Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông diễn ra vào Nam não

LTS: Nhân dịp kỷ niệm 70 năm chiến thắng chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 [1947-2017], đại tá Đặng Việt Thủy đã có bài viết chia sẻ về một cột mốc lịch sử đầy vinh quang và tự hào của dân tộc Việt Nam.

Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết này.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược [1945-1954], chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 là một trong những sự kiện lịch sử có tầm chiến lược, tác động đến tiến trình của cuộc chiến tranh cách mạng Việt Nam.

Đối với thực dân Pháp, đó lại là một thất bại nặng nề cả về quân sự và chính trị; chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" với đòn quyết định nhằm đè bẹp đối phương, nhanh chóng kết thúc chiến tranh, dựng chính quyền bù nhìn tay sai, nô dịch dân tộc ta một lần nữa, hoàn toàn bị phá sản; buộc quân Pháp phải bị động thay đổi chiến lược, kéo dài chiến tranh ngoài ý muốn.

Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 từ ngày 7/10 đến 20/12/1947 là chiến dịch phản công của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nhằm đánh bại cuộc hành quân lớn của Pháp lên Việt Bắc, bảo vệ căn cứ địa và cơ quan đầu não kháng chiến.

Bác Hồ cùng các chiến sĩ cách mạng tại căn cứ địa Việt Bắc [Ảnh minh họa: baotintuc.vn].

Tên gọi địa danh Việt Bắc - phần lãnh thổ phía Bắc của nước Việt Nam, xuất hiện trong thời kỳ vận động Cách mạng tháng Tám, bao gồm các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc, nơi có nhiều đồng bào dân tộc ít người cùng chung sống, là căn cứ địa vững chắc của cách mạng Việt Nam.

Rừng núi Việt Bắc trùng điệp, địa hình hiểm trở. Đường bộ và đường thủy ít và độc đạo. Phía đông bắc có đường số 4 chạy dọc theo biên giới Việt - Trung từ Móng Cái đến Cao Bằng. Đường số 3 từ Hà Nội chạy lên giữa lòng Chiến khu Việt Bắc, đi Thái Nguyên, Bắc Cạn và tới Cao Bằng. Đường số 2 từ Hà Nội lên Việt Trì, Phú Thọ, tới Tuyên Quang, Hà Giang. Đường thủy dọc sông Hồng lên ngã ba Việt Trì, rẽ theo sông Lô lên Tuyên Quang, rẽ theo sông Gâm tới Chiêm Hóa.

Trước ngày toàn quốc kháng chiến, cuối tháng 10/1946, thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Lương Bằng từ Hà Nội trở lại Việt Bắc chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến.

Các huyện Chợ Đồn [Bắc Cạn], Chiêm Hóa, Sơn Dương [Tuyên Quang], Định Hóa, Đại Từ [Thái Nguyên] được chọn làm An toàn khu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số phiên họp Chính phủ tại chiến khu

Từ tháng 11/1946, để bảo toàn lực lượng, các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, Bộ Tổng chỉ huy lần lượt rời Hà Nội lên Việt Bắc để lãnh đạo, tổ chức kháng chiến lâu dài.

Các binh công xưởng, xí nghiệp, nhà máy, gần 63 nghìn đồng bào miền xuôi và hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu được vận chuyển, sơ tán lên Việt Bắc để quân và dân ta vừa sản xuất vừa tiếp tục chiến đấu.

Về phía địch, đầu năm 1947, sau "Giải pháp chính trị" lập chính phủ bù nhìn bế tắc, thực dân Pháp đã quyết định dùng "đòn quân sự" để giải quyết chiến tranh Việt Nam và Đông Dương.

Nhận rõ vị trí chiến lược của Việt Bắc, tướng Va-luy [Valluy] - Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương đã giao cho tướng Xa-lăng [Salan] - Tư lệnh quân Pháp ở Bắc Đông Dương ráo riết chuẩn bị "Kế hoạch tiến công Việt Bắc".

Tháng 6/1947, Va-luy bay về Pháp để thông qua "Kế hoạch tiến công Việt Bắc"  trước nội các Ra-ma-đi-ê [Ramadier] và xin tăng viện [đầu tháng 7 Chính phủ Pháp đã thông qua kế hoạch này].

Ngay sau đó, 14 tiểu đoàn Âu - Phi trong lực lượng tăng viện đã đổ bộ lên miền Bắc Việt Nam. Một số đơn vị quân Pháp ở Nam Bộ cũng được điều gấp ra Bắc Bộ.

