Chiến dịch nào buộc pháp ký hiệp định geneve năm 2024

Tóm tắt: Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương (1954) là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam kể từ khi có sự lãnh đạo của Đảng. Cho tới nay, đã có nhiều hội nghị, hội thảo và bài viết trao đổi về các vấn đề liên quan đến Hội nghị Genève và kết quả là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Đánh giá về vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu hay chính khách còn có những quan điểm khác nhau. Nhân kỉ niệm 69 năm (1954-2023) Hiệp định Genève được kí kết, nhìn lại quá trình diễn ra Hội nghị, và chủ trương, quyết định đàm phán tại Hội nghị của Đảng, kết quả của Hội nghị, qua đó đúc kết những kinh nghiệm trong quá trình đấu tranh ngoại giao của Đảng.

Từ khóa: Hội nghị Genève; hiệp định đình chỉ chiến sự; Việt Nam; 1954

1. Quá trình diễn ra Hội nghị Genève, chủ trương và những quyết định của Đảng Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi (7-5-1954). Đối với nước Pháp, thất bại ở Điện Biên Phủ làm tiêu tan cố gắng lớn nhất của giới cầm hi vọng giành thắng lợi bằng quân sự. Mặc dù có sự cản trở của phái chủ chiến, nhưng ngày 10-3-1954, Quốc hội Pháp vẫn thông qua nghị quyết hoan nghênh Hội nghị Genève để tìm giải pháp hòa bình, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương trong vòng 1 tháng. Ngày 25-1-1954, Hội nghị ngoại trưởng các nước Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp họp tại Béclin (Berlin). Ngày 18-2-1954, các bên thỏa thuận sẽ triệu tập Hội nghị quốc tế Genève để giải quyết vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương. Thủ tướng Ấn Độ và Ngoại trưởng Inđônêxia tuyên bố ủng hộ giải quyết vấn đề hòa bình ở Đông Dương. Trước những cuộc vận động quốc tế nhằm giải quyết hòa bình cuộc chiến tranh ở Đông Dương, trong bài trả lời phỏng vấn báo Thụy Điển Expressen ngày 26-11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lập trường và chủ trương của Việt Nam trong đàm phán: “Miễn là Chính phủ Pháp đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược thì cuộc đình chiến ở Việt Nam thực hiện. Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam…Nếu có những nước trung lập nào muốn cố gắng để xúc tiến việc chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam bằng cách thương lượng, thì sẽ được hoan nghênh, nhưng việc thương lượng đình chiến chủ yếu là một việc giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Chính phủ Pháp”1. Mặc dù vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Căn cứ vào lực lượng so sánh giữa ta và địch lúc này, điều kiện thương lượng hòa bình chưa chín muồi”2. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 26-4-1954, Hội nghị Genève được tiến hành và diễn ra qua ba giai đoạn. Hội nghị bàn về một giải pháp chính trị ở Triều Tiên, trong lúc quân Pháp ở Việt Nam đang lâm vào tình hình nguy kịch ở Điện Biên Phủ. Tuy nhiên, cuộc chiến chưa tới hồi kết thúc, nên các nước phương Tây chưa chịu chấp nhận sự tham gia hội nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đến ngày 1-5-1954, khi Quân đội nhân dân Việt Nam mở đợt tiến công cuối cùng vào Điện Biên Phủ, trước thất bại không thể cứu vãn, ngày 2-5-1954, Anh, Mỹ, Pháp vội vàng thông báo qua Liên Xô, chấp nhận sự có mặt chính thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị. Hội nghị bắt đầu thảo luận về vấn đề Đông Dương từ ngày 8-5-1954. Dự hội nghị có các đoàn đại biểu của 9 bên: Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia. Đại diện Phathét Lào và Khmer Issarak đã có mặt ở Genève nhưng không được các đoàn Mỹ, Anh và