Con người có thể nhận thức được thế giới khách quan không vì sao cho ví dụ

Nhận thức thế giới trong thời đại thông tin

01/06/2004

Nguyễn Trần Bạt

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn
Con người có thể nhận thức thế giới hay không là một câu hỏi hóc búa không chỉ với các nhà triết học mà còn cả nhân loại. Tuy nhiên, không chỉ giữa các nhà triết học duy tâm với các nhà triết học duy vật, mà ngay cả giữa những nhà triết học duy tâm với nhau hay giữa các nhà triết học duy vật với nhau cũng có những mâu thuẫn nhất định trong việc trả lời câu hỏi này. Vậy chân lý nằm ở đâu? Chúng tôi cho rằng quả thực rất khó để tìm ra câu trả lời đúng cho vấn đề này, nhất là trong bối cảnh thế giới ngày càng trở nên bão hoà về thông tin cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật. Mặc dù như vậy, thế giới vẫn luôn luôn là một đối tượng bí ẩn thu hút các nhà khoa học; vì vậy, câu hỏi con người có thể nhận thức được thế giới hay không vẫn còn nóng bỏng và thú vị như buổi ban đầu. Bài viết dưới đây sẽ trình bày cách tiếp cận của chúng tôi trước vấn đề này và hy vọng nó sẽ phần nào thức tỉnh con người về khả năng và giới hạn của mình trước vấn đề nhận thức thế giới trong mối tương quan với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là của ngành truyền thông. Lịch sử tư tưởng của con người đã tiếp nhận rất nhiều quan điểm về khả năng nhận thức thế giới của con người, từ “ bất khả tri ” của Berkeley đến “ vật tự nó ” của Kant, từ “ tinh thầntuyệt đối”của Hegel đến“cải tạothế giới”của Marx. Phải khẳng định rằng mỗi học thuyết đều có những điểm hợp lý của nó; chính bởi vậy, nó vẫn rất sống động và liên tục truyền cảm hứng cho con người trong việc lý giải câu hỏi này. Vấn đề chúng tôi đặt ra trong bài viết này chỉ là một khía cạnh liên quan đến khả năng nhận thức thế giới của con người, đó là ngày nay con người có nhận thức được thế giới không?
Khi mà càng ngày càng được tiếp xúc với nhiều tài nguyên thông tin hơn? Hay thế giới, trải qua vô số những cơn thăng trầm và biến chuyển vĩ đại, vẫn là chính nó, bí ẩn và huyễn hoặc như trong mắt Berkeley và Kant hay rõ ràng, cụ thể như trong nhận thức của Marx?
Chủ nghĩa khủng bố ư Khoảng đen mớitrong bức tranh thế giới hiện đại
Một số người cho rằng, những biến động gần đây của thế giới báo hiệu một triển vọng không mấy xán lạn mà quên mất rằng biến động là một thuộc tính căn bản của thế giới, hay nói cách khác, thế giới luôn luôn và không ngừng biến động. Từ trước đến nay, do những hạn chế về trình độ khoa học công nghệ, con người không theo kịp với những biến động của thế giới. Dường như, sự phát triển của khoa học công nghệ, nhất là của ngành truyền thông, làm con người ngày càng hoang mang trước những biến động của thế giới trong khi sự xuất hiện của những biến cố ấy, xét về mặt hiện tượng thuần tuý, không hẳn đã hoàn toàn mới. Các cuộc bầu cử vẫn được tiến hành ở khắp mọi nơi với chiến thắng hay thất bại của những phe phái khác nhau. Các cuộc đảo chính hay thậm chí, các cuộc chiến tranh cũng vậy. Trước đây, với sự hạn chế về khoa học công nghệ, thông tin, thì những thay đổi như vậy cũng như ảnh hưởng của chúng không đến với con người nhanh chóng như ngày nay. Gần đây, bức tranh thế giới hiện đại có một điểm nhấn ư đó là chủ nghĩa khủng bố ư cuộc chiến tranh giữa bóng tối và ánh sáng, hay theo cách nói của một số người, đó là cuộc chiến của thế hệ thứ tư với “ một kẻ thù vôhình và hữu hình, chẳng ở đâu và ở khắp mọinơi, không một trung tâm đầu não cụ thể vàphi lãnh thổ hoá”.Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng hình thức sơ khai của chủ nghĩa khủng bố là những phong trào đấu tranh, sau đó thoái hoá trở thành những tổ chức khủng bố, hay tổ chức phản động có tính chất phi chính phủ, lúc mới ra đời, chúng cũng có mục tiêu chính trị, tôn chỉ và giá trị xã hội nhất định. Hội Tam Hoàng ra đời trong hoàn cảnh nhà Thanh lật đổ nhà Minh ở Trung Quốc hay các tổ chức mafia ra đời ở Italia đều có lịch sử tương tự như vậy. Có thể nói, sự xuất hiện ngày càng nhiều các hoạt động khủng bố trong khoảng thời gian gần đây là một mặt của quá trình toàn cầu hoá nằm bên ngoài khả năng kiểm soát của các chính phủ, chống lại thế giới văn minh và thế giới hợp pháp. Một số người đổ lỗi cho Tổng thống Hoa Kỳ ư George Bush II ư trong việc “ chọc giận ” các tổ chức khủng bố. Tuy nhiên, Bush không phải là một vị tổng thống tồi mặc dù trong vô số những việc ông ta đã làm, hẳn có những việc không đúng. Phản ứng và chính sách quyết liệt của Bush trước những hành động của các tổ chức khủng bố sẽ là một liều thuốc đặc trị nếu ông ta chiếu cố đến sự không kiên quyết của các nhà chính trị khác. Sẽ tốt hơn nhiều nếu Bush thành công trong việc hợp tác với các nhà chính trị trên toàn thế giới trong việc thiết kế và áp dụng những chính sách chống khủng bố táo bạo và quyết liệt. Nói đúng hơn, chủ nghĩa khủng bố mặc dù đã hình thành từ lâu, nhưng có lẽ chưa bao giờ lại xuất hiện một cách có tổ chức và chủ động như gần đây. Điều đó đã làm dấy lên trong vô số người những lo ngại về một cuộc chiến tranh mới, sau những cuộc chiến lịch sử của Thành Cát Tư Hãn, Napoleon hay Fritz Erich von Manstein . 2
Nhưng liệu bức tranh thế giới có u ám đến như vậy, hay đó chính là hiệu ứng phụ của truyền thông?
Nguy cơ nhận thức bằng bóng ư Mầmmống của một thuyết bất khả tri mới
Không thể phủ nhận sự khủng khiếp của những gì mà các tổ chức khủng bố đã gây ra ở Madrid hay Baghdad. Tuy nhiên, chúng tôi muốn tiếp cận vấn đề theo một cách khác,liệu rằng chúng ta đã thành công trong việcxây dựng cho mình phương pháp luận nhậnthức đúng đắn [tức phương pháp xử lý thôngtin đúng đắn] hay chúng ta đang nhận thứcthế giới qua hiệu ứng của truyền thông?Sự ra đời của ngành truyền thông là một trong những thành tựu vĩ đại của nhân loại. Truyền thông đưa con người xích lại gần nhau hơn và giúp con người phân định thế giới một cách có ý thức thành những mảng màu khác nhau thông qua những thông tin cập nhật và rất có giá trị. Truyền thông cũng giúp cho con người tự làm mới nhận thức của mình và nếu thiếu vắng nó, chúng ta sẽ tự giam hãm mình trong những ốc đảo về nhận thức. Tóm lại, truyền thông đóng một vai trò thiết yếu trong việc xây dựng và xúc tiến nhận thức của con người về thế giới. Với khả năng to lớn của truyền thông, một số người đã lạc quan cho rằng thuyết bất khả tri đã chẳng còn lý do gì để tồn tại, quên mất rằng truyền thông là một công cụ cực kỳ sắc bén cho việc nhận thức thế giới và do đó, nó cũng có những “ tác dụng phụ ” nhất định. Tuy nhiên, một số người bàng quan hoặc kém tỉnh táo đã không nhận ra điều này. Thậm chí, thay vì sử dụng lượng thông tin, kiến thức mà truyền thông cung cấp như những nguyên liệu để nhận thức, một số người còn hoàn toàn phụ thuộc vào sự phản ánh chủ quan của nó. Hãy lấy chủ nghĩa khủng bố làm ví dụ. Mặc dù truyền thông đã cố gắng truyền tải những thông tin chân thực và khách quan nhưng nó vẫn tạo ra những ảo giác về sự nức nở của con người lớn hơn cả những thất thiệt mà họ phải gánh chịu. Sức mạnh của truyền thông là ở tính lan toả tức thì của nó; kết quả là, những ảo giác khủng khiếp cũng lan đi nhanh chóng không kém. Sự cộng hưởng ảo giác, đến lượt mình, tạo ra một nhận thức cực kỳ hoảng loạn và đen tối về thế giới trên phạm vi rộng lớn. Hãy tưởng tượng một thế giới không có sự lớn mạnh của ngành truyền thông. Rõ ràng, những sự kiện tưởng như rất đỗi lớn lao ấy sẽ chìm trong lãng quên một cách nhanh chóng và con người cũng sẽ không cảm thấy lo sợ trước nó. Tuy nhiên, giới truyền thông rất biết cách khai thác những biến động của thế giới. Điều này cũng chính là mục đích của truyền thông ư làm nên cái mà chúng ta thường gọi là Quyền lực của truyền thông. Đến lượt mình,nó sẽ tạo ra một nguy cơ mớiư nguy cơ nhận thức thế giới bằng bóng, tứcnhận thức thế giới qua thông tin và hình ảnh.Nếu chúng ta tiếp tục khai thác thông tin theo cách này thì truyền thông sẽ không làm con người mạnh hơn, toàn diện hơn về nhận thức, mà còn tạo ra sự đứt gãy và nhiễu loạn về nhận thức thế giới.
Có thể nói rằng, tại những nơi mà ngành công nghiệp truyền thông đặt chân tới, thế giới được nhận thức hoàn toàn khác với những miền mà nó bỏ sót. ở nơi này người ta lo sợ chủ nghĩa khủng bố trong khi ở nơi khác ư những miền đất thiếu thông tin về thế giới ư con người vẫn nhận thức thế giới một cách hoan hỉ và đơn giản. Phải chăng khi những bài ca về nỗi đau thương được cất lên trong những nhà hát lớn sẽ có sức lan toả và lay động gấp hàng nghìn lần khi nó được hát ở những nơi khác. Phải chăng, hiệu ứng phụ của truyền thông đang làm con người mơ hồ và nhiễu loạn trong việc nhận thức thế giới? Và phải chăng, với việc nhận thức thế giới bằng bóng, truyền thông đang cùng với con người xây dựng một thuyết bất khả tri mới?
Thế giới thực sự như thế nào?
Chúng tôi cho rằng, một phần nào đó của thế giới, hay thậm chí cả thế giới, dưới hiệu ứng phụ của truyền thông, đang bị mô tả và cường điệu tới mức làm méo mó cấu trúc đời sống tâm lý của con người. Thực ra, thế giới, về bản chất đang bị chèn ép và chèn ép lẫn nhau chứ không được lãnh đạo. Giai đoạn thế giới được lãnh đạo một cách có tổ chức nhất là giai đoạn Chiến tranh lạnh. Thế giới, về cơ bản, là đơn cực – và ngày nay cần được hiểu là đơn cực động chứ không phải là đơn cực tĩnh như trước. Do vậy, trong thời đại bùng nổ truyên thông thật khó để hình dung hay trả lời câu hỏi thế giới mà chúng ta nhận thức được là cái gì, là kết quả của nhận thức của con người, kết quả của truyền thông, kết quả của tiếng vọng hay tiếng ồn. Chúng ta nghĩ rằng sẽ hướng cộng đồng trong một nhận thức thống nhất để giải thích thế giới, nhưng thực ra, thế giới được giải thích hoàn toàn không nhất quán. Do đó, vấn đề cần nhận thức đúng về thế giới trong thời đại thông tin hiện nay. Chừng nào không trả lời được câu hỏi ấy, chúng ta sẽ tiếp tục sống và nhận thức bằng bóng, tức bằng những gì mà giới truyền thông truyền tải tới con người thông qua các phương tiện hiện đại của nó. Sức mạnh của truyền thông khiến con người tưởng mình chứng minh được sự sai lầm của thuyết bất khả tri nhưng dường như nó đang làm điều ngược lại. Có vẻ như con người đang bị khủng hoảng thông tin và càng ở những vùng lạc hậu về nhận thức, sự khủng hoảng thông tin ấy càng rõ rệt. Có lẽ đây sẽ là một cuộc khủng hoảng mới của nhân loại. Khủng hoảng thông tin hay nói đúng hơn là khủng hoảng nhận thức chỉ có thể xảy ra ở những vùng đất lạc hậu về nhận thức dẫn đến tư duy đơn giản, phiến diện và thụ động. Trong khi đó, khối lượng thông tin đồ sộ hàng ngày được phản ánh vào trong tiềm thức con người một cách hết sức phức tạp, khiến cho một số học giả phải đánh động nhân loại về nền kinh tế Internet, hay nền kinh tế thông tin, cho rằng nếu biến thông tin trở thành nền kinh tế, chúng ta sẽ tự mình tạo ra sự sụp đổ. Vấn đề không dừng lại ở đó, mà quan trọng hơn, chúng ta cần phải cảnh báo nhân loại về nguy cơ thông tin, hay nói cách khác là nguy cơ về nhận thức bóng qua các hình ảnh truyền thông. Để trả lời câu hỏi con người có thể nhận thức thế giới hay không, chúng tôi cho rằng, con người không chỉ có thể mà buộc phải nhận thức được thế giới và chỉ khi nào nhận thức được thế giới, chúng ta mới có thể tồn tại và phát triển. Nói như vậy không có nghĩa là con người có thể nhận thức được thế giới một cách trọn vẹn và chính xác. Với sự chênh lệch về trình độ nhận thức, thế giới được phản ánh và mang màu sắc rất khác nhau trong nhận thức của những người khác nhau. Trình độ và bản lĩnh nhận thức của con người sẽ quyết định việc con người sẽ đi tới đâu trong chặng đường nhận thức thế giới. Về mặt lý thuyết, để có thể nhận thức thế giới sát với bản chất của nó, chúng ta cần phải tạo cho mình bản lĩnh thoát khỏi vùng ảnh hưởng của thông tin, nghĩa là phải có sự quan sát và phân tích độc lập. Hãy coi thông tin như những nguyên liệu thô và hãy lọc ra trong đó những sự kiện bản chất trước khi chúng bị phóng đại. Do đó, hãy hình dung và nhận thức thế giới như chính nó chứ không phải thông qua những tiếng vọng của truyền thông. Đừng để truyền thông can thiệp sâu vào tư duy và nhận thức của chúng ta về thế giới và tạo ra những sự đứt gãy đột ngột. Đó cũng chính là nhiệm vụ của khoa học và quả thực là một nhiệm vụ khó khăn bởi trên mạng hàng ngày có hàng trăm, hàng nghìn bài viết về các sự kiện của thế giới. Nhiệm vụ của khoa học là chia thế giới thành đúng những mảng màu và những dữ liệu có màu sắc khác nhau. Quay trở lại với thực tiễn Việt Nam, chúng tôi cho rằng sự khủng hoảng thừa thông tin khiến chúng ta tưởng tượng ra một thế giới phức tạp với vô số hiểm hoạ và chính nỗi lo sợ ấy khiến chúng ta hoặc bàng quan hoặc không dám thực hiện những cuộc cải cách triệt để. Trong khi đó, Trung Quốc đã tiến hành rất nhiều chương trình cải cách lớn và khuấy động cả thế giới bằng sự thành công của những cuộc cải cách đó. So với Việt Nam, Trung Quốc là một đất nước rộng lớn và phức tạp hơn nhiều. Do đó, số lượng rủi ro và các vấn đề mà Việt Nam phải đối mặt khi tiến hành cải cách chắc chắn ít hơn Trung Quốc cả về số lượng và nhỏ hơn về quy mô. Bên cạnh đó còn có một yếu tố thuận lợi khác nữa là con người Việt Nam tiềm ẩn đầy đủ phẩm chất để thực hiện những cuộc cải cách bước ngoặt. Vậy, tại sao các cuộc cải cách vẫn chưa được tiến hành xuôn sẻ? Phải chăng, chúng ta đang nhận thức thế giới nói chung và về sự thay đổi của Trung Quốc một cách bàng quan, quên mất rằng những sự thay đổi ấy có tác động trực tiếp tới tương lai của Việt Nam? Thiết nghĩ đó là một câu hỏi lớn.
Kết luận
Đã đến lúc phải đi tìm chân lý một cách tương đối trong một sự chuyển động tương đối, nghĩa là phải nhận thức thế giới nói chung và sự vật, hiện tượng trong sự xê dịch tương đối của đời sống và xê dịch tương đối của ý nghĩ. Nói cách khác, không được xem sự vật là những vật thể để bám vào nó mà phân tích, cần phải xem các sự kiện chỉ là ảnh của một trạng thái của các loại hình phổ biến của nhân loại, và vì vậy, chúng ta phải tư duy trong thể động và tính động tương đối. Hoặc làm như thế, hoặc chúng ta đang tự mình xâydựng một thuyết “bất khả tri” mớicho những vấn đề có thể nhận thức được!./.

Nhận thức là gì?

Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó.

Quan niệm trên đây về nhận thức cũng chính là quan niệm duy vật biện chứng về bản chất của nhận thức. Quan niệm này xuất phát tứ bốn nguyên tắc cơ bản sau đây:

– Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.

– Thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan vào bộ óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có những cái mà con người chưa nhận thức được.

– Khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc và toàn diện hơn,…

– Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

Mục lục

Các giai đoạn của nhận thứcSửa đổi

Theo quan điểm của phép tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Con đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên ngoài đến bản chất bên trong, như sau:

  1. Nhận thức cảm tính [hay còn gọi là trực quan sinh động] là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy[2]. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau:
    • Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý thức. Lenin viết: "Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan". Nếu dừng lại ở cảm giác thì con người mới hiểu được thuộc tính cụ thể, riêng lẻ của sự vật. Điều đó chưa đủ; bởi vì, muốn hiểu biết bản chất của sự vật phải nắm được một cách tương đối trọn vẹn sự vật. Vì vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn"[2].
    • Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và không đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính không đặc trưng và phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó không còn trực tiếp tác động lên cơ quan cảm giác con người. Do vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn[2].
    • Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự vật[2].
    Giai đoạn này có các đặc điểm:
    • Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức[1].
    • Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật[1].
    • Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
  2. Nhận thức lý tính [hay còn gọi là tư duy trừu tượng] là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận.
    • Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học[2].
    • Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Thí dụ: "Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng" là một phán đoán vì có sự liên kết khái niệm "dân tộc Việt Nam" với khái niệm "anh hùng". Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất [ví dụ: đồng dẫn điện], phán đoán đặc thù [ví dụ: đồng là kim loại] và phán đoán phổ biến [ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện]. Ở đây phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát rộng lớn nhất về đối tượng[2].
      Nếu chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong phán đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối quan hệ giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến. Chẳng hạn qua các phán đoán thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngoài đặc tính dẫn điện giống nhau thì giữa đồng với các kim loại khác còn có các thuộc tính giống nhau nào khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải vươn lên hình thức nhận thức suy luận[2].
    • Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí dụ, nếu liên kết phán đoán "đồng dẫn điện" với phán đoán "đồng là kim loại" ta rút ra được tri thức mới "mọi kim loại đều dẫn điện". Tùy theo sự kết hợp phán đoán theo trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch[2].
      Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức mới một cách nhanh chóng và đúng đắn[2].
    Giai đoạn này cũng có hai đặc điểm:
    • Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng[2].
    • Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng[2].
    Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự của sự vật[1].
  3. Nhận thức trở về thực tiễn, ở đây tri thức được kiểm nghiệm là đúng hay sai. Nói cách khác, thực tiễn có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được[2]. Do đó, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, là cơ sở động lực, mục đích của nhận thức[1]. Mục đích cuối cùng của nhận thức không chỉ để giải thích thế giới mà để cải tạo thế giới[1]. Do đó, sự nhận thức ở giai đoạn này có chức năng định hướng thực tiễn.

Ví dụSửa đổi

Một số ví dụ về khả năng:

- Con người không thể biết sự vật, hiện tượng nào đó có tồn tại không nếu không dùng giác quan cảm nhận hoặc đo đạc thông tin về vật, hiện tượng đó.

- Con người thậm chí có thể nhận những giác quan bị tác động bởi bên thứ ba [một vật, hiện tượng nào đó] sao cho con người không thể tìm thấy [tìm thấy ở đây là một dạng của một biểu hiện hay một hiện tượng trong triết học hiện đại] một nguyên tố mà ngành khoa học đang cần để lý giải thế giới chẳng hạn.

- Những khám phá lớn về vật lý thường được con người đo đạc qua những cỗ máy tinh vi, tuy nhiên, việc nhìn qua 1 màn hình để nói hiện tượng gì tồn tại hoặc không là một lỗ hổng dễ nhận thấy, và tất nhiên ảnh hưởng đến cả ngành khoa học.

Tham khảoSửa đổi

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • Thuyết không thể biết tại Từ điển bách khoa Việt Nam
  • Agnosticism tại Encyclopædia Britannica [tiếng Anh]

Video liên quan

Chủ Đề