Cho ví dụ quản lý nhà nước theo ngành và lãnh thổ

Chuyên đề 9TỔNG QUAN QUẢN LÝNHÀ NƯỚC THEO NGÀNH VÀ LÃNH THỔTrong nhiều tài liệu ở Việt Nam, vấn đề quản lý nhà nước theo ngành vàtheo lãnh thổ thường được nói đến như là hai lĩnh vực khác nhau. Một trong nhữngnguyên tắc của quản lý hành chính nhà nước được nhiều giáo trình giới thiệu, cónguyên tắc “kết hợp quản lý ngành với quản lý theo lãnh thổ”. Tuy nhiên, rất ítngười hiểu đúng vấn đề này và thường chia nó thành hai lĩnh vực độc lập với nhau.Quản lý nhà nước nói chung, quản lý hành chính nhà nước nói riêng mangtính toàn diện, bao quát tất cả các ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội ở khắp mọimiền đất nước. Quản lý nhà nước thực chất là quản lý tất cả các ngành, nhưng dotính chất đặc điểm khác nhau của từng vùng lãnh thổ nên cách thức và phươngpháp quản lý những vấn đề ngành có thể khác nhau. Tuy nhiên, quản lý nhà nướccác vấn đề trên tất cả các lĩnh vực đòi hỏi vừa đảm bảo tính thống nhất vĩ mô trêntoàn bộ lãnh thổ quốc gia, nhưng đồng thời có tính đến yếu tố đặc trưng của từnglãnh thổ.Chuyên đề này nhằm giúp cho học viên phân định rõ vấn đề đó để vận dụngvào từng địa phương [lãnh thổ] cụ thể.I. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC THEO NGÀNH1. Phân chia hệ thống kinh tế quốc dân theo ngành1.1. Những vấn đề chung về ngànha. Khái niệm ngànhThuật ngữ ngành được hiểu dưới nhiều giác độ khác nhau. Trong ngôn ngữchung của tiếng Việt, ngành là một từ được sử dụng rất phổ biến nhưng thiếu sựthống nhất, do đó, sử dụng mang tính thói quen. Ví dụ: Bộ Giáo dục và Đào tạođưa ra danh mục các ngành học và chuyên ngành nhưng chưa xác định rõ cơ sở đểphân loại.Mặt khác, chúng ta thường sử dụng hai cụm từ ngành và lĩnh vực. Từ đó lạicó đa ngành, đa lĩnh vực được nhóm lại với nhau.Đồng thời cụm từ lĩnh vực được nhiều người sử dụng. Tuy nhiên, cũng chưacó sự thống nhất trong định nghĩa về lĩnh vực. Cũng có ý kiến cho rằng ngành hẹp1hơn lĩnh vực nhưng cũng có ý kiến cho rằng lĩnh vực rộng hơn ngành. Trong Đề án“Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vốn vayưu đãi khác của các nhà tài trợ thời kỳ 2011-2015” được Thủ tướng Chính phủ,thuật ngữ ngành và lĩnh vực cũng được sử dụng, theo đó ngành được đặt trước vàcác lĩnh vực đặt sau. Ví dụ: Nguồn vốn ODA đã hỗ trợ phát triển nhiều ngành vàlĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, trong đó phát triển nông nghiệp và nôngthôn kết hợp xóa đói, giảm nghèo. Như vậy phải chăng nông nghiệp và phát triểnnông thôn kết hợp với xóa đói giảm nghèo và tiếp tục chỉ ra rất nhiều lĩnh vực đầutư khác.Ngoài ra, chúng ta sử dụng nhiều cụm từ như ngành dọc để chỉ một cáchthức tổ chức bộ máy hoạt động quản lý hay sản xuất.Trong Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007 của Thủtướng Chính phủ về hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam, tuy sử dụng cụm từ“ngành kinh tế”, nhưng thực chất là chỉ tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội quốcgia từ sản xuất, dịch vụ đến giáo dục, y tế. Trong cách tiếp cận này, không cónhững từ khác như lĩnh vực, chuyên ngành, đa ngành. Tất các cụm từ đó đều mangý nghĩa thực tiễn hơn là được quy định thống nhất. Ví dụ, đa ngành, đa lĩnh vựcđược Bộ Giáo dục và Đào tạo mong muốn xây dựng các trường đại học quốc gianhư Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh. Nhưng trên thực tế lại không có khái niệmđa ngành trong đào tạo mà thực chất lại ghép nhiều trường ngành cụ thể thành “đangành”. Trong khi đó, nếu hiểu theo đào tạo đa ngành được một số nước sử dụng,sinh viên ra trường biết nhiều thay cho viết sâu. Và do đó, không phải ghép cáctrường chuyên thành trường đa ngành.Thuật ngữ ngành, lĩnh vực trong thực tế sử dụng không phân biệt. Nhiềutrường hợp, cùng một đối tượng bị quản lý, khi chúng ta sử dụng ngành, khi chúngta sử dụng lĩnh vực.Do đó, trong hoạt động quản lý, phải chăng chỉ nghiên cứu, phân loại và sửdụng cụm từ ngành theo cách quy định của thống kê, hơn là sử dụng mang tính “tựdo”. Do đó, để thực thi hoạt động quản lý nói chung, nên thống nhất cách tiếp cậnngành.Tuy nhiên, cũng có thể thống nhất ngành “một một bộ phận cấu thành kinhtế - xã hội của một quốc gia bao gồm nhiều hoạt động, nhiều tổ chức có những nétđặc trưng giống nhau, tương tự nhau”.2Mức độ hay các tiêu chí để xác định đặc trưng giống nhau, tương tự nhau cóthể rất khác nhau và do đó có thể có những ngành rất rộng nếu chỉ lấy một vài tiêuchí mang tính vĩ mô. Nhưng sẽ có những ngành rất hẹp [tiếng Việt có thể sử dụngnhư là chuyên ngành - trong giáo dục] với những tiêu chí ngoài phần chung, còn cónhững tiêu chí rất sâu, chi tiết cụ thể. Ví dụ, ngành xã hội học; ngành kinh tế học lànhững ngành rộng, vĩ mô. Nhưng trong kinh tế học, có thể có những ngành hẹphơn, chỉ nghiên cứu một nhóm những vấn đề cụ thể của kinh tế như “kinh tế ngoạithương”. Và ngay chính kinh tế ngoại thương cũng có thể chia nhỏ thành nhiềuchuyên ngành khác.Trước đây chúng ta có ngành “lâm nghiệp” và sau đó chúng ta có nhiềungành hẹp hơn trong ngành lâm nghiệp. Ví dụ Trồng rừng; Chăm sóc, tu bổ rừng;Khai thác và các hoạt động dịch vụ phục vụ lâm nghiệp.Lĩnh vực cũng có thể sử dụng thay thế ngành khi có thể coi lĩnh vực là baoquát nhiều hoạt động trên những ngành có những nét đặc trưng giống nhau. Ví dụ:lĩnh vực kinh tế, văn hóa, nghệ thuật.Ngành hay lĩnh vực chỉ là sự phân chia mang tính tương đối cũng giống nhưchúng ta có những sự phân chia khác. Do đó, nó không mang tính cố định tuyệtđối. Ngay trong các quy định quốc tế, trong nước cũng có những sự thay đổi theothời gian.b. Phân biệt ngành kinh tế [bao gồm hàng hóa; dịch vụ] và thành phần kinh tếNgành là một phạm trù gắn liền với hoạt động kinh tế - xã hội. Trong khi đó,phân chia thành phần kinh tế thường thiên về tính chất, vai trò của chủ sở hữu.Trước khi đổi mới, dù mức độ phát triển chưa cao, nhưng nếu xét xét cácngành [kinh tế, xã hội,...] thì Việt Nam cũng có rất nhiều ngành. Trong đó cónhững ngành [lĩnh vực] phát triển rất mạnh, được thế giới đánh giá cao. Đó làngành y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân thông qua hệ thống y tế cơ sở. Và nhữngnăm 1980-1986 hệ thống này ở Việt Nam được đánh giá tốt nhất trên thế giới.Nhưng nếu đánh giá về thành phần kinh tế hay các lĩnh vực khác, thì trước khi đổimới ở Việt Nam chỉ chấp nhận 2 thành phần kinh tế [xã hội]. Nhưng từ sau đổimới, chúng ta có thể nhiều thành phần kinh tế [sở hữu] cùng hoạt động trên nhiềungành kinh tế - xã hội khác nhau.c. Phân biệt ngành với bốn lĩnh vực được sử dụng trong nghiên cứu chínhtrị kinh tế học3Phạm vi nghiên cứu truyền thống của kinh tế chính trị học thường chia làmbốn lĩnh vực là: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Thực tiễn sự phát triểncủa kinh tế chính trị học hiện đại đã vượt xa khỏi bốn lĩnh vực truyền thống này.Ngành có sự khác biệt với bốn lĩnh vực trên các góc độ.Thứ nhất, bốn lĩnh vực sử dụng trong nghiên cứu kinh tế chính trị học gắnliền với hoạt động sản xuất hàng hoá, dịch vụ của nền kinh tế hàng hoá, trong khingành có phạm vi sử dụng đa dạng hơn và bốn lĩnh vực này không thực sự baoquát toàn diện, theo kịp sự phát triển của ngành.Thứ hai, ngành gắn với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, khônggiới hạn ở các hoạt động kinh tế, sản xuất hàng hoá, trong khi bốn lĩnh vực sảnxuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Ngành là đối tượng được nghiên cứu trongnhiều lĩnh vực khoa học khác nhau.d. Xu hướng phát triển của các ngànhNgành hay những lĩnh vực hoạt động mới ra đời trong đời sống chính trị kinh tế - văn hóa - xã hội là một xu thế tất yếu khách quan. Chính vì vậy, trongniên giám thống kê của các nước, số lượng phân loại ngành không ngừng gia tăng.Ở Việt Nam cũng tương tự. Nếu như trong nền kinh tế kế hoạch hoá tậptrung, kém phát triển như trước đây, hệ thống phân ngành của Việt Nam cũng chỉmang tính phổ biến trên những ngành có thể chất chung của một nền sản xuất nhỏ,nông nghiệp. Ngày này, cùng với sự hội nhập và phát triển, ngành sản xuất, kinhdoanh và cung cấp dịch vụ ở Việt Nam đã và đang không ngừng gia tăng.Cùng với sự gia tăng của ngành thuộc lĩnh vực kinh tế quốc dân thì nhiềulĩnh vực như giáo dục đào tạo cũng gia tăng nhiều loại ngành đào tạo và điều đócũng tạo cơ hội để học sinh lựa chọn. Với sự gia tăng ngành, nhà nước cũng phảiquan tâm đến hoạt động quản lý đối với những ngành mới.1.2 Phân chia hệ thống kinh tế quốc dân theo ngànha. Nguyên tắc chung- Phân loại ngành kinh tế theo vốn hoặc lao động: Ngành thâm dụng tư bản ngành thâm dụng lao động.- Phân loại theo sản phẩm: Ngành hoá chất, ngành dầu mỏ, ngành thựcphẩm, ngành cá, ngành giấy, ngành tài chính, ngành phần mềm, ngành quảng cáo,ngành giải trí…b. Mỗi một quốc gia có những cách phân loại ngành riêng4Không có một hệ thống hay tiêu chuẩn phân ngành nào là hoàn chỉnh. Việcxây dựng và sử dụng hệ thống hay tiêu chuẩn phân ngành nào là tùy thuộc vàoquan điểm của Chính phủ;Từng cá nhân hay tổ chức [nếu đứng trên quan điểm nghiên cứu] hoặc quanđiểm quản lý của nhà nước [ban hành kèm theo hệ thống văn bản pháp luật quốcgia].Các quốc gia thường dựa vào hệ thống “Phân ngành chuẩn quốc tế-International Standard Industrial Classification ISIC”1/, để phân chia ngành sảnxuất, kinh doanh và cũng dựa vào đó để tổ chức hệ thống các cơ quan quản lý nhànước theo ngành.Khi vận dụng chuẩn mực quốc tế để phân ngành, các nước đều có những sựthay đổi nhất định về hệ thống phân loại ngành của quốc gia cùng với sự phát triểnkinh tế - xã hội của quốc gia.Các nước đều có những sự điều chỉnh nhất định khi đưa ra hệ thống phânloại của quốc gia so với ISIC.Các nước cũng vận dụng nguyên tắc cây ngành để phân loại; mức độ chi tiếtkhác nhau giữa các cách phân loại. Việc phân loại nhằm tìm ra đặc trưng của từngngành để có chính sách hỗ trợ, quản lý. Những lĩnh vực phát triển cần phải đượcđưa vào phân loại.1.3. Giới thiệu hệ thống phân loại của một số nướca. Phân ngành chuẩn quốc tế [International Standard IndustrialClassification ISIC]Hệ thống phân loại ngành quốc tế do liên hợp quốc ban hành áp dụng chomọi hoạt động kinh tế. Hệ thống này cũng áp dụng nguyên tắc cây phân ngành vàchia làm bốn cấp độ2/.- Ngành cấp I- Ngành cấp II- Ngành cấp III- Ngành cấp IV.1Phần phân ngành của các nước cũng như phân ngành theo chuẩn quốc tế, học viên có thể tham khảo thêm tài liệu.Đây là lĩnh vực chuyên sâu của kinh tế ngành.2Giảng viên tìm đọc để có thể giới thiệu phân loại ngành này khi vận dụng vào phân loại phục vụ tổ chức các cơquan quản lý nhà nước theo ngành.5Ngoài hệ thống ISIC, mỗi một nước hay một khu vực có thể đưa ra phânngành khác. Ví dụ:- Hệ thống phân loại/Standard Industrial Classification [Mỹ]- Hệ thống phân loại Bắc Mỹ/North American Industry ClassificationSystem- Hệ thống phân loại của Anh/United Kingdom Standard IndustrialClassification of Economic Activities- Hệ thống phân loại của Nga/Russian Economic Activities ClassificationSystem [OKVED] [Russian]- Hệ thống phân loại của cộng đồng Châu Âu/Statistical classification ofeconomic activities in the European Community [NACE]Bản chất của việc phân loại ngành và nhóm các ngành để thành lập các cơquan quản lý nhà nước theo ngành chỉ mang tính tương đốib. Giới thiệu về các bảng phân loại của IndonesiaTheo Luật Thống kê Indonesia, cơ quan thống kê Indonesia luôn thay đổiviệc thu thập, xử lý, cung cấp và phân tích số liệu, đặc biệt là việc cung cấp choChính phủ công bố trong các ấn phẩm thống kê Indonesia, để kết hợp giữa khu vựcChính phủ và tư nhân, hệ thống phát triển thống kê nhà nước đã xác định nội dungvà các bảng phân loại chuẩn. Việc phân loại chuẩn không chỉ nhằm so sánh số liệutrong nước mà còn để so sánh quốc tế.Trong thực tiễn công tác thống kê Indonesia sử dụng các bảng phân loại sau:- Bảng phân ngành nói chung [KBLI- Tiếng Indonesia]Cấu trúc của bảng phân loại năm 2000 và sự khác biệt với bảng ISIC sửađổi lần 3 năm 1990:Cấu trúc của bảng phân loại, số lượng, thời kỳ và phân loại hiện hành khôngkhác biệt nhiều so với bảng ISIC. Tuy nhiên, có một vài nhóm đã được thay đổi vàđiều chỉnh cho phù hợp với Indonesia. Bảng phân ngành hiện hành được gọi làKBLI 2000 cũng chính là bảng ISIC 1990 sửa đổi lần 3. Nó được sửa đổi và điềuchỉnh theo ISIC.Trong ISIC 1990 sửa đổi lần 3, có 17 ngành, từ ngành A [nông nghiệp, sănbắt và rừng] tới ngành Q [Tổ chức quốc tế]. KBLI 2000 có 18 ngành, không chỉ từ6ngành A tới ngành Q, mà còn có thêm ngành X, ngành này chỉ tính riêng choIndonesia, không có trong ISIC 1990 và nó được phân thành mã 4 số.ISIC 1990 sửa đổi lần 3KBLI 20000200 Rừng, đốn gỗ và các hoạt động 0201 [trồng rừng]dịch vụ khác liên quan0202 [rừng tự nhiên]0203 [sản phẩm rừng khác ngoài gỗ]0204 [dịch vụ rừng]0205 [các hoạt động có liên quan khác]Bên cạnh đó, có nhóm còn được phân thành mã 5 số, phần này hoàn toànkhông giống với ISIC, bảng KBLI 2000 có thể có tới mã 5 số, nó được điều chỉnhphù hợp với điều kiện kinh tế và quá trình công nghệ của Indonesia. Dưới đây là 1ví dụ:Phân nhómNhóm chi tiết0201 [ trồng rừng]02011 gỗ cứng [dùng để đóng tàu, vỏ tàu]02012 gỗ có mùi thơm [như gỗ thông]02013 gỗ làm đồ dùng nội thất.......02019 gỗ khác- Bảng phân loại ngành nghề [ KJI]Sự phát triển loại hình hoạt động và công nghệ thay đổi, mọi ngành nghềcũng có sự thay đổi và phát triển, cơ cấu số lượng trong thị trường lao động củaIndonesia cũng có thay đổi. Để có thể dễ dàng thu thập và phân tích số liệu laođộng, cơ quan thống kê Indonesia cũng đã áp dụng hệ thống phân loại ngành nghề7theo phân loại chuẩn quốc tế. Bảng phân loại này cũng được dùng để so sánh giữacác vùng trong nước và với các nước khác trên thế giới.Bảng phân loại ngành nghề lần đầu tiên được cơ quan thống kê Indonesia vàbộ lao động Indonesia công bố là vào năm 1982 [KJI 1982], bảng này được xâydựng theo bảng phân loại ngành nghề chuẩn của Liên hợp quốc [ISCO 1968].Bảng KJI 1982 đã quá lỗi thời và cần phải thay đổi lại cho phù hợp với cơ cấungành nghề hiện tại và do vậy bảng phân loại ngành nghề mới của Indonesia ra đờivào năm 2000 và nó mang tên là KJI 2000, bảng này gần giống với bảng phân loạingành nghề ASCO [bảng phân loại ngành nghề của Úc].KJI 2000 đã được áp dụng đầu tiên cho tổng điều tra dân số năm 2000 ởIndonesia. Thật không may là kết quả của tổng điều tra đã không thoả mãn đượccho một số ngành nghề ở Indonesia, ví dụ như việc phân nhỏ nghề của người chủtrang trại và người quản lý nông trang và những người công nhân lao động hỗnhợp rất khó tách bạch được. Bên cạnh đó, kết quả thu được không thể đem so sánhqua các thời kỳ. Bởi vậy phân loại hiện hành ở Indonesia lại phải quay lại bảngphân loại cũ, bảng phân loại KJI 1982.- Bảng phân loại hàng hoá [KKI]KKI được xây dựng trên cơ sở của bảng KBLI [bảng phân ngành chuẩn củaIndonesia], KKI đã được xuất bản 3 lần, lần đầu vào năm 1985 [KKI 1985] dựatrên cơ sở của KBLI 1983, lần thứ 2 vào năm 1991 [KKI 1991] nó là bảng sửa đổibảng KKI năm 1985 và trên cơ sở của bảng KBLI 1990. Lần cuối cùng vào năm1998 [KKI 1998] trên cơ sở của bảng KBLI 1997. KKI 1998 đã sửa đổi bảng KKI1991. Cũng như bảng KKI 1985 và KKI 1991, cấu trúc và phạm vi của bảng KKI1998 cũng đảm bảo tính so sánh quốc tế trên tất cả các loại hình hàng hoá và dịchvụ [ICGS 1976].Hoạt động kinh tế riêng biệt, đã được đưa ra trong bảng KBLI [ISIC] có thểkhông cần phải xuất hiện, nó cần được chi tiết theo nhóm, đó là nhóm hàng hoá.Nhóm hàng hoá trên cơ sở phân ngành kinh tế, nó có thể được thu thập, so sánh,phân tích và những mối liên hệ kết hợp hoặc phân chia.ICGSKKI 199815112.03 chế biến thịt hộp15123.02 sấy khô da động vật815125.01 sấy cáKKI gồm có mã 9 số, 5 số đầu là mã của KBJI, 2 mã tiếp theo là nhóm hànghoá, và 2 mã cuối cùng là mã hàng hoá.Trong thời gian rất ngắn, cơ quan Thống kê Indonesia [BPS] đã lập kế hoạchđể xây dựng một số bảng phân loại mới như COICOP, KBJI trên cơ sở của ISCO1988. COICOP là bảng phân loại hàng hoá cho tiêu dùng cá nhân và hiện nay cơquan BPS đang chuẩn bị sơ bộ bảng COICOP cho việc điều tra ngân sách hộ giađình làm cơ sở cho việc xây dựng chỉ số giá tiêu dùng [CPI]. Và năm tới [năm2003], sẽ cố gắng để xây dựng bảng COICOP không chỉ dùng cho CPI mà còndùng cho các cuộc điều tra hộ gia đình. Và năm tiếp sau nữa, cũng sẽ xây dựngbảng KBJI mới theo bảng ISCO 1988, từ đó xây dựng bảng phân loại hiện hành đểtiến hành cập nhật.c. Giới thiệu phân loại thống kê của Hàn Quốc- Nguyên tắc cơ bản và cấu trúcPhân ngành kinh tế của Hàn Quốc [KSIC] hầu như dựa theo phân ngànhkinh tế chuẩn quốc tế [ISIC]. ISIC đã đưa ra nguyên tắc sử dụng trong việc xâydựng và các tiêu chuẩn liên quan đến việc mô tả các cấp khác nhau trong phân loại.Tiêu chuẩn chủ yếu là phải phù hợp với đặc điểm của ngành hoạt động và đơn vịkinh tế mà đã được xác định mức độ giống nhau trong cùng một quá trình tổ chứcbởi các đơn vị. Có 3 khía cạnh chính của hoạt động được quan tâm như sau:+ Đặc điểm hàng hoá và sản phẩm dịch vụ, bao gồm yếu tố cấu thành cơ bảnđể chế tạo ra mặt hàng và sự cần thiết phục vụ chúng;+ Công dụng của hàng hoá và dịch vụ;+ Quy trình công nghệ để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ.Phân ngành kinh tế Hàn Quốc có 5 cấp: từ cấp 1 đến cấp 4 có cấu trúc tương tựgiống với ISIC. Riêng cấp 5 bao gồm nhiều loại sản phẩm dịch vụ khác nhau đượctập hợp bởi nền kinh tế của Hàn Quốc, qua cấp này chúng ta nhận biết thêm nhiềuloại hình kỹ thuật cao và ngành hoạt động dịch vụ.Bảng tương thích sau đây mô tả mối quan hệ giữa KSIC và ISIC:9KSICISICCấp 12017Cấp 26360Cấp 3194159Cấp 4442292Cấp 51121-- Các bảng phân loại hiện hành của Hàn Quốc:Về giác độ quản lý bảng phân loại loại ngành kinh tế Hàn quốc hầu hết đềudựa trên cơ sở phân ngành chuẩn quốc tế [ISIC], vì thế mà phân loại thống kê đềuphải dựa trên phân loại chuẩn quốc tế để đảm bảo tính so sánh phù hợp. Có cácloại bảng phân loại thống kê của Hàn Quốc như sau:+ KSIC lần 6 đã được sửa đổi dựa trên lần 3 [ISIC lần 3 - 1991] về sự điềuchỉnh mã, thay đổi tiêu chuẩn, tạo lập ngành mới, xoá một số ngành cũ không cònphù hợp với thực tế.+ KSIC lần 8 đã được sửa đổi dựa trên ISIC lần 3 về mục đích thay đổi cấutrúc ISIC.+ HS/K: HS là sự kết nối với hệ thống mã HS [cấp 6 số] và chi tiết thêm từ 6đến 10 số.- Phân loại khác: Ngoài các bảng phân loại KSIC, HS/K còn có phân loạikhác đó là phân loại nghề nghiệp KSOC [Korean standard classification ofoccupation], phân loại thương mại KTCphân loại theo loại hình kinh tế.- Vận dụng các bảng phân loại vào hoạt động kinh tế xã hội.+ Phân loại sản phẩm theo hoạt động nhằm mục đích để xây dựng một thểthống nhất về cấu trúc hệ thống phân loại kinh tế để phân loại hoạt động của đơn vịcơ sở, sản phẩm ...- Nguyên tắc:Cấp 6, 7 số [Phân loại sản phẩm theo ngành gốc] bao gồm toàn bộ ngành đãđược tạo ra để so sánh trực tiếp giữa sản phẩm với ngành hoạt động.Cấp 8 số [phân loại sản phẩm] bao gồm ngành khai thác mỏ, công nghiệpchế biến được tạo nên để so sánh trực tiếp giữa sản phẩm với ngành hoạt động.10Hầu hết cấp chi tiết 8 số này được kết nối với ISIC, CPC, HS vì thế KSIC cung cấpcho đối tượng sử dụng về dàn khung để so sánh trực tiếp giữa quốc gia với quốctế .+ Phân loại lao động theo việc làm nhằm mục đích phù hợp với các bảngphân loại và đáp ứng nhu cầu thị trường lao động, cung cấp thông tin về việc làmnhư thông tin tuyển dụng, thông tin đào tạo...+ Phân loại lao động theo nghề nhằm để phân loại theo kỹ năng trên cơ sởphân loại chuẩn nghề nghiệp KSCO.d. Giới thiệu một số vấn đề sửa đổi phân ngành chuẩn của Nhật BảnBảng phân ngành chuẩn của Nhật Bản [JSIC] lần đầu tiên sử dụng trongnăm 1949 và từ đó tới nay đã được sửa đổi 10 lần nhằm mục đích phản ánh tínhchính xác và khách quan của số liệu thống kê, đồng thời tăng cường khả năng sosánh và đáp ứng nhu cầu của người sử dụng số liệu thống kê. Bên cạnh mục đíchsử dụng cho ngành thống kê, JSIC còn được sử dụng cho một loạt các mục đíchnhư thuế, điều hành, quản lý của cơ quan Chính phủ. Các tổ chức quản lý nhà nướcvà giới doanh nghiệp đều cho rằng các dữ liệu thống kê đóng vai trò quan trọngtrong việc giúp họ có được quan điểm và tầm nhìn rõ ràng hơn trong quá trình đưara chính sách và chỉ đạo điều hành không gặp trở ngại nào. Ngoài ra, JSIC cònphục vụ cho các mục đích khác.- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ được sắp xếp theo chuyên ngành đặc biệttrong phân ngành chuẩn của Nhật [JSIC] sẽ được hưởng khoản đầu tư ưu đãi.- Đối với khu vực tư nhân: phân ngành chuẩn được sử dụng cho mục đíchphân tích và quản lý.Tuy nhiên, việc sửa đổi lần thứ 10 của JSIC đã gặp phải những thay đổi lớntrong cơ cấu ngành do sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghệ thông tin vàkỹ thuật viễn thông [ICT], sự đa dạng hoá của các ngành dịch vụ, sự giảm tỷ lệsinh và tăng tỷ lệ dân số già. Để phản ánh những thay đổi còn tồn đọng trong lầnsửa đổi của JSIC vào tháng 6 năm 1999 . Đến tháng 3 năm 2002 cơ quan soản thảoJSIC quyết định sửa đổi JSIC lần thứ 11. Dự thảo sửa đổi lần thứ 11 đã được Hộiđồng Thống kê và cơ quan cố vấn cho Bộ trưởng Bộ Thông tin thông qua vàotháng 1 năm 2002. Bản dự thảo JSIC lần này chủ yếu tập trung vào những điểmsau đây:+ Tuân theo những thay đổi không ngừng của cơ cấu ngành do sự phát triểncủa ngành công nghệ thông tin và sự đa dạng của các ngành dịch vụ;11+ Thiết lập các danh mục phân loại rõ ràng và sự chính xác của các kháiniệm nhằm nâng cao vai trò không thể thiếu được của ngành thống kê;+ Củng cố khả năng so sánh với các phân loại ngành quốc tế như ISIC,NACE và NAICS.Trong sửa đổi này có sự thay đổi lớn là xuất hiện thêm 5 nhóm ngành mớiH. Công nghệ thông tin và truyền thôngM. Kinh doanh ăn uống và nhà ởN. Chăm sóc sức khoẻ và phúc lợiO. Giáo dục và hỗ trợ học tậpP. Dịch vụ tổng hợpBảng tương ứng giữa các ngành trong sửa đổi phân ngành chuẩn ở Nhật vào2 năm 1993 và 2002:Năm 1993Năm 2002A. Nông nghiệpA. Nông nghiệpB. Lâm nghiệpB. Lâm nghiệpC. Ngư nghiệpC. Ngư nghiệpD. MỏD. MỏE. Xây dựngE. Xây dựngF. Chế biếnF. Chế biếnG. Cung cấp điện, ga, nhiệt và nướcG. Cung cấp điện, ga, nhiệt và nướcH. Giao thông vận tải và TTin liên lạcH. Thông tin và truyền thôngI.I.Bán buôn bán lẻ, nơi ăn, uốngGiao thông vận tảiJ. Tài chính và bảo hiểmJ. Bán buôn bán lẻK. Kinh doanh bất động sảnK. Tài chính và bảo hiểmL. Dịch vụL. Kinh doanh bất động sảnM. Cơ quan nhà nướcM. Kinh doanh ăn uống và nhà ở12N. Các đơn vị cơ sở chưa được phân vàoN. Chăm sóc sức khoẻ và phúc lợiđâuO. Giáo dục và hỗ trợ học tậpP. Dịch vụ tổng hợpQ. Các dịch vụR. Cơ quan Nhà nướcS. Các đơn vị cơ sở chưa được phânvào đâu.Hệ thống thống kê Nhật Bản là một hệ thống thống kê không tập trung và làtổ chức về tiêu chuẩn thống kê, ví dụ như Phân loại ngành chuẩn do Vụ tiêu chuẩnthống kê thuộc Cục thống kê tiến hành.đ. Giới thiệu phân loại thống kê của Trung QuốcVào năm 1984, Cục Thống kê Trung Quốc đã ban hành hệ thống phânngành kinh tế quốc dân lần đầu [CSIC]. Từ đó, hệ thống phân ngành và các phânloại thống kê đã không ngừng được hoàn thiện.Năm 1994, lần đầu tiên Cục Thống kê Trung Quốc sửa đổi CSIC theo phânngành chuẩn quốc tế [ISIC]. Trong lần sửa đổi này có tham khảo ISIC nhưng vẫncòn có sự khác biệt lớn về cấu trúc, và không thiết lập bảng tương thích so vớiISIC.Ngày nay, với việc toàn cầu hoá kinh tế thế giới, việc trao đổi số liệu trở nênthường xuyên hơn, sự so sánh số liệu đang ngày càng cấp thiết và quan trọng hơn.Vì vậy 3 năm trước, Cục Thống kê Trung Quốc đã bắt đầu một chương trình sửađổi bản phân ngành năm 1994. Trong lần sửa đổi này tập trung chủ yếu đến quanhệ tương thích và sự chuyển đổi giữa ISIC với CSIC. Cho đến nay, Cục Thống kêTrung Quốc đã hoàn thành bản sửa đổi phân ngành hiện hành. Tháng 5 năm 2002,bản phân ngành mới sửa đổi được Hội đồng Tiêu chuẩn Quốc gia thông qua, và hyvọng được sử dụng trong thống kê hàng năm vào cuối năm 2002.- Phân ngành mới phải phản ánh tình hình phát triển ngành kinh tế quốcdân13Phân loại thống kê quốc gia phải dựa trên các hoạt động kinh tế của đấtnước, và thống kê phải phản ánh được tình hình phát triển của mọi ngành kinh tế.Vì vậy, khi sửa đổi phân ngành cần chú trọng tới những yêu cầu quản lý nền kinhtế vĩ mô của quốc gia, cũng như các nhu cầu của cơ quan chính phủ khác. Mặtkhác, ISIC vẫn giữ cấu trúc của phân loại hiện hành, thêm một số ngành mới khinền kinh tế phát triển, và kết hợp một số nhóm ngành trong bản phân loại trước đó.- Phân ngành mới phải mang tính so sánh quốc tếBản phân ngành đang sử dụng có tham khảo ISIC, nhưng vẫn còn nhiềukhác biệt. Trong bản mới sửa đổi lần này, Cục Thống kê Trung Quốc thực hiệnmột số thay đổi để có thể so sánh tốt hơn với ISIC.Ví dụ, hoạt động “Khai thác gỗ và các dịch vụ có liên quan” được phân vàonhóm ngành cấp 1 “Khai thác mỏ“ của CSIC 1994, trong khi ISIC phân vào nhómngành cấp 2 “Lâm nghiệp”, vì vậy trong bản phân ngành mới đưa hoạt động trênvào ngành lâm nghiệp. Hoạt động “tách hạt bông” CSIC 1994 phân vào nhómngành cấp 1 “Hoạt động chế biến”, trong phân loại mới lần này chuyển nó vào hoạtđộng “Dịch vụ nông nghiệp” cho phù hợp với ISIC.- Phân loại theo nguyên tắc “tính thuần nhất của các hoạt động”Bản phân ngành mới lần này chú trọng hơn lần trước nguyên tắc thuần nhấtcủa các hoạt động khi tiến hành phân loại. Một số hoạt động ở bản CSIC 1994không thích hợp với nguyên tắc này, một số ngành cấp 4 được phân loại theo khuvực hành chính, vì vậy phải điều chỉnh lại loại nhóm ngành này và phân nó vàođúng vị trí. Sự thay đổi này tạo cho bản phân ngành mới hợp lý hơn bản CSIC1994.- Đặc điểm của bản phân ngành mớiBản phân ngành mới phân thành 20 ngành cấp 1, 95 ngành cấp 2, 396 ngànhcấp 3 và 912 ngành cấp 4 được chia ra như sau [xem bảng trang sau]:Mãcấp 1ATên ngành cấp 1Nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi độngvật và thuỷ sảnSốngànhcấp 2sốngànhcấp 3sốngànhcấp 45183814BKhai thác mỏ61533CCông nghiệp chế biến30169482DSản xuất và phân phối điện, khí đốt vànước3710EXây dựng4711FVận tải, kho bãi và bưu điện92437GTruyền đưa thông tin, dịch vụ máy tính vàphần mềm31014HBán buôn và bán lẻ21893IKhách sạn và nhà hang277JTài chính và bảo hiểm41616KBất động sản144LCho thuê và cho vay, dịch vụ thương mại21127M Nghiên cứu khoa học, dịch vụ kỹ thuật vàkhảo sát địa chất41923NBảo vệ nguồn nước, tài nguyên môi trường,quản lý cơ sở hạ tầng công cộng3817ODịch vụ nhà ở và các dịch vụ khác21216PGiáo dục đào tạo1513QY tế, trật tự an toàn và phúc lợi xã hội31117RHoạt động văn hoá, thể thao và giải trí52229SHoạt động của các tổ chức xã hội và tổchức quản lý chung51224THoạt động của các tổ chức quốc tế11195396912Tổng20e. Các phân ngành thống kê của Malaysia15Phân ngành chuẩn của Malaysia [MSIC] là phân loại các hoạt động kinh tếdo tổ chức Thống kê xây dựng cho các cơ sở hoạt động và các đơn vị thống kêkhác. Người ta thường sử dụng bảng phân loại này nhằm xác định phạm vi để phântổ các dữ liệu và biên soạn số liệu thống kê trong điều tra dân số và một số loạiđiều tra khác, ngoài ra còn dùng để thiết kế, xây dựng bảng hỏi trong các cuộc điềutra kinh tế xã hội có nhu cầu phân tổ theo các ngành kinh tế.- Nguyên tắc phân loạiMục đích của hệ thống phân ngành là để phân chia dữ liệu có tính chất vàquy trình hoạt động kinh tế tương tự nhau. Chính vì thế MSIC là phân loại các hoạtđộng kinh tế mà không phải là phân loại hàng hoá, dịch vụ hay nghề nghiệp. Thiếtkế của MSIC dựa trên hoạt động của các cơ sở kinh tế, để phân loại dựa vào cáchoạt động chính trên nguyên tắc sản xuất hàng hoá hay cung cấp dịch vụ bao gồmcác loại hình hoạt động như: tổ chức tư nhân, nhà máy, cửa hàng,... Phân ngànhkhông dựa trên quan hệ sở hữu, loại hình tổ chức kinh tế hay phương thức hoạtđộng.Trong hệ thống phân loại, các cơ sở kinh tế thường rất hiếm khi là “thuầnkhiết” theo nghĩa các hoạt động là hoàn toàn tách biệt nhau, sự khác nhau giữa cácngành được xác định theo nguyên lý sản phẩm hoặc hoạt động của các cơ sở kinhtế. Tuy nhiên, các hoạt động kinh tế phụ thuộc, không ảnh hưởng lớn có thể đượcphân sang ngành khác. Như vậy, kết quả là hoạt động của một ngành nào đó khôngnhất thiết hạn chế các hoạt động của một số ngành khác hoặc cũng có những hoạtđộng quan trọng, cần thiết nhưng không có trong ngành đó.Cơ sở kinh tế được xác định theo UNSD: “Đơn vị kinh tế đã được ký kết,đăng ký kinh doanh do sở hữu tư nhân hay điều hành bởi tư nhân, tồn tại dướinhững thực thể riêng lẻ hợp pháp, trong một hay phần lớn loại hoạt động kinh tếriêng lẻ” như hoạt động về bất động sản, hầm mỏ, nhà máy, cửa hàng, kho bãi củacơ quan,.... Nhưng có những trường hợp mà những thực thể, đơn vị ký kết nhiềuhơn một hoạt động kinh tế ở cùng một vị trí nhất định hoặc ở các vị trí khác nhaunhưng tương tự nhau. Vì thế các tài liệu liên quan đến đầu vào và đầu ra cũng sẽkhông được tách ra để phân tổ hay biên soạn số liệu thống kê. Trong trường hợpđó, rất cần thiết để sử dụng đơn vị bộ phận là đơn vị không chỉ thực hiện một hoạtđộng kinh tế, như vậy, đơn vị bộ phận bao gồm nhiều hoạt động có quan hệ vớinhau. Hoạt động chiếm phần lớn được coi như hoạt động chủ chốt và phần còn lạicoi như những hoạt động thứ yếu. Tuy nhiên, mỗi thay đổi của bất kỳ loại hoạtđộng nào của đơn vị bộ phận đều quan trọng, và người ta thường cố gắng phân nhỏ16đơn vị bộ phận thành những đơn vị thống kê từ đó có thể so sánh được như các cơsở kinh tế.Trường hợp các lĩnh vực hoạt động kinh tế chính như xây dựng, giao thông,liên lạc, mỗi thực thể hợp pháp riêng lẻ sẽ thực hiện cùng hoạt động vượt ra khỏiranh giới địa lý, các tài liệu có liên quan đến đầu ra và đầu vào sẽ không bị ảnhhưởng bởi khu vực địa lý. Trong lĩnh vực hoạt động này, cần thiết sử dụng đơn vịhoạt động [nó không bị giới hạn về yếu tố địa lý trong những loại hoạt động nhấtđịnh] trừ các cơ sở kinh tế như những đơn vị thống kê.- Cấu trúc của MSICTheo nguyên tắc, MSIC phân thành 4 cấp từ cấp II đến cấp V, mỗi cấp đượcthiết lập và xác định phạm vi đối với cấp sau.Ba cấp đầu tiên, cấp II, cấp III và cấp IV phù hợp sự phân loại trong ISIC.Trong cấu trúc cấp V [mức thấp nhất] theo nguyên tắc được thống nhất tuỳ theođiều kiện thực tế có thể. Theo cách này ngành cấp V được quy định theo đơn vị làcác cơ sở kinh tế. Điều này đảm bảo tính sát thực trong mỗi thời kỳ, giai đoạn củakinh tế Malaysia và các số liệu phân theo MSIC rất thuận lợi cho mục đích phântích. Như vậy, ngành cấp V sẽ được thành lập khi có các hoạt động kinh tế mớiphát sinh và có một tên gọi nhất định, riêng biệt đối với nền kinh tế Malaysia.Hệ thống mã số được sử dụng thống nhất với 4 cấp của MSIC. Theo hệthống này, các nhóm ngành phân chia các hoạt động kinh tế thành 60 ngành cấp II,mỗi ngành cấp II được ký hiệu bằng 2 số thập phân từ 01 đến 99, ở mỗi cấp độ caođược phân ra tối đa 9 cấp độ thấp hơn và được ký hiệu bằng cách thêm một số bắtđầu là số 1 vào sau mã của cấp độ trước, tuy nhiên nếu chỉ có một cấp độ nhỏ hơntrong cấp độ đó thì mã được thêm được ký hiệu thống nhất là số 0.Mặt khác, mỗi ngành cấp II được phân ra tối đa 9 ngành cấp III, mỗi ngànhcấp III được ký hiệu thống nhất bằng 3 chữ số thập phân đó là 2 số của mã củangành cấp 2 và thêm một số. Trong mỗi ngành cấp III được phân nhỏ tối đa 9ngành cấp IV, mỗi ngành cấp IV được ký hiệu bằng 4 chữ số, trong đó 3 số của mãngành cấp 3 và thêm một số, tiếp theo ngành cấp IV được phân ra tối đa 9 ngànhcấp V, nó được thống nhất bằng mã 5 chữ số.Nhìn chung, hệ thống ký hiệu, chú thích tạo thành bảng khái quát để phântích và công bố số liệu theo 4 cấp độ của MSIC. MSIC đưa ra bức tranh tổng thểnền kinh tế của Malaysia gồm 17 ngành cấp I được ký hiệu bằng các chữ cái.Sau đây là ví dụ minh hoạ phân loại:17Mã ngành Cấp độMãDTiêu đề, chú thíchChế biếnCấp II15Chế biến lương thực và đồ uốngCấp III151Sản phẩm chế biến từ thịt, cá, hoa quả, rau, dầuvà chất béoCấp IV 1511Sản phẩm chế biến từ thịtCấp VSản phẩm chế biến từ thịt gia cầm.15111g. Một số vấn đề về phân ngành kinh tế của SingaporePhân ngành kinh tế của Singapore [SSIC] được sử dụng trong các hệ thốngquản lý và các cuộc điều tra thống kê có yêu cầu phân loại các hoạt động kinh tế.Vì SSIC là phân loại thống kê quốc gia, nên Phân ngành kinh tế của Singapoređược dùng trong phạm vi thống kê rộng bao gồm thống kê về sản xuất, thu nhậpquốc dân và kinh tế; dân số và xã hội về lao động, việc làm và trong các phân tíchxã hội khác.Phân ngành kinh tế của Singapore được ban hành lần đầu vào năm 1958, vàđược sửa đổi thường xuyên cho phù hợp với những thay đổi mới xảy ra, đặc biệt lànhững thay đổi trong thời gian gần đây. Những thay đổi này diễn ra trong các hoạtđộng kinh tế, trong tổ chức và cơ cấu các hoạt động trong nền kinh tế Singapore,và để đáp ứng yêu cầu thống kê cần phân loại theo hoạt động kinh tế.Mọi sửa đổi về Phân ngành kinh tế của Singapore đều dựa trên cơ sở Phânngành theo tiêu chuẩn quốc tế cho mọi hoạt động kinh tế [ISIC]. Phân ngành kinhtế năm 1990 của Singapore được xây dựng trên cơ sở Phân ngành quốc tế sửa đổilần thứ 2 [1968]. Năm 1996 Singapore đã sửa đổi Phân ngành kinh tế cho phù hợpvới Phân ngành quốc tế sửa đổi lần thứ 3 [1990] và đưa vào áp dụng từ năm 1997.- Phân loại các hoạt động xuất bảnMột thay đổi quan trọng về Phân ngành kinh tế 2000 của Singapore làchuyển các hoạt động xuất bản từ khu vực sản xuất sang khu vực dịch vụ. Có sựchuyển đổi này là do hoạt động xuất bản và in ấn là các hoạt động riêng biệt. Hoạtđộng xuất bản [dưới dạng các sản phẩm in, CD-ROMs hoặc các hoạt động trực18tuyến] tạo ra các sản phẩm gốc, còn hoạt động in ấn chỉ liên quan đến việc nhânbản các sản phẩm gốc đó.Theo cách hiểu thông thường, cơ sở có các hoạt động xuất bản như xuất bảnsách, sách mỏng, sách nhạc, báo, tạp chí, tạp chí định kỳ không thực hiện in ấnđược phân loại vào nhóm ngành cấp 3 - các hoạt động xuất bản. Xuất bản phầnmềm và các hoạt động đa phương tiện, thư mục và ngân hàng dữ liệu cũng thuộcnhóm này.Các cơ sở đồng thời thực hiện cả hoạt động xuất bản và in ấn vẫn được phânvào nhóm ngành công nghiệp chế biến. Điều này là do thực tế chưa có hạch toánriêng cho hai loại hoạt động.- Các hoạt động kinh tế mới và các hoạt động nổi trộiNhiều mã ngành kinh tế mới được bổ xung thêm trong Phân ngành kinh tếsửa đổi gần đây của Singapore. Những mã ngành kinh tế mới này bao gồm cácngành kinh tế mới và những ngành kinh tế nổi trội trong nền kinh tế của Singaporetại thời điểm sửa đổi Phân ngành kinh tế. Một số mã ngành đã có cũng được chianhỏ để phản ánh những thay đổi trong các ngành kinh tế.- Công nghiệp chế biếnĐối với ngành công nghiệp chế biến, các ngành kinh tế mới đã được xácđịnh cụ thể bao gồm: Công nghiệp chế tạo thiết bị laze, các loại dụng cụ thăm dòvà ghép nối. Sản xuất các thiết bị viễn thông được chia thành 4 nhóm ngành 5 chữsố, đó là Thiết bị truyền hình, các Sản phẩm mạng máy tính, các Thiết bị liên lạckhông dây và các Loại khác. Một ví dụ khác về chia nhỏ mã ngành đã có là ởngành Tái chế chất thải kim loại/á kim và phế liệu, mã ngành 5 chữ số, được chiathành các ngành Tái chế chất thải kim loại và phế liệu, Cặn dầu và Chất thải á kimkhác.- Vận chuyển, kho tàng và thông tin liên lạcMột loại mã mới về các cơ sở thuộc ngành hậu cần được giới thiệu trongbảng Phân ngành kinh tế 2000. Việc đưa thêm mã mới đã thừa nhận sự hoà nhậpcủa các hoạt động ngày càng tăng của các cơ sở hiện đại, các cơ sở kinh doanh vềkho tàng. Hoạt động của các dịch vụ hậu cần đã tạo phạm vi rộng liên quan đếnphân phối hàng hoá. Các cơ sở hậu cần này bao gồm cả hoạt động kiểm kê và quảnlý vận chuyển.19Ví dụ khác về các ngành kinh tế 5 chữ số mới đưa vào trong Phân ngànhkinh tế SSIC 2000 gồm có nhóm thứ 3 hoạt động điều khiển mạng máy tính/thiếtbị truyền hình, các dịch vụ lưu trữ trang web và cà phê Internet. Những ngành kinhtế mới nổi là kết quả của sự đến với công nghệ thông tin và viễn thông, cũng nhưsự thâm nhập của Internet.- Trung gian tài chínhĐã có sự tăng lên đáng kể về các hoạt động quản lý tài chính ở Singapore.Trong Phân ngành kinh tế 2000, một loại ngành cấp 4 mới về các hoạt động quảnlý tài chính được tạo ra để nắm bắt ngành kinh tế mới xuất hiện này. Nhóm ngànhcấp dưới của ngành này là hoạt động của các công ty đầu tư kinh doanh, quản lý tàisản/danh mục vốn đầu tư, quản lý đầu tư tài sản [gồm cả các hoạt động uỷ thác đầutư bất động sản], và các dịch vụ tư vấn đầu tư.- Các hoạt động kinh doanh bất động sản, thuê mướnNhững ngành kinh tế mới được giới thiệu trong Phân ngành kinh tế 2000 ởphần này gồm hoạt động phát triển các ứng dụng về thương mại điện tử, các tổchức đánh giá tín dụng và các trung tâm gọi vốn tín dụng.Các hoạt động phát triển nghiên cứu và thực nghiệm thuộc nhiều lĩnh vựckhác nhau được chia nhỏ hơn trong Phân ngành SSIC 2000. Ngành 4 chữ số Nghiên cứu và phát triển thực nghiệm về khoa học tự nhiên và kỹ thuật được chiathành: Khoa học sự sống, điện tử, hoá học, kỹ thuật, công nghệ tin học và cácngành khoa học tự nhiên khác.Hoạt động về dịch vụ tư vấn kỹ thuật cũng được chia thành các loại khácnhau: Dịch vụ kỹ thuật xây dựng tổng thể, dịch vụ kỹ thuật máy móc thiết bị, dịchvụ kỹ thuật thiết bị công nghiệp, dịch vụ kỹ thuật môi trường và dịch vụ kỹ thuậtcơ sở hạ tầng.- Giáo dục đào tạoNhững ngành kinh tế mới nổi thuộc lĩnh vực Giáo dục chủ yếu tham giacung cấp các dịch vụ trợ giúp giáo dục. Ví dụ như các cơ sở tổ chức đào tạo vànâng cao trình độ quản lý, chuyên môn và các tổ chức cung cấp các điều kiện,trang thiết bị cơ bản cho hình thức giáo dục từ xa. Những ngành công nghiệp mớinày được đưa vào nhóm ngành cấp 5 trong Phân ngành kinh tế 2000, là cấp dướicủa ngành cấp 4 mới - Các dịch vụ trợ giúp giáo dục.- Y tế và hoạt động xã hội20Các hoạt động y tế thuộc ngành cấp 4 gồm các Hoạt động y tế khác được mởrộng thành các Hoạt động chăm sóc sức khoẻ khẩn cấp và các phương pháp mớiđưa vào dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản. Ví dụ như các dịch vụ X quang, cácdịch vụ quản lý thử nghiệm lâm sàng, các dịch vụ nội khoa lưu động và các dịchvụ chăm sóc sức khoẻ tại nhà.h. Những nhận xét chung về các hệ thống phân ngành của các nước- Nhìn chung các nước đều có những sự thay đổi nhất định về hệ thống phânloại ngành của quốc gia cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia;- Các nước đều có những sự điều chỉnh nhất định khi đưa ra hệ thống phânloại của quốc gia so với ISIC;- Các nước cũng vận dụng nguyên tắc cây ngành để phân loại;- Mức độ chi tiết khác nhau giữa các cách phân loại;- Phân loại nhằm tìm ra đặc trưng của từng ngành để có chính sách hỗ trợ,quản lý.1.4. Giới thiệu hệ thống phân ngành theo văn bản pháp luật Việt Nama. Hệ thống ngành kinh tế quốc dân ban hành theo Nghị định 75/CP ngày7/10/1993 của Chính phủ và Quyết định số 143/TCTK - PPCĐ ngày 22/12/1993của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê.Theo nghị định trên, hệ thống phân ngành cấp 1 của Việt Nam do chính phủquy định bao gồm 20 ngành:1. Nông nghiệp và lâm nghiệp;2. Thuỷ sản;3. Công nghiệp khai thác mỏ;4. Công nghiệp chế biến;5. Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước;6. Xây dựng;7. Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, môtô, xe máy, đồ dùng cá nhânvà gia đình;8. Khách sạn và nhà hàng;9. Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc;2110. Tài chính, tín dụng;11. Hoạt động khoa học và công nghệ;12. Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn;13. Quản lý Nhà nước và an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội bắt buộc;14. Giáo dục và đào tạo;15. Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội;16. Hoạt động văn hoá và thể thao;17. Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội;18. Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng;19. Hoạt động làm thuê công việc gia đình trong các hộ tư nhân;20. Hoạt động của các tổ chức và đoàn thể quốc tế.Đồng thời, tổng cục Thống kê ban hành văn bản pháp luật hướng dẫn xâydựng các nhóm ngành cấp 2,3,và 4 và chia theo các nhóm:Ngành cấp II gồm 60 ngành được ký tự bằng 2 chữ số từ 01 đến 99.Ngành cấp III gồm 159 ngành được ký tự bằng 3 chữ số từ 011 đến 990.Ngành cấp IV gồm 299 ngành được ký tự bằng 4 chữ số từ 0111 đến 99003/.b. Hệ thống ngành kinh tế theo Quyết định số Quyết định số 10/2007/QĐTTg ngày 23 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ, gồm các 21 nhómngành, 642 hoạt động kinh tế cụ thể.Ngành được chia theo nhóm chữ cái:Nhóm A: Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.Nhóm B: Khai khoáng.Nhóm C: Công nghiệp chế biến.Nhóm D: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điềuhòa không khíE: Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải.Nhóm F: Xây dựng.3Xem Nghị định 75/CP ngày 7/10/1993 của Chính phủ và Quyết định số 143/TCTK - PPCĐ ngày 22/12/1993 củaTổng cục trưởng Tổng cục Thống kê.22Nhóm G: Bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơkhác.Nhóm H: Vận tải kho bãi.Nhóm I: Dịch vụ lưu trú và ăn uống.Nhóm J: Thông tin và truyền thông.Nhóm K: Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm.Nhóm L: Hoạt động kinh doanh bất động sảnNhóm M: Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ;Nhóm N: Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợNhóm O: Hoạt động của Đảng Cộng Sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xãhội; quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng; bảo đảm xã hội bắt buộc;Nhóm P: Giáo dục và đào tạoNhóm Q: Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội;Nhóm R: Nghệ thuật, vui chơi, giải trí;Nhóm S: Hoạt động dịch vụ khác;Nhóm T: Hoạt động làm thuê, trông hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chấtvà dịch vụ tiêu dùng hộ gia đình;Nhóm U: Hoạt động của các tổ chức và cơ quan quốc tế.c. Nhận xét chung về cách phân ngành của Việt Nam qua 2 văn bản phápluật.Nhìn chung hai hệ thống phân ngành kinh tế đều chi tiết hóa cụ thể cácngành kinh tế cần phải quan tâm trong hoạt động quản lý nói chung và quản lý nhànước nói riêng theo từng ngành.Trong năm 1994, chính phủ chỉ thực hiện phân ngành kinh tế theo 20 nhómvà có thể dựa vào đó để tổ chức các cơ quan quản lý nhà nước theo ngành. Cònphân cụ thể giao cho Tổng Cục thống kê hướng dẫn. Đó cũng là những nội dungchi tiết cần quan tâm trong quản lý nhà nước.Văn bản pháp luật năm 2007 do thủ tướng chính phủ phê duyệt. Số nhómngành cấp 1 không khác nhiều so với 1994, nhưng nội dung cơ bản đã có nhiềuthay đổi. Và các nhóm cấp 2,3,4,5 cũng đều có sự thay đổi.23Số nhóm ngành và các nhánh ngành quy định cụ thể chi tiết: Hệ thống phânngành theo cây phân ngành.Bảng phân ngành:CấpCấp 1100200Cấp 2101, 102201, 202Cấp 31011, 10122011, 2012Cấp 410111, 1011220111, 20112Cấp 5101111, 101112201111, 201112Cấp 61011111, 10111122011111, 2011112Việc phân chia thành bao nhiêu cấp và mỗi cấp có thể gồm bao nhiêu ngànhtùy thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể của từng quốc gia.Về nguyên tắc cũng phù hợp hơn với sự vận động phát triển kinh tế - xã hộiViệt Nam giai đoạn hiện nay.2. Phân chia ngành để thiết lập cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhànước2.1. Phân chia hoạt động quản lý nhà nước theo ngànhPhân chia ngành kinh tế - xã hội mang tính tương đối. có thể phân chiangành theo nhiều mục đích khác nhau.Trong hoạt động quản lý nhà nước, có tính chất đặc biệt cần phải thiết lậpcác tổ chức để quản lý từng lĩnh vực cụ thể, nên việc phân chia phải dựa trên đòihỏi của quản lý nhà nước và đòi hỏi thiết lập các cơ quan nhà nước để quản lý. Nếuchưa có nhu cầu về quản lý, việc phân chia ngành chỉ mang tính kinh tế - chuyênmôn. Tuy nhiên, có hai cách chia:2.2. Chuyên môn hóa, ngành đặc thù [bộ chuyên ngành: Tài chính, ngoạigiao, công an,..]Nhiều lĩnh vực, ngành được phân chia mang tính đa ngành hay đa lĩnh vực,nhưng khi thiết lập quản lý, tuy theo mức độ đặc trưng, cần tập trung sẽ có cơ quanquản lý nhà nước trên một lĩnh vực rất hẹp, đơn ngành.24Đó là những bộ mang tính đặc trưng, ít thay đổi như Bộ Quốc phòng, BộNgoại giao cũng thường là những bộ dù thời đại nào cùng cần.2.3. Đa ngành [bộ đa ngành: văn hóa, thể thao, du lịch,…]Quan niệm về đa ngành trong lý thuyết phân ngành có thể khác với quanniệm đa ngành trong quản lý.Nhiều ngành có thể mức độ nhu cầu phát triển và quản lý nhà nước chưa đòihỏi phải tập trung; chưa có nhiều hoạt động. Do đó, có thể ghép lại thành nhiềungành và thành lập ra cơ quan quản lý nhà nước mang tính đa ngành.Mức độ ghép thành các bộ đa ngành vừa mang tính cải cách; nhưng đồngthời do nhu cầu quản lý. Cùng với sự vận động phát triển của quốc gia, các bộ đangành có thể phải tách ra thành những bộ đơn ngành, chuyên môn hóa cao. Ví dụ,nhiều nước có du lịch phát triển, trước đây có thể nằm trong một bộ đa ngành thìđã phải tách ra thành Bộ du lịch, chuyên quản lý nhà nước các vấn đề du lịch - pháttriển ngành công nghiệp không khói.2.4. Nguyên tắc phân chia ngành trong quản lý nhà nướcCó 2 vấn đề cơ bản gắn liền với nguyên tắc chia ngành để quản lý và tạo racác chủ thể để quản lý theo ngành:Vấn đề thứ nhất, các quốc gia cũng như Việt Nam phân chia theo ngành,một mặt để thống kê, phân tích nhưng cũng chính là để tiến hành hoạt động quảnlý nhà nước theo ngành.Về nguyên tắc, có bao nhiều ngành thì cũng sẽ có bấy nhiêu cơ quan quản lýnhà nước để tiến hành quản lý các ngành, lĩnh vực đó [tính chuyên môn hóa].Vấn đề thứ 2, trên quan điểm phân ngành, khi tổ chức các cơ quan quản lýnhà nước có thể không tổ chức trên tất cả các ngành mà tổ chức vừa mang tínhchuyên môn hóa [đơn ngành], nhưng lại mang tính tổng hợp [đa ngành]. Do đó sốlượng các đầu mối các cơ quan quản lý nhà nước theo ngành sẽ không trùng với sốlượng các ngành.Tuy nhiên, tùy theo từng giai đoạn cụ thể có thể việc tổ chức các cơ quanquản lý nhà nước theo ngành [có thể theo ngành hẹp] là cần thiết.Phân chia ngành để thành lập các cơ quan quản lý nhà nước là một vấn đềmang tính lý luận và thực tiễn.25

Video liên quan

Chủ Đề