Pháp và Trung Quốc chấp nhận tham dự hội nghị3. Ngày 8-5-1954, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, bước vào Hội nghị với tư thế đại biểu một dân tộc vừa chiến thắng. Đoàn đại biểu Pháp do Ngoại trưởng Binđôn (Bidault) dẫn đầu, thông báo tin quân Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ và đề nghị về nguyên tắc một cuộc tổng ngừng chiến ở Đông Dương. Mục đích của Việt Nam, Pháp và các nước lớn có điều khác biệt, nhưng có điểm tương đồng là đến bàn đàm phán hòa bình. Cuộc đấu tranh tại Hội nghị Genève diễn ra gay gắt, phức tạp với sự đấu tranh quyết liệt của Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự dàn xếp của các nước lớn. Lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đình chỉ chiến sự trên toàn Đông Dương, giải quyết vấn đề quân sự và chính trị cùng một lúc cho cả ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước. Từ ngày 4-7-1954, tại Trung Giã, Hội nghị giữa hai đoàn đại biểu quân sự Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Bộ Tổng chỉ huy các lực lượng Liên hiệp Pháp ở Đông Dương được tiến hành, nhằm thảo luận các vấn đề quân sự do Hội nghị Genève đề ra và chốt lại những biện pháp thi hành quyết định của Hội nghị. Về phía Mỹ không muốn ràng buộc vào một giải pháp mà những nhượng bộ “vi phạm nghiêm trọng một số nguyên tắc mà Hoa Kỳ muốn bảo vệ”4, nên gây sức ép với các đoàn phương Tây nhằm đạt một giải pháp có lợi nhất đối với Mỹ. Từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, cuộc gặp giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tại Liễu Châu (Trung Quốc) được tiến hành. Thủ tướng Chu Ân Lai nói tình hình quốc tế yêu cầu có hòa bình, việc phân chia ranh giới tạm thời là nên châm chước một phần nào để tranh thủ những cơ sở pháp lý cho một cuộc tổng tuyển cử hòa bình thống nhất nước Việt Nam trong thời gian 2 năm. Trong đàm phán tại Hội nghị, Pháp đòi lấy vĩ tuyến 18 làm ranh giới tạm thời, nhưng do ta đấu tranh kiên quyết, Pháp, Anh và Mỹ đã rút xuống vĩ tuyến 17. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: với so sánh lực lượng trên chiến trường thì ranh giới tạm thời ở vĩ tuyến 13 là hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với Việt Nam là không thể chấp nhận, mà ít nhất cũng phải là vĩ tuyến 16, như Đồng minh đã chọn khi phân chia khu vực giải giáp vũ khí phát xít Nhật ở Đông Dương sau Chiến tranh thế giới II.5 Khi Hội nghị Genève đang ở giai đoạn cuối, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ sáu mở rộng (từ ngày 15 đến 17-7-1954), khẳng định: “tình thế trong nước phát triển ngày càng có lợi cho ta; địch đang gặp nhiều khó khăn lớn tuy chúng vẫn không ngừng giãy giụa”6. Trên cơ sở phân tích tình hình trong nước và quốc tế, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định sự nhất trí với đường lối “dùng phương pháp thương lượng để lập lại hòa bình ở Đông Dương” của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phương châm, sách lược đấu tranh của ta trong giai đoạn mới là “chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp, dựa trên cơ sở những thắng lợi đã đạt được mà phấn đấu để thực hiện hòa bình ở Đông Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mỹ kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương củng cố hòa bình và thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc”7. Hội nghị dự báo: “Cuộc đấu tranh của ta và phe ta ở Hội nghị Giơnevơ để lập lại hòa bình ở Đông Dương đã tiến triển thuận lợi và có khả năng đi đến Hiệp định đình chiến. Nhưng khó khăn còn nhiều, nhất là đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục phá hoại”8.

2. Kết quả Hội nghị Genève và Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam Trải qua 75 ngày (từ ngày 8-5 đến ngày 21-7-1954), với 31 phiên họp, trong đó có 7 phiên toàn thể và 24 phiên họp cấp trưởng đoàn9 , ngày 21-7-1954, các văn bản của Hội nghị Genève 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương đã được ký kết10. Sau thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ, căn cứ vào điều kiện cụ thể cuộc kháng chiến, cũng như so sánh lực lượng giữa ta và Pháp trong cuộc chiến tranh, theo xu thế chung giải quyết các cuộc xung đột trên thế giới bằng thương lượng; căn cứ vào thực trạng mối quan hệ giữa các nước lớn tham dự Hội nghị, nhất là giữa Trung Quốc, Liên Xô với Việt Nam lúc đó, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận ký Hiệp định. Hiệp định gồm các Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia; các phụ bản và bản đồ về khu vực tập kết, chuyển quân, ranh giới quân sự tạm thời và khu phi quân sự; bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị; các công hàm trao đổi giữa Phó Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Pháp Măngđét Phơrăng (Mendès France). Nội dung cơ bản của Hiệp định như sau: - Các bên tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của các nước Việt Nam, Lào và Campuchia là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước đó. - Ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn Đông Dương, lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương. - Thực hiện tập kết, chuyển quân theo khu vực và thời gian quy định. Ở Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 (dọc sông Bến Hải thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) làm giới tuyến quân sự tạm thời cùng với một khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến. Quân đội nhân dân Việt Nam tập kết ở phía Bắc, quân đội Liên hiệp Pháp tập kết ở phía Nam vĩ tuyến 17; thời hạn di chuyển hoàn toàn lực lượng hai bên không vượt quá 300 ngày. Ở Lào, lực lượng kháng chiến tập kết ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalì. Ở Campuchia, lực lượng kháng chiến phục viên tại chỗ. Vĩ tuyến 17 ở Việt Nam chỉ là ranh giới quân sự tạm thời, không phải là đường biên giới về chính trị, lãnh thổ. Sau 2 năm quân Pháp phải rút hết khỏi Việt Nam và nhân dân Việt Nam sẽ Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. - Cấm việc đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào các nước Đông Dương. Các nước Đông Dương không được tham gia bất cứ khối liên minh quân sự nào và không để cho nước khác dùng lãnh thổ của mình vào việc gây chiến tranh hoặc phục vụ cho mục đích xâm lược. - Không phân biệt đối xử, không trả thù những người đã cộng tác với bên này hoặc bên kia trong thời gian chiến tranh. - Trách nhiệm thi hành Hiệp định Genève thuộc về những người ký Hiệp định và những người kế nhiệm. - Ủy ban kiểm soát và giám sát quốc tế gồm Ấn Độ, Ba Lan và Canađa, do Ấn Độ làm Chủ tịch. Mỹ không ký vào bản Tuyên bố chung của Hội nghị, mà ra Tuyên bố riêng ghi nhận kết quả của Hội nghị. Như vậy, khác với phương án đấu tranh của ta, đàm phán hòa bình không phải là việc chủ yếu giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Pháp, mà có sự dàn xếp của các nước lớn; đường ranh giới quân sự tạm thời không phải là vĩ tuyến 13 hay vĩ tuyến 16, mà là vĩ tuyến 17; thời hạn tổng tuyển cử không phải là sau 6 tháng mà là 2 năm kể từ khi ký Hiệp định đình chiến11. Trước tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng, ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi quân đội, cán bộ và nhân dân ra sức phấn đấu để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước. Người khẳng định: “Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”11 12. Người chỉ rõ: “Đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ. Để giành lấy thắng lợi, toàn thể nhân dân, quân đội và cán bộ ta từ Bắc đến Nam cần phải đoàn kết chặt chẽ, tư tưởng phải thống nhất, hành động phải nhất trí”13.

Chiến dịch nào buộc pháp ký hiệp định geneve năm 2024
Hội nghị Giơnevơ (Thụy Sỹ) năm 1954 bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương

3. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm từ Hội nghị Genève đối với Việt Nam trong đấu tranh ngoại giao Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève đã kết thúc cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược; miền Bắc được giải phóng và tiến hành xây dựng CNXH, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Hội nghị Genève năm 1954 có các nước lớn trên thế giới tham dự, đã công nhận các quyền dân tộc cơ bản của dân tộc Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo cơ sở pháp lý để nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân Đông Dương nói chung, tiếp tục đấu tranh chống sự can thiệp và xâm lược của đế quốc Mỹ trong suốt 21 năm tiếp theo. Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Hội nghị Genève là dấu mốc lịch sử quan trọng của cách mạng Việt Nam: đánh bại đế quốc Pháp, giải phóng miền Bắc, tạo điều kiện để xây dựng miền Bắc vững mạnh thành hậu phương của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời, khẳng định vị thế của Việt Nam trước các nước lớn, đứng đầu là Mỹ. Thắng lợi đó góp phần phát triển cách mạng ở Lào và Campuchia, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc thúc đẩy quá trình sụp đổ tận gốc chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại Đại hội lần thứ III (1960) của Đảng nhận định: “Việc lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc Việt Nam đặt cơ sở pháp lý cho việc thống nhất nước ta là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta, đồng thời cũng là thắng lợi của phe xã hội chủ nghĩa, hòa bình và dân chủ trên thế giới. Nó phản ánh tình hình lực lượng so sánh ở Đông Dương và trên thế giới lúc bấy giờ. Thắng lợi to lớn đó không những tạo ra khả năng thực tế để thực hiện hòa bình thống nhất đất nước ta trên cơ sở độc lập và dân chủ, mà còn tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cách mạng ở miền Bắc tiến lên một giai đoạn mới”14. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, các nhà ngoại giao Việt Nam tham dự một hội nghị quốc tế lớn với nhiều bên tham gia, trực tiếp đàm phán với các nước lớn phương Tây, có sự phối hợp với các nước XHCN với tư cách một thành viên chính thức tại Hội nghị. Bài học đàm phán, và ký kết Hiệp định đã tạo tiền đề và kinh nghiệm cho thắng lợi của Hiệp định Paris năm 1973. Tiền đề và kinh nghiệm đó bao trùm mọi lĩnh vực của giải pháp chính trị, từ các vấn đề về nguyên tắc, nội dung, tổ chức và thể thức thực hiện, đến vấn đề nhân sự. Những thắng lợi đạt được và những hạn chế mà Hội nghị Genève và Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam chưa đạt được đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý cho quá trình đấu tranh ngoại giao của Đảng sau này. Thứ nhất, phải nắm chắc tình hình quốc tế và biết người, biết ta trong trong đàm phán. Để nắm chắc quyền chủ động trên bàn đàm phán, phải hiểu sâu sắc diễn biến tình hình quốc tế, hiểu rõ bản chất các mâu thuẫn quốc tế liên quan đến Việt Nam; đồng thời, phải hiểu được thế của mình, luôn nhận rõ mục tiêu, lợi ích và ý đồ chiến lược của các nước lớn. Thực tế, Liên Xô và Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều, đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Song, tại Hội nghị Genève, vì những tính toán về chiến lược và lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, các nước này đã có những biện pháp và bước đi không thuận cho cách mạng Việt Nam. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo đoàn đàm phán đứng vững trên lợi ích dân tộc, ứng xử linh hoạt, mềm dẻo nhằm hạn chế những tiêu cực trong diễn đàm đa phương do các nước lớn chi phối; đồng thời, cố gắng tối đa có thể, bảo vệ lợi ích chiến lược lâu dài của ta. Thứ hai, trong quá trình đàm phán, có thể phải nhân nhượng, thỏa hiệp, nhưng luôn bảo đảm nguyên tắc. Những điều khoản được ký kết trọng Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam còn có những hạn chế nhất định so với mục tiêu ban đầu Việt Nam đưa ra. Nhưng kết quả đó là điều không tránh khỏi trong điều kiện lịch sử cụ thể. Nhưng nguyên tắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất nước nhà đã luôn được đảm bảo nghiêm ngặt trong quá trình đám phán và ký kết Hiệp định. Bài học này còn nguyên giá trị đối với Việt Nam trên bước đường hội nhập quốc tế trong bối cảnh có nhiều thời cơ và thách thức đan xen hiện nay. Thứ ba, cần phải tăng cường sức mạnh đoàn kết quốc tế. Kinh nghiệm cho thấy, muốn thắng lợi trọn vẹn trước hết phải dựa vào sức mình là chính, đồng thời phải tranh thủ tình đoàn kết quốc tế và sự ủng hộ rộng rãi của các lực lượng yêu chuộng hòa bình và tiến bộ trên thế giới. Đặc biệt, phải củng cố tình đoàn kết gắn bó keo sơn giữa ba nước Đông Dương, “giúp bạn là tự giúp mình”. Thắng lợi của cách mạng mỗi nước cũng là thắng lợi chung của ba nước anh em và thất bại của mỗi nước cũng ảnh hưởng không tốt đến cả Đông Dương. Vì vậy, đoàn kết quốc tế, trong đó có đoàn kết ba nước Đông Dương là bài học sâu sắc đã được thực tiễn chứng minh. 69 năm đã trôi qua, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève vẫn in đậm dấu ấn trong tâm trí của nhiều thế hệ người dân Việt Nam và nhân loại tiến bộ trên thế giới. Thắng lợi ở Hội nghị Genève là thắng lợi của cuộc đấu tranh ngoại giao của Đảng, thực hiện nguyên tắc đối ngoại độc lập, tự chủ, bằng sức mạnh nội lực của dân tộc, bằng sự khôn khéo tranh thủ mọi sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, tạo cục diện quốc tế có lợi cho Việt Nam; qua đó đúc kết bài học quý, còn mang tính thời sự cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay.