cầm đầu mưu cuộc kháng chiến lâu dài.

- Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra: Trương Quyền ở Tây Ninh; Phan Tôn, Phan Liêm ở Ba Tri; Nguyễn Trung Trực ở Hòn Chông [Rạch Giá]; Nguyễn Hữu Huân ở Tân An, Mĩ Tho; Âu Dương Lân  ở Vĩnh Long, Long Xuyên, Cần Thơ…

- Do lực lượng chênh lệch, cuối cùng phong trào thất bại nhưng đã thể hiện lòng yêu nước nồng nàn và ý chí bất khuất của nhân dân ta.

Page 2

SureLRN

Khởi nghĩa Trương Định

Chi tiết Chuyên mục: Những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp

Khởi nghĩa Trương Định [1859 – 1864]

Năm 1859, thực dân Pháp chiếm thành Gia Định. Trương Định tổ chức nghĩa quân chống giặc ở Gò Công, Tân An, được triều đình Huế giao chức Lãnh binh. Năm 1862, vua quan nhà Nguyễn hàng giặc, ra lệnh giải binh, nhưng Trương Định cương quyết kháng Pháp đến cùng, được nhân dân suy tôn là Bình Tây đại nguyên soái. Ngày 20/8/1864, Trương Định bị thương nặng đã rút gươm tự sát. Con trai là Trương Quyền tiếp tục chiến đấu đến năm 1867.

Xem thêm: Khởi nghĩa Trương Định

Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực

Chi tiết Chuyên mục: Những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp

Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực [1861 – 1868]

Năm 1861, Nguyễn Trung Trực [tức Nguyễn Văn Lịch] nổi dậy ở Tân An, chỉ huy nghĩa quân đốt cháy tàu Hy Vọng [Espérance] của giặc Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông [12/1861], rồi lập căn cứ kiên trì chống giặc khắp vùng Rạch Giá, Hà Tiên và đảo Phú Quốc. Năm 1868, bị giặc bắt và đưa đi hành hình, ông đã hiên ngang nói thẳng vào mặt chúng: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người nước Nam đánh Tây”.

Khởi nghĩa Bãi Sậy

Chi tiết Chuyên mục: Những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp

Khởi nghĩa Bãi Sậy là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19 của nhân dân Việt Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn ra từ năm 1883 và kéo dài đến năm 1892 mới tan rã. Bãi Sậy là một trong những trung tâm chống Pháp lớn nhất vào cuối thế kỷ 19.[1]

Trong thời kỳ đầu [1883 - 1885], phong trào do Đinh Gia Quế lãnh đạo, các địa bàn hoạt động lúc này còn giới hạn ở vùng Bãi Sậy [bao gồm địa phận các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Châu, Yên Mỹ thuộc tỉnh Hưng Yên].[2] Từ năm 1885 trở đi, vai trò lãnh đạo thuộc về Nguyễn Thiện Thuật. Ông là thủ lĩnh cao nhất của nghĩa quân Bãi Sậy[3]. Bố chánh Thái Nguyên Vũ Giác là người giúp đỡ rất nhiều cho cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.[1]

Xem thêm: Khởi nghĩa Bãi Sậy

Khởi nghĩa Hùng Lĩnh

Chi tiết Chuyên mục: Những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp

Khởi nghĩa Hùng Lĩnh là một cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.

Công cuộc này khởi phát năm 1887[1] tại Hùng Lĩnh [Vĩnh Lộc, Thanh Hóa], ngay sau khi căn cứ Ba Đình và Mã Cao lần lượt thất thủ. Lãnh đạo chính là Chánh sứ sơn phòng Thanh Hóa Tống Duy Tân cùng hai cộng sự đắc lực là Đề đốc Cao Điển[2] và tù trưởng người Thái Cầm Bá Thước. Tháng 10 năm 1892, cuộc khởi nghĩa kết thúc, sau khi thủ lĩnh là Tống Duy Tân bị đối phương bắt sống rồi xử chết.

Xem thêm: Khởi nghĩa Hùng Lĩnh

Video liên quan

Chủ Đề