Chẩn đoán KT là gì

Bảo mật & Cookie

This site uses cookies. By continuing, you agree to their use. Learn more, including how to control cookies.

Bất kỳ phản ứng kết KN-KT nào cũng nhằm mục đích xác định KT hoặc KN, có thể là định tính hoặc định lượng.

Định tỉnh

Kết quả định tính chỉ cho biết trong mẫu xét nghiệm có hay không có KT hoặc KN. Kết quả được ký hiệu bằng: các mức độ dương tính [+++, ++, +], không rõ dương tính hay âm tính [+/-], âm tính [-]. Các ký hiệu trên chỉ có ý nghĩa tương đối cho dù có mô tả cụ thể các hiện tượng tương ứng vối các mức độ, vì nó phụ thuộc vào chủ quan của người đọc.

Có những trưòng hợp chỉ cần định tính đã có giá trị chẩn đoán. Đó là các trường hợp xác định những KN hoặc KT mà bình thường không có trong những mẫu xét nghiệm lấy từ người khoẻ mạnh. Ngược lại đối vối những loại KN hoặc H có thể tìm thấy cả ỏ người bình thường thì chỉ định lượng mới có giá trị chẩn đoán.

Định lượng

Nhận định kết quả định lượng trong chẩn đoán huyết thanh

Phương pháp chẩn đoán gián tiếp các bệnh nhiễm trùng qua việc xác định KT trong huyết thanh được gọi vắn tắt là chẩn đoán huyết thanh học.

Nồng độ KT trong huyết thanh cao hay thấp được đánh giá qua hiệu giá KT- Hiệu giá KT là độ pha loãng huyết thanh lốn nhất mà phản ứng còn dương tính . Trong một số trường hợp, hiệu giá KT còn được tính bằng đơn vị kháng thể có trong một đơn vị thể tích huyết thanh, thí dụ như trong phản ứng ASLO hiệu giá KT là sôđơn vị ASLO trong 1 ml huyết.

Sau khi xác định hiệu giá KT, việc phân tích đánh giá kết quả phải dựa vào hiệu giá ranh giới [ngưỡng] giữa bình thường và bệnh lý, vì ngưòi khoẻ bình thưòng vẫn có thể có KT chông lại một số vi sinh vật. Tuy nhiên không phải cứ kcó hiệu giá kháng thể cao hơn ngưỡng là bệnh lý, và ngược lại cứ thấp hơn là người lành. Hiệu giá kháng thể càng cao hơn ngưỡng thì khả năng mắc bệnh càng lổn. Hiệu giá kháng thể càng thấp hơn ngưỡng thì khả năng mắc bệnh càng ít. Vối kết quả xét nghiệm cụ thể, phương pháp toán thống kê có thể cho biết độ tin cậy của kết ỉuận là bao nhiêu.

Việc xác định hiệu giá KT ỏ một thời điểm thường chưa đủ để có kết luận khắc chắn, cần phải tiến hành phản ứng 2 lần ồ 2 thời điểm cách nhau từ 7 đến ngày để tìm động lực KT. Động lực KT là đại lượng đặc trưng cho mức độ thay đổi hiệu giá kháng thể theo thòi gian

Động lực KT là thương sô [không phải là hiệu số] giữa hiệu giá KT lần thứ hai và lần thứ nhất. Khi KT đang tăng thì động lực lớn hơn 1. Khi KT không thay đổi thì động lực bằng 1. Khi KT đang giảm thi động lực nhỏ hơn 1. Mặc dù về lý thuyết khi động lực kháng thể lổn hơn Mà đang có KN kích thíeh cơ thể hình thành KT, nhưng trên thực tế động lực KT ít nhất phải bẵng 4 [tức là táng 2 bậc khi huyết thanh được pha loãng bậc 2] mối cổ giấ trị chẩn đoán chắc chắn là bệnh nhân đang mắc bệnh nhiễm trùng. Khi xét nghiệm lần tnứ hai nếu hiệu giá KT chỉ tăng hơn lẳĩí thứ nhất 1 bậc thì chưa chắc đã phải Ịà KT tăng thực sự hay chỉ do sai sổ kỹ thuật.

Video liên quan

Chủ Đề