Lực lượng tham gia tiến công trên 10.000 quân gồm: 5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 3 đại đội cơ giới, 2 phi đội với 40 máy bay, 3 thủy đội xung kích với 40 tàu, xuồng.

Về phía ta, Bộ Tổng chỉ huy trực tiếp chỉ huy chiến dịch, đồng chí Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng. Lực lượng gồm 7 trung đoàn bộ binh của Bộ và các Khu 1, 10, 12, cùng với 30 đại đội độc lập và dân quân du kích 5 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.

Diễn biến tóm tắt của chiến dịch qua hai đợt như sau:

Đợt 1 từ ngày 7/10 đến 20/11/1947:

Pháp huy động hơn 10.000 quân thuộc các đơn vị đã nói trên hình thành hai gọng kìm kẹp chặt căn cứ địa Việt Bắc, trọng điểm là càn quét khu tam giác Bắc Cạn - Chợ Đồn - Chợ Mới.

Trên hướng đông, ngày 7 và 8/10 lực lượng quân dù do viên đại tá Sô-va-nhắc [Sauvagnac] chỉ huy bất ngờ nhảy xuống đánh chiếm Bắc Cạn, Chợ Mới, Chợ Đồn, đồng thời cánh quân của đại tá Bô-phrê [Beaufré] từ Lạng Sơn tiến theo đường 4, phối hợp với một bộ phận quân dù chiếm Cao Bằng [ngày 11/10] rồi theo đường 3 xuống Bắc Cạn.

Hướng tây, cánh quân của Com-muy-nan [Communal] từ Hà Nội ngược sông Hồng, theo sông Lô, đường 2, sông Gâm  lên Tuyên Quang [ngày 13 tháng 10], Chiêm Hóa [20/10].

Do phán đoán chưa đúng hướng tiến công của thực dân Pháp, ta bị bất ngờ lúc đầu nhưng Bộ Tổng chỉ huy đã đánh giá lại tình hình và qua nghiên cứu tài liệu về cuộc hành quân lấy được của địch, đã kịp thời điều chỉnh kế hoạch tác chiến.

Ta đã lập 3 mặt trận [Sông Lô, Đường số 4, Đường số 3], lấy đánh địch vận động trên bộ, trên sông là chính, tiến tới bẻ gãy từng gọng kìm của địch; đưa các đại đội độc lập về các địa phương phát động chiến tranh du kích.

Chiến sĩ pháo binh trong chiến dịch Việt Bắc [Ảnh minh họa: qdnd.vn].

Thực hiện chủ trương trên, ở hướng đông ta đánh nhiều trận phục kích trên đường số 4, nổi tiếng là trận Bông Lau [30/10]. Ở Bắc Cạn - đường 3, tập kích Chợ Mới [15/10], Chợ Đồn [21/10].

Ở hướng tây, đánh nhiều trận phục kích trên bộ, trên sông như trận ki lô mét 7 đường Tuyên Quang - Hà Giang [22/10], trận Sông Lô [ngày 23, 24/10 và 10/11/1947]...

Pháp không thực hiện được ý định hội quân ở Đài Thị, lực lượng bị dàn mỏng và tiêu hao nặng, ngày càng gặp khó khăn về vận chuyển, tiếp tế, buộc phải rút lui cục bộ ở một số nơi như Bản Thi, Yên Thịnh [28/10], Chợ Đồn [13/11], Chợ Rã, Ngân Sơn [16/11]...

Đợt 2 từ ngày 21/11 đến 20/12/1947:

Bị thất bại trong các cuộc hành quân trên, từ ngày 21/11/1947 Pháp bắt đầu bí mật rút quân khỏi Việt Bắc, đồng thời điều lực lượng từ Hòa Bình ra càn quét Hưng Hóa, đánh chiếm Việt Trì, cho quân nhảy dù xuống Thái Nguyên, Cù Vân, La Hiên, Tràng Xá để tạo bàn đạp và yểm trợ cho việc rút lui.

Ta kịp thời tổ chức lực lượng đánh địch trên nhiều hướng: tập kích đồn Phủ Thông [30/11], phục kích nhiều trận ở Sơn Dương, Bình Ca, Đèo Khế, Phan Lương, Đèo Giàng [15/12]...

Các cánh quân Pháp trên đường rút chạy đều bị đánh thiệt hại nặng, kế hoạch "vành đai" không thực hiện "siết chặt" được mà bị băm nát. Ngày 19/12/1947, đại bộ phận quân Pháp rút khỏi Việt Bắc. Cuộc hành quân của chúng thất bại hoàn toàn.

Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 của ta đã hoàn thành thắng lợi. Quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 7.200 tên địch, 18 máy bay địch bị bắn hạ, 16 tàu chiến và 38 ca nô bị đánh chìm, 255 xe các loại bị phá hủy. Ta thu 2 pháo 105mm, 7 pháo 75mm, 16 khẩu 20mm, 337 súng máy các cỡ, 45 Badôca, 1.660 súng trường, hàng chục tấn quân trang quân dụng.

Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 đã phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp, bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến, bảo toàn và nâng cao sức chiến đấu của bộ đội chủ lực, bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc.

Ta đã bẻ gãy, đập tan cả bốn mục tiêu của thực dân Pháp; đập tan ý đồ chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh", buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài để đối phó với ta.

Đây là chiến dịch đầu tiên giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, tạo ra bước ngoặt quan trọng, góp phần đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta phát triển sang một thời kỳ mới.

Với thắng lợi này, căn cứ địa Việt Bắc đã trở thành biểu tượng của niềm tin, của chiến thắng. Hai tiếng Việt Bắc thân yêu trở thành tên gọi của chiến công, đi vào lòng người, đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc, cổ vũ toàn dân, toàn quân ta trên mọi nẻo đường kháng chiến.  

Nhân kỷ niệm 70 năm chiến thắng Việt Bắc [1947-2017], chúng ta càng tưởng nhớ đến đồng bào, đồng chí đã ngã xuống trên các mặt trận Sông Lô, Đường số 3, Đường số 4, mùa khô năm 1947; đồng thời tưởng nhớ đến các anh hùng, liệt sĩ trên các chiến trường khác trong suốt những năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc để chúng ta có được ngày nay.

Tài liệu tham khảo:

- Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp [1945-1954], Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000.

- Bộ Quốc phòng - Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.

Đại tá ĐẶNG VIỆT THỦY

  • Nước Nga với hành trình khai thác và sử dụng khoảng không vũ trụ

Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947 [từ 7/10 đến 22/12/1947] là một chiến dịch quân sự do quân đội Pháp thực hiện tại Việt Nam trong chiến tranh Đông Dương, nhằm phá tan cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực của Việt Minh.Nhưng dưới sự chỉ đạo của Đảng, với ý chí và tinh thần quả cảm, quân và dân ta đã làm thất bại cuộc tiến công của quân Pháp, góp phần đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích trên toàn chiến trường Việt Bắc.

Bản đồ Chiến dịch Việt Bắc. Ảnh: wiki

Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Bộ đội ta công kích đồng loạt vào các vị trí quân Pháp, sau đó nhanh chóng chuyển sang bao vây, ghìm giữ quân địch ở Hà Nội và các thành phố, thị xã trên địa bàn cả nước.


Bị sa lầy tại các thành phố, thị xã, thực dân Pháp xúc tiến việc chuẩn bị một cuộc tiến công lớn lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt lực lượng chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta bằng chiến lược “đánh nhanh, giải quyết nhanh". Với trên trên 12.000 quân tinh nhuệ được trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại, quân Pháp hình thành hai “gọng kìm” lớn theo đường số 4, số 3 và phối hợp với cánh quân tiến theo sông Lô, sông Gâm nhằm bao vây chặt căn cứ Việt Bắc; đồng thời, cho quân nhảy dù xuống trung tâm chiến khu, tiến hành càn quét, tìm diệt chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta.


Ngày 7/10/1947, quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn mở đầu cuộc tiến công Việt Bắc. Chỉ một ngày sau, ngày 8/10, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi toàn thể đồng bào đoàn kết kháng chiến, ra sức giết giặc. Ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp".


Nghiên cứu thế lực của ta và địch trên chiến trường, Bộ tổng chỉ huy quyết định tập trung lực lượng đánh địch trên 3 mặt trận: “Đánh mạnh ở mặt trận Sông Lô; đường số 4 và đường số 3 nhằm phá vận tải tiếp tế địch, phục kích các đường rừng, đánh đường sông; tại những căn cứ của địch luôn quấy rối, với những vị trí nhỏ thì bao vây tiêu diệt để phối hợp với Việt Bắc”.


Bác Hồ cùng các chiến sĩ cách mạng tại căn cứ địa Việt Bắc.


Quân đội ta sử dụng các trung đoàn 147, 165 [chủ lực Bộ]; 72, 74, 121 [Khu 1]; 11, 36; 59; 98 [Khu 12]; 1 tiếu đoàn pháo binh và Trung đoàn Sông Lô [Khu 10]; 5 tiểu đoàn độc lập của Bộ, Khu 1 và Khu 12, các đơn vị binh chủng và du kích trên địa bàn chiến dịch. Chiến khu do Bộ Tổng chỉ huy trực tiếp chỉ huy, đồng chí Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng. Chiến dịch tấn công của quân Pháp bắt đầu thì chiến dịch phản công của quân đội ta tại Việt Bắc cũng bắt đầu.


Ngay từ những ngày đầu, Trung đoàn Vệ quốc quân tại Cao Bằng bắn rơi máy bay chỉ huy của quân Pháp, Đại tá Lambert - PTổng tham mưu quân viễn chinh Pháp cùng các cơ quan tham mưu chiến dịch của Pháp bị chết trong máy bay.


Ở mặt trận Sông Lô - Chiêm Hóa, địch vừa đổ bộ lên bến Bình Ca thì bị quân đội ta bắn chìm một pháo thuyền địch, tiếp đó diệt hơn một tiểu đội giặc lập chiến công đầu tiên trên sông Lô. Những trận đánh địa lôi, phục kích, bắn tỉa của quân đội ta làm cho quân đội Pháp không thể tiến theo các đường thủy, đường bộ, buộc chúng phải tiếp viện quân nhảy dù xuống Chiêm Hóa. Đoàn pháo binh cùng các binh đoàn chủ lực bắn chìm một số tàu chiến và ca nô của quân Pháp tại Đoan Hùng, Khoan Bộ, Khe Lau. Đường tiếp viện của quân Pháp từ Hà Nội lên bị cắt đứt.


Bộ đội pháo binh Sông Lô trong chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông 1947. Ảnh: qdnd.vn


Ở mặt trận đường số 4, các đại đội độc lập và quân dân du kích Cao Bằng, Lạng Sơn phục kích, bắn tỉa trên đường địch hành quân, tiến công tiêu diệt địch tại Đông Khê, Thất Khê. Tiểu đoàn tập trung Lạng Sơn lợi dụng địa hình đánh trận phục kích xuất sắc, diệt 33 xe cơ giới, gần 300 tên địch tại Bông Lau, thu toàn bộ vũ khí. Đường số 4 thành “con đường máu” của thực dân Pháp.


Ở mặt trận đường số 3, tự vệ quân giới phối hợp với dân quân dân tộc ít người đánh quân Pháp đi lẻ. Các tiểu đoàn tập trung thuộc Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy Chiến khu 1, tập kích, đánh địa lôi hàng trăm lính Pháp bị tiêu diệt trong công sự, cắt đứt đường tiếp viện của quân Pháp từ Cao Bằng xuống Bắc Kạn.


Các binh đoàn lớn của thực dân Pháp càng đi sâu vào căn cứ Việt Bắc càng bị chia cắt và hao mòn lực lượng.


Ngày 22/12/1947, cuộc chiến đấu chống địch tấn công Việt Bắc kết thúc thắng lợi. Việt Bắc đã trở thành "mồ chôn quân Pháp" với hơn 6.000 tên địch bị loại, bắn rơi 16 máy bay, bắn chìm 11 ca nô và tàu chiến và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh khác.


Chiến dịch Việt BắcThu - Đông 1947 diễn ra và giành thắng lợi trong thời gian tương đối ngắn trong cuộc kháng chiến trường kỳ, đã khẳng định đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, cùng nghệ thuật quân sự đặc sắc của Đảng ta, trong đó nổi bật là nghệ thuật xây dựng, tạo lập thế trận toàn dân đánh giặc rộng khắp, vững chắc ngay từ đầu và suốt quá trình chiến tranh.Đây cũng là một bài học thắng lợi được vận dụng trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho đất nước.

Trung tâm Thông tin Tư liệu/TTXVN

Vẹn nguyên khát vọng hòa bình - Bài 4: Hà Nội ngày trở về

Ngày 10/10/1954, đoàn quân chiến thắng trở về Hà Nội trong sự đón tiếp tưng bừng của nhân dân Thủ đô. Lớp lớp đoàn quân " Bộ đội Cụ Hồ" ca khúc khải hoàn trong biển người và hoa. Đường phố rực cờ đỏ sao vàng. Tiếng reo hò nổi lên như sóng dậy.

Chia sẻ:

Từ khóa:

  • Chiến dịch,
  • Việt Bắc,
  • quân Pháp,
  • chiến thắng,

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề